Tải bản đầy đủ (.docx) (175 trang)

Sử thi Bahnar và số phận của nó trong xã hội đương đại luận án tiến sỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.01 KB, 175 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này
đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu!
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Thùy Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Khái niệm và mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
3. Đóng góp của luận án 5
4. Bố cục 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU 6
1.1. Vài nét về tộc người chủ thể của sử thi Bahnar 6
1.2. Tình hình nghiên cứu sử thi Bahnar 19
1.3. Lí thuyết và phương pháp nghiên cứu 38
CHƯƠNG 2. SỬ THI BAHNAR - SẢN PHẨM VĂN HÓA ĐẶC THÙ
CỦA XÃ HỘI TRUYỀN THỐNG 41
2.1. Nội dung và hình thức của sử thi Bahnar, sự phản chiếu bối cảnh
xã hội hình thành nó 42
2.1.1. Nội dung 42
2.1.2. Hình thức 57
2.2. Vai trò xã hội của sử thi Bahnar, sự đáp ứng nhu cầu lịch sử cụ thể 73
2.2.1. Vai trò liên kết cộng đồng 73
2.2.2. Vai trò bảo lưu và cung cấp kinh nghiệm hoạt động thực tiễn 78
2.2.3. Vai trò giáo dục đạo đức và thẩm mĩ 86
CHƯƠNG 3. KẾT THÚC HÌNH THỨC TỒN TẠI VỐN CÓ - SỐ PHẬN
CỦA SỬ THI BAHNAR TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI 97
3.1. Con đường từ quá khứ đến hiện tại của sử thi Bahnar 97
3.2. Tình hình bảo tồn, khai thác và phát huy di sản sử thi Bahnar 123
3.3. Xu thế vận động của sử thi Bahnar hiện nay và một số hướng


bảo tồn, khai thác, phát huy có thể nghĩ tới 141
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ
TRONG THỜI GIAN THỰC HIỆN LUẬN ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 170
NGHĨA CỦA CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU
ĐHQG Đại học Quốc gia
KHXH Khoa học xã hội
2
2
2
Nxb. Nhà xuất bản
TP. Thành phố
tr. Trang
UBND Ủy ban Nhân dân
xb. Xuất bản
// In trong
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Bahnar
1
, cư trú tại cao nguyên Nam Trung Bộ Việt Nam, có
một nền văn hoá độc đáo với các loại hình nghệ thuật phong phú trong đó bao
1 Đề tài thống nhất dùng từ Bahnar thay cho Bana, Banar, Ba Na… vì đây là tộc danh quen thuộc mà người
Bahnar thường sử dụng và chính xác hơn về mặt ngữ âm so với những cách ghi khác. Với những tài liệu sử
dụng các cách ghi ngoài Bahnar, chúng tôi cũng xin phép thay bằng từ này.
3
3
3

gồm các thiên sử thi mà người bản tộc gọi là h’mon
2
. Là thành tựu của nhóm
cư dân thuộc vào loại sinh sống lâu đời nhất ở bán đảo Đông Dương, sử thi
Bahnar nói chung mang đậm tính bản địa, rất ít hoặc hầu như không chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố ngoại lai như một bộ phận lớn sử thi của các dân tộc
Đông Nam Á khác. Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa h’mon với xã hội Bahnar
trong quá khứ, vì vậy, sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn những sản phẩm
nghệ thuật nội sinh rất tiêu biểu này của tộc người.
Những thay đổi nhiều mặt về kinh tế - xã hội và sự tác động của làn
sóng văn hoá đương đại trong mấy thập niên qua đã dẫn đến việc giải thể cấu
trúc văn hóa cổ truyền Bahnar ở các địa bàn dân cư với những mức độ khác
nhau. Sự tồn tại của h’mon nói riêng và sử thi các dân tộc Tây Nguyên khác
nói chung đã và đang gặp phải rất nhiều thách thức trong bối cảnh mới. Tương
lai nào sẽ chờ đợi h’mon, thiết nghĩ đó cũng là điều cần được quan tâm.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu những vấn đề vừa đề cập, tức tìm hiểu sử thi
Bahnar trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội của quá khứ và hiện tại hay
nói cách khác đặt nó dưới góc độ tiếp cận liên ngành của văn hoá học, cho đến
nay, về cơ bản vẫn chưa được tiến hành một cách có hệ thống. Vì thế, bổ sung
những nghiên cứu phù hợp vào khoảng trống này là điều cần thiết. Từ lí do
trên, với nguyện vọng đóng góp tiếng nói của mình, chúng tôi chọn Sử thi
Bahnar và số phận của nó trong xã hội đương đại làm đề tài nghiên cứu.
2. Khái niệm và mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khái niệm: 1) Sử thi Bahnar: Các sáng tác tự sự truyền miệng của người
Bahnar chủ yếu xoay quanh một nhân vật anh hùng được xem là biểu tượng
của cộng đồng tộc người trong lịch sử, có tên Dăm Giông; 2) Số phận: Sự
sống; 3) Xã hội đương đại: Xã hội của người Bahnar từ sau Đổi mới (1986).
2 Đề tài thống nhất dùng từ h’mon thay cho các cách viết khác nhau về tên gọi bản ngữ của sử thi Bahnar: hmon,
hơ mon, hơămon…
4

4
4
Sự xác định trên căn cứ vào định nghĩa của Từ điển tiếng Việt: 1. Sử thi:
“Tác phẩm lớn thuộc loại văn tự sự, miêu tả sự nghiệp của những người anh
hùng và các sự kiện lịch sử lớn” [129, tr. 877] - định nghĩa này nhìn chung
thống nhất với một số từ điển/ bách khoa thư chuyên ngành cũng như phổ
thông được chú ý trên thế giới hiện nay như Merriam Webster’s Encyclopedia
of Literature (1995), A Dictionary of Literary Terms and Literary Theory
(1998), Encyclopedia of Literature and Criticism (2000), The Cambridge
Encyclopedia (2000), The Encyclopedia Americana (2001), Compton’s
Encyclopedia (2001), The World Book Encyclopedia (2001), The New
Encyclopedia Britannica (2002),…; 2. Số phận: “Sự sống, sự tồn tại dành cho
mỗi người, mỗi sự vật” [129, tr. 866]; 3. Đương đại: “Thuộc về thời đại hiện
nay” [129, tr. 357].
Mục đích nghiên cứu: Xác định bản chất của h’mon với tư cách sản
phẩm của một bối cảnh lịch sử cụ thể, từ đó nhận diện số phận của nó trong
đời sống đương đại.
Đối tượng nghiên cứu: 1) Nội dung, hình thức và vai trò của h’mon như
là kết quả sự tương tác giữa tác phẩm và bối cảnh lịch sử hình thành nó; 2) Sự
sống của h’mon trong cộng đồng người Bahnar ngày nay.
Phạm vi nghiên cứu: H’mon và đời sống của nó tại Tây Nguyên trước
và sau Đổi mới. Những địa bàn nghiên cứu cụ thể được lựa chọn là Gia Lai và
Kon Tum, khu vực sưu tầm h’mon cơ bản kể từ khi phát hiện cho đến nay và
cũng là nơi cư trú tập trung của tộc người chủ thể (theo số liệu của Tổng điều
tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 [110], Gia Lai và Kon Tum là các
tỉnh có nhiều người Bahnar sinh sống nhất tại Việt Nam: với lần lượt hơn
150.000 và gần 55.000 trên tổng số 230.000 người). Hai địa phương này -
nhất là Gia Lai - còn lưu giữ tương đối rõ nét dấu ấn văn hóa cổ truyền
Bahnar, bao gồm sử thi, mặt khác cũng là nơi cho thấy rõ nhất những biến đổi
5

5
5
mọi mặt của tộc người trong những thập niên qua. Để đảm bảo tính đại diện,
các điểm nghiên cứu được thiết kế bao gồm cả nông thôn, thành thị và vùng
hỗn hợp.
3. Đóng góp của luận án
Đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống về h’mon dưới góc độ
văn hoá học nhằm xác định bản chất của h’mon trong mối quan hệ với bối
cảnh lịch sử - xã hội hình thành nó và chỉ ra số phận của hình thức văn hóa
độc đáo này trong xã hội đương đại.
Về mặt lí luận, qua việc giải quyết vấn đề nghiên cứu, luận án đề xuất
hướng vận dụng chính xác hơn một lí thuyết tuy đã được biết đến nhiều trong
việc nghiên cứu sử thi ở Việt Nam nói chung song sự vận dụng lâu nay còn có
điểm bất cập.
Về mặt thực tiễn, luận án đề xuất một số phương án ứng xử với sử thi
Bahnar, những tác phẩm nằm trong khối di sản văn hóa phi vật thể đang được
dư luận quan tâm hiện nay của Tây Nguyên, mà người làm chính sách có thể
tham khảo.
4. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án có 03 chương:
Chương 1. Tổng quan về những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu;
Chương 2. Sử thi Bahnar - sản phẩm văn hóa đặc thù của xã hội truyền
thống;
Chương 3. Kết thúc hình thức tồn tại vốn có - số phận của sử thi Bahnar
trong xã hội đương đại.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
6
6

6
1.1. VÀI NÉT VỀ TỘC NGƯỜI CHỦ THỂ CỦA SỬ THI BAHNAR
1.1.1. Quá trình lịch sử tộc người
Người Bahnar thuộc nhóm loại hình Indonedien của chủng Mongoloid
phương Nam [46, tr. 19 - 20], là dân tộc nói ngôn ngữ Mon - Khmer lớn nhất
ở Nam Trung Bộ và thứ hai ở Việt Nam, hiện sinh sống tập trung trên một
vùng lãnh thổ cơ bản là cao nguyên và núi rộng gần 1 vạn km
2
ứng với tọa độ
13
0
00 - 15
0
00 vĩ Bắc, 107
0
40 - 109
0
00 kinh Đông (bao gồm một phần tỉnh Gia
Lai, Kon Tum, Bình Định và Phú Yên).
Số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 [110]
cho biết, dân số Bahnar hiện nay là 227.716. Trong đó, tỉnh Gia Lai có
150.416 người, cư trú chủ yếu tại các huyện Mang Yang, Kon Chro, Kbang,
An Khê, Chư Sê và A Yun Pa Ku; tỉnh Kon Tum có 53.997 người, cư trú chủ
yếu tại thành phố Kon Tum và các huyện Đắc Hà, Kon Plông, Đắc Tô; tỉnh
Bình Định có 18.175 người, cư trú chủ yếu tại các huyện Vĩnh Thạnh, Vân
Canh, Hoài Ân và Tây Sơn; tỉnh Phú Yên có 4.145 người, cư trú chủ yếu tại
các huyện Đồng Xuân, Sông Hinh và Sơn Hoà.
Dân tộc Bahnar là sự tập hợp của một số nhóm địa phương mà cách xác
định trong các công trình nghiên cứu là không hoàn toàn giống nhau. P.
Guilleminet (1952) nói tới 07 nhóm: “Alakong”, “Tolo”, “Bơnơm”, “Gơlar”,

“Jơlong”, “Kontum” và “Rơngao” [32, tr. 5]. Nguyễn Hữu Thấu (1960) tuy
cũng nêu lên những cái tên này nhưng ngoài ra còn nhắc đến “Krem”, “Vân
Canh” và “Bằng Hường” là những nhóm chịu ảnh hưởng của người Chăm và
Kinh [97, tr. 42 - 43]. Lê Thị Ái (1969) bổ sung “Rơngao” ở phía bắc thị xã
Kon Tum
1
là bộ phận trung gian giữa người Bahnar với Xơđăng và “Kriêm” ở
phía bắc huyện An Khê là bộ phận Bahnar lai Chăm [1, tr. 50]. L. Schrock,
W.Jr. Stockton, E.M. Murphy và M. Fromme (1966), có tham khảo người đi
1 Nay là thành phố.
7
7
7
trước, thì liệt kê: “Alakong”, “Bonam”, “Golar”, “Ho Drong”, “Jo Long”,
“Kon Ko De”, “Kon Tum” và “To Sung” [173, tr. 1]. Con số lớn nhất được
đưa ra có lẽ là của Cửu Long Giang và Toan Ánh (1974) với “Bahnar Kon
Tum”, “Bahnar Jolong”, “Bahnar Golar”, “Bahnar Tosung”, “Bahnar
Konkođe”, “Bahnar Alatanag”, “Bahnar Alakong”, “Bahnar Tolotenil”,
“Bahnar Bơnom”, “Bahnar Roh”, “Bahnar Krem”, “Bahnar Chàm” và
“Bahnar But” [30, tr. 287 - 288]. Ngược lại, Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự
(1981) giới thiệu một sự phân loại giản lược hơn hẳn chỉ với 05 nhóm là
“Công Tum”, “Tồlồ”, “Gơlar”, “Rơngao”, “Giơlơng” và “Krem” [124, tr.
105]. Còn trong cuốn dân tộc chí gần đây nhất về người Bahnar vào năm
2006, chủ biên Bùi Minh Đạo và các đồng tác giả “căn cứ vào ý kiến của
chính người bản tộc” cho biết rằng nó có ít nhất 08 nhóm, bao gồm: 1.
“Tơlô”, cư trú ở huyện Kon Chro và huyện An Khê, tỉnh Gia Lai; 2. “Krem”,
cư trú ở huyện Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân và Tây Sơn, tỉnh Bình Định,
một số ít ở huyện Kbang, tỉnh Gia Lai; 3. “Vân Canh”, cư trú ở huyện Vân
Canh, tỉnh Bình Định; 4. “Thồ Lồ”, cư trú ở huyện Đồng Xuân, Sơn Hoà và
Sông Hinh, tỉnh Phú Yên; 5. “Gơ Lar”, cư trú ở các huyện Mang Yang, Đắc

Đoa và Chư Sê, tỉnh Gia Lai, một phần ở quanh thành phố Kon Tum, tỉnh
Kon Tum; 6. “Kon Tum”, cư trú ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; 7.
“Jơlơng”, cư trú ở quanh thành phố Kon Tum và huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon
Tum; và 8. “Rơngao”, cư trú tại thành phố Kon Tum và huyện Đắc Tô, tỉnh
Kon Tum [26, tr. 32 - 33].
Người Bahnar được xem là dân tộc bản địa
1
của Tây Nguyên. Giới
nghiên cứu ở Việt Nam cho đến nay vẫn ủng hộ giả thuyết rằng tộc người này
vốn sinh sống tại vùng trung Tây Nguyên nhưng đã bị các tộc người nói ngôn
1 Cụm từ “dân tộc bản địa” (khác với “dân tộc tại chỗ”) được dùng với nghĩa phân biệt người Bahnar với
những dân tộc cũng sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên nhưng không sớm bằng.
8
8
8
ngữ Nam Đảo nhập cư sau từng bước khống chế và đẩy lên phía bắc. Ngoài
ra, Đặng Nghiêm Vạn và Ngô Vĩnh Bình còn cung cấp thêm thông tin đáng
chú ý: “Một số tư liệu rời rạc thoáng qua cho ta thấy xưa kia họ có thể ở đồng
bằng và họ là một cư dân cổ xưa được người Chàm ghi trong bia kí của mình
là Mađa cư trú ở vùng ven biển Nghĩa Bình” [124, tr. 105 - 106].
Lịch sử tộc người Bahnar, có thể nói, gắn liền với lịch sử các dân tộc
Tây Nguyên. Theo các tác giả Dân tộc Bahnar ở Việt Nam, sau nhiều thế kỉ tự
trị, vùng đất của người Bahnar cũng như nhiều dân tộc Tây Nguyên khác
1
rơi
vào phạm vi ảnh hưởng của Champa trong khoảng thời gian từ giữa thế kỉ XII
đến giữa thế kỉ XV. Còn từ cuối thế kỉ XV - sau khi Lê Thánh Tông chinh
phạt thắng lợi vương quốc này - đến cuối thế kỉ XVIII, địa bàn sinh sống của
họ lại phần nào chịu ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột giữa Lào và Thái Lan.
Cuối thế kỉ XVIII, một bộ phận người Bahnar thuộc An Khê, Kbang và Kon

Chro ngày nay đã tham gia phong trào Tây Sơn chống chúa Nguyễn do anh
em Nguyễn Nhạc làm thủ lĩnh. Đến nửa đầu thế kỉ XIX, vùng đất của người
Bahnar và các tộc người Tây Nguyên khác trở thành phiên quốc của nhà
Nguyễn, với các tên “Trấn man”, “Thuộc quốc”, “Thuỷ vương quốc”, “Hỏa
vương quốc” Từ cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, nó nằm dưới sự
quản lí của thực dân Pháp [26, tr. 45 - 47]. Tuy nhiên, dù trải qua những biến
thiên lịch sử nhất định trong mười thế kỉ qua, cơ cấu kinh tế - xã hội cổ truyền
của người Bahnar cho đến trước Cách mạng tháng Tám là khá bền vững. Sau
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ kéo dài 30 năm
2
, tộc người này
đã trở thành thành viên của đại gia đình các dân tộc Việt Nam thống nhất vào
năm 1975.
1 Ngay từ thế kỉ thứ X sau Công nguyên, vùng đất của các dân tộc Tây Nguyên đã gần trùng với địa bàn cư
trú của họ vào đầu thế kỉ XX [72, tr. 182].
2 Do đến tận đầu thế kỉ XX toàn quyền Pháp ở Đông Dương mới ra nghị định sáp nhập Tây Nguyên vào Việt
Nam, ý thức “về quốc gia, quốc thổ” của người dân Tây Nguyên là “mới mẻ” và “chủ yếu có được qua hai
cuộc kháng chiến cứu nước trong thế kỉ XX” [24, tr. 105]
9
9
9
1.1.2. Đặc điểm môi trường tự nhiên của nơi cư trú
Về địa hình, nơi cư trú của người Bahnar là vùng thấp nằm ở phía
đông, bao gồm ba huyện An Khê, Kbang và Kon Chro của tỉnh Gia Lai, phần
miền núi của hai tỉnh Bình Định, Phú Yên và vùng cao nằm ở phía tây, bao
gồm các huyện Đắc Đoa, Mang Yang của tỉnh Gia Lai, thành phố Kon Tum
cùng các huyện Đắc Hà, Kon Rẫy và Kon Plông của tỉnh Kon Tum. Cả hai
vùng đều được tạo nên bởi thung lũng, cao nguyên và núi. Địa hình thung
lũng nhìn chung bằng phẳng, bao gồm: thung lũng Kon Tum, châu thổ của
sông Đắc Bla, sông Pô Kô thuộc thành phố Kon Tum và huyện Đắc Hà, tỉnh

Kon Tum; thung lũng sông Ba nằm ở ven sông Ba, thuộc các huyện Kbang,
An Khê và Kon Chro, tỉnh Gia Lai; thung lũng ven sông A Yun, thuộc các
huyện Đắc Đoa, Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Địa hình cao nguyên, tương đối
bằng phẳng, bao gồm cao nguyên Kông Hà Nừng thuộc các huyện Kbang, An
Khê, một phần cao nguyên Pleiku thuộc các huyện Đắc Đoa, Mang Yang,
Chư Sê, tỉnh Gia Lai và huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum. Địa hình núi bao gồm
các núi cao, trung bình và thấp, nằm rải rác trong vùng như He Reng, Mang
Yang, Kon Chro, Kon Plông [26, tr. 21].
Đất đai ở khu vực cư trú của người Bahnar bao gồm ba nhóm chính:
nhóm đất bazan chủ yếu phân bố ở cao nguyên, tập trung tại các huyện Đắc
Đoa, Mang Yang, tỉnh Gia Lai và huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum, rất thích hợp
cho việc phát triển cây công nghiệp như chè, hồ tiêu, cà phê, cao su ; nhóm
đất phù sa phân bố ở ven các sông Ba, Đắc Bla, Pô Kô và A Yun, thích hợp
cho việc phát triển lúa nước, các loại cây lương thực và cây thực phẩm; và
nhóm đất granite nằm trên các đồi núi, thích hợp cho việc phát triển kinh tế
lâm nghiệp [26, tr. 22].
Khí hậu tại nơi cư trú của người Bahnar, giống như toàn Tây Nguyên
nói chung, mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiều tiểu vùng khác
nhau. Một năm có hai mùa rất rõ rệt là mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10)
10
10
10
và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 3), trong đó mùa mưa ở các huyện phía
đông Nam Trung Bộ bắt đầu và kết thúc muộn hơn do chịu ảnh hưởng của
khí hậu đồng bằng. Điều kiện khí hậu này đã đem đến cho người Bahnar một
hệ động thực vật đặc biệt phong phú, trong đó có hàng chục loài đặc hữu chỉ
có ở Việt Nam hoặc Đông Dương [26, tr. 22 - 25].
Nguồn nước cũng được xem là một tiềm năng lớn cho hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của người Bahnar, bao gồm nguồn nước mưa, nước mặt và
nước ngầm. Nguồn nước mưa chiếm tỉ trọng cao nhất, tuy nhiên phân bố

không đều; tiếp đó là nguồn nước mặt, được tạo thành từ hệ thống sông chảy
về phía tây gồm sông Pô Kô và sông Đắc Bla cùng hệ thống sông chảy về phía
đông gồm sông Ba và sông A Yun; cuối cùng là nguồn nước ngầm, khá lớn, có
độ sâu 4 - 5 m vào mùa mưa và 12 - 15 m vào mùa khô [26, tr. 24 - 25].
1.1.3. Đời sống kinh tế - xã hội
1.1.3.1. Đời sống kinh tế
Các hoạt động mưu sinh chủ yếu của người Bahnar là trồng trọt, chăn
nuôi, làm nghề thủ công, khai thác và trao đổi các nguồn lợi tự nhiên.
Về khía cạnh trồng trọt, người Bahnar - cũng như các dân tộc Tây
Nguyên nói chung - là cư dân nương rẫy. Đất rẫy của mỗi hộ gia đình bao gồm
đất đương canh và hưu canh: mỗi đám rẫy được canh tác một năm rồi bỏ hoá,
sau khoảng mươi năm khi độ màu của đất phục hồi và rừng đã kịp mọc thì
khai thác trở lại. Chu trình canh tác được bắt đầu bằng việc chọn rẫy, và nơi
được chọn thường là những khu rừng thứ sinh có độ dốc vừa phải, gần nguồn
nước. Rẫy được phát vào khoảng giữa tháng 2 và được đốt một tháng sau đó.
Tiếp theo là khâu gieo trỉa, chăm sóc và bảo vệ. Năng suất lúa rẫy thường
không ổn định do phụ thuộc lớn vào thời tiết. Ngoài lúa là cây trồng chính,
người ta còn xen canh nhiều loại cây trồng khác nhằm cung cấp phần lớn nhu
11
11
11
yếu phẩm cho cuộc sống tự sản tự tiêu, đồng thời cũng hạn chế tình trạng đất
bị rửa trôi. Trong điều kiện tự nhiên và dân cư như trước đây, với kĩ thuật du
canh khép kín, nương rẫy Tây Nguyên nói chung được đánh giá là hệ canh tác
bền vững. Hiện nay, do sức ép dân số, việc luân khoảnh mở ở người Bahnar
cũng như các dân tộc tại chỗ khác trong vùng - tức canh tác liên tục nhiều
năm trên một đám rẫy - đang thay thế luân khoảnh kín. Tuy nhiên, ruộng khô
và ruộng nước được quan tâm phát triển hơn trước. Đáng chú ý, vườn đa canh
tự cung tự cấp của hộ gia đình ở nhiều địa phương đã và đang chuyển dịch
sang vườn chuyên canh cây công nghiệp [23, tr. 53 - 80, 173 - 190].

Chăn nuôi cũng đóng vai trò là một hoạt động sản xuất quan trọng ở
người Bahnar. Trước kia, gia súc và gia cầm được nuôi tương đối phổ biến ở
Tây Nguyên theo kiểu thả rông hoặc nửa thả rông (cho kiếm ăn và sinh sản
ngoài rừng) nhưng những thay đổi của môi trường và điều kiện sống gần đây
như rừng và nguồn nước không còn, không gian buôn làng bị thu hẹp, việc
định canh định cư trở nên phổ biến đã khiến đàn trâu và đàn dê bị suy giảm
nhiều. Mặc dù vậy, trâu vẫn tiếp tục được nuôi ở một số địa phương có đông
người Bahnar sinh sống như Mang Yang, Kbang, Kon Chro Đáng chú ý, bò
trở thành vật nuôi “mũi nhọn” của người Bahnar hiện nay với một số giống
nhập từ nước ngoài. Việc chăn nuôi ở người Bahnar đang ngày càng mang
tính chất một hoạt động sản xuất hàng hóa. Các kĩ thuật chăm sóc mới (nhốt
chuồng, tiêm phòng dịch, cho ăn theo chế độ ổn định…) đã thay thế các kĩ
thuật cũ [24, tr. 121 - 122].
Các nghề thủ công quen thuộc nhất của người Bahnar là đan lát và dệt
vải. Đồ đan lát của người Bahnar rất có tiếng. Từ nguyên liệu là mây, tre,
nứa…, sản phẩm đan lát chủ yếu là các loại gùi dùng trên rẫy. Gùi được đan
bởi nam giới vào lúc nông nhàn. Đan lát giỏi là dấu hiệu của sự khéo léo, vì
12
12
12
thế trước đây những người trẻ tuổi thích làm công việc này tại ngôi nhà công
cộng của làng - nhà rông. Việc dệt vải thì được thực hiện bởi phụ nữ. Họ chế
biến sợi từ cây bông trồng trên rẫy rồi nhuộm và dệt thành các tấm vải, cái sẽ
được dùng làm áo, váy, tấm choàng, chăn đắp… [142, tr. 58 - 60]. Hiện tại,
hai nghề thủ công nói trên đều đã suy thoái. Việc đan lát đang trở nên thưa
thớt do thiếu nguồn nguyên liệu và do sự có mặt ồ ạt của những sản phẩm
công nghiệp. Nghề dệt vải cũng không còn sức sống, ngoại trừ ở một số điểm
du lịch.
Người Bahnar trước đây, cũng như nhiều tộc người của Tây Nguyên,
thường khai thác các nguồn lợi trong tự nhiên từ việc săn chim thú, đánh bắt

thủy sản và hái lượm rau củ. Hai dạng săn bắn là săn tập thể và cá nhân đều
được thực hiện vào mùa khô. Ngoài ra, họ còn đặt các loại bẫy thú quanh rẫy,
nhất là vào trước thời điểm thu hoạch. Tuy nhiên, việc đánh bắt thủy sản với
những cách thức rất đa dạng như đắp bờ chặn suối, xúc, thả lưới, úp nơm,
quăng chài, tát cạn, thả lờ, câu đem lại nguồn thực phẩm thường xuyên
hơn. Người ta cũng tìm hái các loại rau, măng, nấm, quả… và đào các loại củ
có tinh bột để đáp ứng nhu cầu bữa ăn [26, tr. 81 - 86]. Nay, do rừng đã bị
mất phần lớn, các hoạt động săn bắn, hái lượm ở nhiều nơi mai một dần. Săn
bắn tập thể không có điều kiện tồn tại, chỉ còn lại hình thức săn bắn cá nhân
mà đối tượng là các loại chim thú nhỏ ở khu vực phía đông. Số lượng, trữ
lượng cá, côn trùng, nhuyễn thể và rau, củ, quả… trong rừng đều giảm sút rất
đáng kể, vì vậy việc khai thác các sản phẩm tự nhiên này cũng ngày càng trở
nên khó khăn [24, tr. 124 - 125].
Người Bahnar vốn ít giao lưu với bên ngoài, sống chủ yếu dựa vào
nương rẫy nên cho tới cách đây vài thập niên, nền thương nghiệp vẫn không
phát triển - đồng tiền chưa xuất hiện và việc trao đổi bằng hiện vật là phổ
13
13
13
biến
1
. Mỗi làng Bahnar thường có một đến vài người đi lấy hàng ở các làng
khác về đổi cho dân trong làng nhằm hưởng chênh lệch. Cũng có cả sự trao
đổi giữa người Bahnar với các thương đoàn người Kinh hoặc Lào. Vật được
trao đổi là gia súc, gia cầm, lương thực, sản phẩm dệt, chiêng, ché, muối, nồi
đồng, đồ sắt, lưới đánh cá Do nguồn lợi tự nhiên đáp ứng cho cuộc sống
khép kín ngày nay đã suy giảm, do tác động của kinh tế thị trường và do giao
thông phát triển, dịch vụ mua và bán hiện đang mở rộng tới tất cả các buôn
làng. Mặt hàng bán ra không chỉ là nông sản mà còn là lâm sản và sản phẩm
cây công nghiệp; mặt hàng mua vào không chỉ là các nhu yếu phẩm mà còn là

các tiện nghi sinh hoạt mới [26, tr. 79 - 80, 278].
1.1.3.2. Đời sống xã hội
Về tổ chức làng, làng của người Bahnar xưa - cũng như nhiều tộc
người Tây Nguyên khác - được điều hành bởi chủ làng do dân cử và hội đồng
già làng mà thường là những người cao tuổi, giàu kinh nghiệm và có uy tín,
trong đó trách nhiệm của chủ làng là giải quyết các vấn đề chung liên quan
đến đối nội (sản xuất, chiến đấu, dời làng…) và đối ngoại (chủ yếu là thương
thuyết trong các tranh chấp)
2
. Mỗi làng còn có thủ lĩnh quân sự, làm nhiệm
vụ chỉ huy thanh niên trong các xung đột với làng hoặc tộc khác. Hiện nay,
làng không còn là tổ chức xã hội duy nhất nữa
3
, và dĩ nhiên không phải đơn
vị hành chính mặc dù có thêm đại diện của một số ngành chức năng nhà nước
như cộng tác viên dân số, cán bộ khuyến lâm - khuyến nông, cán bộ y tế
cộng đồng Già làng tuy vẫn còn vai trò ở một số nơi nhưng vai trò này đã
1 O. Salemink [171] gợi ý rằng Tây Nguyên trong quá khứ đã có một nền thương nghiệp hướng ngoại. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, các thông tin mà tác giả này đưa ra cho thấy nó có một vài yếu tố hơn là đã có một nền
thương nghiệp hướng ngoại thực sự.

2 Tuy nhiên, tính dân chủ vẫn được đề cao. Chẳng hạn, trong việc “xét xử”, sự thảo luận diễn ra công khai và
các già làng thường quan tâm đến ý kiến của số đông khi đưa ra quyết định [79, tr. 26].
3 Nói chính xác thì trước kia người Bahnar còn có một tổ chức trên làng là t’ring, nhưng chỉ là liên minh
quân sự giữa các làng cùng gốc chứ không phải là liên minh xã hội - kinh tế. Theo Encyclopedia of World
Cultures (Vol.5: East and Southeast Asia) [159, tr. 30], t’ring của người Bahnar được tạo thành từ các làng
láng giềng, còn theo Dân tộc Bahnar ở Việt Nam, nó có thể bao gồm cả những làng cách xa nhau [26, tr. 93].
14
14
14

bị thu hẹp hơn khi nhìn chung chỉ tư vấn cho trưởng thôn trong việc triển
khai các chủ trương chính sách kinh tế - xã hội và xét xử các vụ vi phạm
phong tục. Ngoài ra, do tác động của các quá trình di dân tới Tây Nguyên, số
làng có sự xen cư giữa các dân tộc tại chỗ và dân tộc mới đến đang ngày
càng tăng, thậm chí nhiều buôn làng cũ của các dân tộc tại chỗ hiện chỉ còn
là một bộ phận của buôn làng mới [24, tr. 40 - 44, 132 - 141]. Về dòng họ và
gia đình, mỗi dòng họ của người Bahnar bao gồm các thành viên là con cháu
của một ông bà tổ trong một số đời còn nhớ được (khoảng 5 - 6 đời) nằm
trong hai nhóm: nhóm gần với các thành viên từ thế hệ thứ nhất đến thế hệ
thứ ba và nhóm xa với các thành viên từ thế hệ thứ tư trở đi, còn gia đình
người Bahnar vốn là những gia đình lớn gồm tới 3 - 4 thế hệ trực hệ và bàng
hệ với khoảng vài ba chục người trong một ngôi nhà dài
1
. Sự phân biệt nhóm
họ gần với nhóm họ xa chính là cơ sở để thực hiện nguyên tắc ngoại hôn
dòng họ không tuyệt đối của tộc người, tuy nhiên, cùng với việc một số hình
thức hôn nhân truyền thống như hôn nhân anh em chồng và chị em vợ (lấy
em trai của chồng/ em gái của vợ khi người phối ngẫu qua đời) hầu như
không còn, hôn nhân đời thứ tư trở xuống trong một dòng họ hiện cũng dần
bị thay thế bởi hôn nhân khác họ. Và mặc dù thiết chế hôn nhân - gia đình
Bahnar quen thuộc là song hệ, xu hướng vợ chồng ở riêng ngay sau khi cưới
thay vì cư trú luân phiên nội - ngoại đang trở nên phổ biến. Chức năng kinh
tế của hộ gia đình Bahnar đang biến đổi theo hướng giảm các hoạt động tự
cấp tự túc và tăng các hoạt động sản xuất hàng hóa, còn chức năng giáo dục
của nó được chia sẻ bởi hệ thống giáo dục các cấp và các tổ chức đoàn thể xã
hội [26, tr. 105 - 120, 282 - 285].
1.1.4. Văn hoá
1 Trước khi chuyển sang mô hình gia đình nhỏ chừng dưới 10 thành viên vào đầu thế kỉ XX.
15
15

15
Người Bahnar xưa theo tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Tín ngưỡng của
họ thể hiện ở nhiều lễ thức (lễ thức nông nghiệp, các lễ thức trong chu kì đời
người và các lễ thức cộng đồng) cùng kiêng kị. Những lễ thức nông nghiệp
cơ bản được ghi nhận ở một cộng đồng người Bahnar còn bảo lưu nhiều dấu
ấn văn hóa truyền thống ở Kon Tum cho đến nay là: lễ sửa lại lò rèn, lễ chọn
đất làm rẫy, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ trỉa rẫy, lễ cầu mưa, lễ tưới nước cho
lúa, lễ ăn lúa giống còn lại sau khi trỉa, lễ ăn lúa mới [106, tr. 56 - 126]. Về
các lễ thức trong chu kì đời người Bahnar, có thể kể đến: lễ cúng mang thai,
lễ cúng ba ngày sau sinh, lễ cúng thổi tai và đặt tên, lễ cúng cưa răng, lễ cúng
chạm vòng hứa hôn, lễ cúng đám cưới, lễ cúng đám tang Còn các lễ thức
cộng đồng quen thuộc thì có: lễ cúng rửa tội lỗi, lễ cúng máng nước
1
, lễ cúng
bỏ mả, lễ cúng nhà rông mới, lễ cúng sức khoẻ, lễ cúng chữa bệnh, lễ cúng
mừng chiến thắng Theo P. Guilleminet, người Bahnar rất tin vào điềm báo
từ giấc mơ và thường cố gắng “giải mã” những điềm báo đó để tránh rủi ro,
ngoài ra họ cũng thực hiện khá nhiều kiêng kị được quy định chặt chẽ trong
việc sản xuất, chiến đấu, lập làng, dựng nhà, mang thai, sinh nở, ốm đau, ma
chay [33, tr. 27, 36 - 37, 75 - 76]
Lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng cổ truyền quan trọng với người
Bahnar, thường diễn ra vào mùa khô. Trong lễ hội, người ta tổ chức đâm trâu,
cúng tế thần linh, uống rượu và tham gia sinh hoạt văn nghệ mà trong đó diễn
tấu cồng chiêng là tiết mục trung tâm. Lễ bỏ mả, do quy mô và do sự hội tụ
trong nó nhiều loại hình nghệ thuật và hiện tượng văn hóa, được xem là “đỉnh
điểm của mùa lễ hội” [16, tr. 26 - 27].
Nghệ thuật dân gian Bahnar - bao gồm nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật
tạo hình và nghệ thuật ngôn từ - được nhận xét là phong phú cả về nội dung
phản ánh lẫn hình thức biểu hiện đồng thời mang đậm bản sắc tộc người.
1 Có người xếp lễ thức này của người Bahnar vào nhóm lễ thức nông nghiệp [2, tr. 82].

16
16
16
Trước hết, về âm nhạc, có sự phát triển khá cân xứng giữa nhạc hát và
nhạc đàn ở người Bahnar, phần nào hơi nghiêng về nhạc đàn - một nét khác
biệt so với nhiều dân tộc thiểu số phía bắc [94, tr. 201]. Dân ca lao động, dân
ca sinh hoạt (hát ru, hát giao duyên, hát đồng dao ) và dân ca nghi lễ là
những mảng chính của nhạc hát, được thể hiện dưới hình thức hát đơn, hát đối
đáp hoặc hát tập thể. Về nhạc đàn, bộ nhạc khí của người Bahnar thuộc vào
loại đặc biệt phong phú trong sự so sánh với các tộc người khác ở Việt Nam.
Một công trình về nhạc khí ở Gia Lai, nơi cư trú tập trung nhất của người
Bahnar, đã giới thiệu số lượng rất đáng kể nhạc khí của tộc người này, bao
gồm: các loại có chất liệu thiên nhiên (nhạc khí gõ như hơ tơk đing, goong đe,
tôl alao, tôl mo, t’rưng, khing khung, trống và nhạc khí hơi như klong put,
t’pơl, alal, t’nôt, t’die\p, đinh đuk, avơng ), các loại có chất liệu thiên nhiên
kết hợp với kim loại (bro\h, k’ni và tinh ning) và các loại có chất liệu kim loại
(cồng chiêng, lục lạc và chũm chọe) [86].
Người Bahnar cũng rất yêu thích nghệ thuật múa. Những điệu múa phổ
biến của họ là: múa bỏ mả, múa mừng lúa mới, múa cúng máng nước, múa
mừng chiến thắng, múa trong tang lễ người chết Sinh hoạt múa nói chung
mang tính thiêng, vì thế thường chỉ diễn ra khi có lễ hội cộng đồng. Mặc dù
đều gắn với âm nhạc cồng chiêng, mỗi điệu múa thể hiện một sắc thái tình
cảm nhất định. Các động tác múa cho thấy sự phù hợp hoàn toàn với vận
động tự nhiên của cơ thể là những vận động thẳng trên tuyến ngắn, vừa bằng
độ co duỗi quen thuộc của chân tay. Lúc trình diễn, đội hình múa được bố trí
hoạt động theo vòng tròn ước lệ với hướng vận động từ đông sang tây là
những vòng tròn kín hướng tâm, vòng tròn được tạo bởi những cung lượn,
vòng tròn trên những không gian khác nhau được nối bởi vạch thẳng Các
điệu múa đều ít nhiều tái hiện hoạt động sản xuất của con người và có chứa
17

17
17
đựng dấu vết của các hoạt động khai thác tự nhiên là săn bắt và hái lượm [94,
tr. 132 - 162, 196 - 198].
Nghệ thuật điêu khắc và trang trí Bahnar được thể hiện rất sinh động ở
các ngôi nhà rông, nhà mồ và trên những tấm vải dệt cùng đồ đan lát. Mặt trời
là hình ảnh trang trí quen thuộc của nhà rông Bahnar [99, tr. 50 - 52], trong
khi đó các hoa văn hình chim, thú, lá cây, hoa, sóng lượn lại được chạm
khắc nhiều hơn ở nhà mồ [15, tr. 168 - 170]. Những tượng gỗ, đặc biệt về con
người, gắn với nhà rông [56, tr. 110, 121 - 123] hay nhà mồ [15, tr. 172 - 173]
là những công trình điêu khắc độc đáo phản ánh thế giới quan và nhân sinh
quan của tộc người. Hoa văn trên đồ dệt của người Bahnar khá phong phú -
một công trình nghiên cứu rất nổi tiếng cách đây gần 30 năm đã liệt kê được
tới vài chục đồ án như trái mây, mắt sâu, cườm chim cu gáy, gai mây, chân
nhồng, rau dớn, tổ ong, lá hlu, lá quạt, ổ nhện, hoa đót, người [89, tr. 24 -
27]. Hoa văn trên đồ đan lát thì ít hơn, tập trung vào hai loại là gùi mai rùa và
gùi hòm, trong đó phần trên và dưới thân gùi có motif giống nhau với hoa văn
hình học đơn giản còn phần giữa là các hoa văn động thực vật tương đối phức
tạp [26, tr. 243]. Nói chung, nghệ thuật tạo hình của người Bahnar được nhận
xét là có cảm hứng từ cảnh quan tự nhiên của rừng nhiệt đới.
Văn học Bahnar bao gồm nhiều thể loại như sử thi, truyện cổ tích, dân
ca, tục ngữ, câu đố
1
Truyện cổ tích Bahnar có số lượng tương đối lớn, tập
trung vào đề tài dũng sĩ diệt ác cứu người đẹp, người tài sắc đội lốt thú, người
em út tốt bụng, mối quan hệ dì ghẻ - con chồng, và trẻ mồ côi [77]. Dân ca
Bahnar phong phú về chủ đề: gia đình, quê hương, đời sống lao động, tình
yêu lứa đôi [112]. Tục ngữ Bahnar chứa đựng những kinh nghiệm sống đa
dạng và có tính giáo dục cao, trong khi câu đố thể hiện rõ nét tư duy trực quan
hết sức sinh động của tộc người [10]. Và nổi bật nhất trong kho tàng văn học

1 Gần đây, Nguyễn Quang Tuệ có giới thiệu hai tác phẩm của người Bahnar được ông nhận định là truyện
thơ: Duch Bum và Dăm Sơdang [117].
18
18
18
Bahnar chính là các sử thi, những tác phẩm lớn thuộc loại văn tự sự miêu tả
sự nghiệp của những người anh hùng và các sự kiện được xem là lịch sử buổi
đầu của tộc người. Theo những khảo sát gần đây, người Bahnar có tới trên
100 h’mon [111]. Nhiều người Bahnar cho biết, trước kia mỗi làng thường có
một vài nghệ nhân h’mon và những khi có lễ hội, dịp vui hay lúc rỗi rãi, đồng
bào vẫn tụ tập thưởng thức những tác phẩm đã chinh phục bao thế hệ công
chúng này.
Cũng như ở các dân tộc khác của Tây Nguyên, văn hóa của người
Bahnar hiện tại đang có những biến động lớn. Tín ngưỡng đa thần đã phai
nhạt - các nghi lễ thờ cúng thần tự nhiên và các kiêng kị chỉ còn được thực
hành ở lớp người có tuổi, trong khi lễ hội truyền thống ngày một ít xuất hiện.
Các hoạt động nghệ thuật quen thuộc lâu đời như múa, hát dân ca, tạc tượng
nhà mồ, kể sử thi cũng đều mai một nhanh chóng, điều mà chúng ta có thể
nhận thấy ở hầu khắp mọi địa bàn sinh sống của người Bahnar nhưng đặc biệt
rõ ở phía tây là nơi có nhiều người theo đạo. Cùng với việc có mặt ngày một
phổ biến các phương tiện truyền thông hiện đại, sự du nhập của làn sóng văn
hóa mới đã làm thay đổi đáng kể các nhu cầu trong đời sống tinh thần của
người dân nơi đây.
Có thể nói, quá trình lịch sử tộc người, đặc điểm môi trường tự nhiên ở
nơi cư trú và đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của người Bahnar mang một
số nét khá tiêu biểu cho các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên xưa và nay. Đó là
những gì hình thành nên các thiên sử thi trước đây cũng như quyết định số
phận của nó hiện tại.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SỬ THI BAHNAR
1.2.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu sử thi Tây Nguyên nói chung

19
19
19
Trước hết, cần nói đôi điều về tình hình sưu tầm sử thi
1
ở Tây Nguyên.
Sau khi người Pháp giới thiệu những tác phẩm sử thi đầu tiên (L. Sabatier với
Dăm Săn năm 1927, D. Antomarchi với Dăm Di năm 1955), nhiều công trình
sưu tầm do người Việt Nam thực hiện đã lần lượt được công bố: Trường ca
Tây Nguyên của Kơxo Blêu, Ngọc Anh, Y Yung và Y Điêng, năm 1963 (Nxb.
Văn học); Dăm Di đi săn của Y Đứp và Nông Phúc Tước, năm 1979 (Nxb.
Văn hóa); H’mon Dăm Noi - Trường ca dân tộc Bahnar của nhóm cán bộ Viện
Văn hóa - Bộ Văn hóa, năm 1982 (Nxb. Văn hóa); Xing Chơ Niếp - Trường
ca Êđê của Kpay Meo và Hà Nam Tiến, năm 1986 (Nxb. Văn hóa); Chi Lơ
Kok - Trường ca Êđê của Ka Sô Liễng, năm 1987 (Nxb. Văn hóa dân tộc); Sử
thi cổ sơ Mnông của Đỗ Hồng Kỳ và Điểu Kâu, năm 1993 (Nxb. Văn hóa dân
tộc); Trường ca Xing Chi Ôn của Ka Sô Liễng, năm 1993 (Nxb. Văn hóa dân
tộc); Cây nêu thần - Trường ca Mnông của Tấn Vịnh và Điểu Kâu, năm 1994
(Sở Văn hóa thông tin và thể thao Đắc Lắc); Chàng Mơhiêng của Bùi Khắc
Trường và Y Thi, năm 1995 (Nxb. Văn hoá dân tộc); Trường ca Hrê của
Nguyễn Văn Giai, năm 1995 (Nxb. Văn hóa dân tộc); Mùa rẫy bon Tiăng của
Điểu Kâu và Tấn Vịnh, năm 1996 (Sở Văn hoá thông tin Đắc Lắc); Dăm Săn
thời thơ ấu của Niê Kđăm Linh Nga và Y Khem, năm 1999 (Nxb. Văn hóa
dân tộc); Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đa\ của Ka Sô Liễng, năm 2000 (Hội
Văn nghệ dân gian và văn hóa các dân tộc Phú Yên); Sử thi Bahnar Konkđeh
của Hà Giao và cộng sự, năm 2002 (Nxb. Đà Nẵng); Hbia Tà Lúi - Kalipu của
Ka Sô Liễng, năm 2003 (Nxb. Văn hóa dân tộc) Đặc biệt, thời điểm từ thập
kỉ 80 - 90 của thế kỉ XX đến nay được gọi là thời kì phát hiện lại sử thi Tây
Nguyên do số lượng tác phẩm sưu tầm vượt hẳn các giai đoạn trước. Riêng
1 Ở Việt Nam, sử thi trước đây còn được gọi là anh hùng ca. Đáng chú ý, với sử thi các dân tộc thiểu số của

nước ta, từ năm 1981 Phan Đăng Nhật đã sử dụng cách cấu tạo thuật ngữ tiếp thu từ nước ngoài là ghép tên
gọi đối tượng của chính dân tộc chủ thể với từ chỉ thể loại văn học để đặt ra các thuật ngữ như sử thi - mo, sử
thi - khan… Chúng tôi đồng tình với cách làm hợp lí này (vì như nhà nghiên cứu giải thích, không phải mo,
khan… nào cũng là sử thi). Trong luận án, để giản tiện, chúng tôi dùng từ h’mon với nghĩa “sử thi - h’mon”.
20
20
20
trong các năm 2004 - 2007, hàng loạt sử thi của các dân tộc Bahnar, Mnông,
Êđê, Raglai, Xơđăng, Xtiêng, và Chăm Hroi trong khuôn khổ Dự án Điều tra,
sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên, được
phối hợp thực hiện giữa Viện KHXH Việt Nam và các tỉnh Tây Nguyên, đã ra
mắt công chúng. Dự án Biên dịch, biên tập 25 sử thi Tây Nguyên triển khai
trong thời gian 2009 - 2011, tiếp nối Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên
dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên, đã giới thiệu thêm nhiều tác
phẩm khác, làm hoàn chỉnh hơn bức tranh sử thi Việt Nam và Tây Nguyên.
Có thể nói, nếu ở giai đoạn đầu, vì những nguyên nhân chủ quan và khách
quan, việc sưu tầm sử thi còn thưa thớt, phương pháp thực hiện (không kể các
công trình của người Pháp) còn thiếu chuyên nghiệp, thì càng sang đến những
giai đoạn sau, nó càng được tiến hành một cách quy mô và chuẩn mực hơn -
phần lớn các tác phẩm đã được sưu tầm theo nguyên tắc khoa học và có phần
bản ngữ.
Ở nước ta, việc nghiên cứu sử thi Tây Nguyên một cách tập trung mới
bắt đầu từ năm 1975, tức gần nửa thế kỉ sau khi sử thi đầu tiên được công bố.
Đến nay, có thể xếp các công trình nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên
vào 03 nhóm.
Thứ nhất, nhóm công trình mang tính khái quát về sử thi của cả vùng.
Thuộc loại này có thể kể đến: “Vẻ đẹp hoành tráng và nên thơ trong trường ca
Tây Nguyên” của Bùi Văn Nguyên (Tạp chí Văn học, số 1, năm 1975); “Một
cách tiếp cận các trường ca Tây Nguyên” của Chu Thái Sơn và Nguyễn Chí
Huyên (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, năm 1992); “Sử thi Tây Nguyên với

hiện thực lịch sử Tây Nguyên” của Phan Đăng Nhật (Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 2, năm 1984); Sử thi anh hùng Tây Nguyên
1
của Võ Quang Nhơn
1 Công trình được phát triển từ luận án có tên Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây Nguyên, bảo
vệ năm 1981 tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
21
21
21
(Nxb. Giáo dục, năm 1997); Vùng sử thi Tây Nguyên của Phan Đăng Nhật
(Nxb. KHXH, năm 1999); “Những đặc trưng thẩm mĩ của hệ thống sử thi anh
hùng Tây Nguyên” của Phạm Nhân Thành (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6,
năm 2001); “Sử thi Tây Nguyên, phát hiện và các vấn đề” của Ngô Đức Thịnh
(Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, năm 2002); Trường ca, sử thi trong môi
trường văn hóa dân gian Tây Nguyên của Niê Kđăm Linh Nga (Nxb. Văn hóa
dân tộc, năm 2005); “So sánh chiến trận trong sử thi cổ sơ Tây Nguyên và sử
thi cổ đại Hi Lạp Iliat” của Lê Thị Thùy Ly (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5,
năm 2007); “Bàn thêm về thuộc tính loại hình sử thi ở Việt Nam (Qua Kho
tàng sử thi Tây Nguyên mới xuất bản)” của Nguyễn Việt Hùng (Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 1, năm 2008); “Ngôn ngữ được sử dụng trong sử thi Tây
Nguyên” của Trương Thông Tuần (Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 1, năm
2008), “Sử thi Tây Nguyên và văn hóa ẩm thực” của Phạm Văn Hóa (Tạp chí
Nguồn sáng dân gian, năm 2010); Hệ thống nghệ thuật của sử thi Tây
Nguyên
1
của Phạm Nhân Thành (Nxb. ĐHQG Hà Nội, năm 2010); “Về thể
loại sử thi thần thoại ở Tây Nguyên” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn học, số 3,
năm 2010); Sử thi Tây Nguyên với cuộc sống đương đại của Phan Đăng Nhật,
Chu Xuân Giao và cộng sự (Nxb. ĐHQG Hà Nội, năm 2010); “Hình tượng
người đẹp Tây Nguyên trong sử thi” của Phạm Văn Hóa (Tạp chí Khoa học

xã hội Việt Nam, năm 2012)
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu sử thi của một tộc người. Thuộc
loại này có: “Ot ndrong - Sử thi cổ sơ Mnông” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 3, năm 1990); Sử thi Êđê
2
của Phan Đăng Nhật (Nxb. KHXH,
năm 1991); “Vũ trụ quan và người anh hùng văn hoá trong sử thi ot ndrong của
người Mnông” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5, năm 1992);
1 Công trình được phát triển từ luận án có tên Hệ thống nghệ thuật của sử thi anh hùng Tây Nguyên, bảo vệ
năm 2001 tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
2 Công trình được phát triển từ luận án có tên Những đặc điểm cơ bản của sử thi khan ở Việt Nam, bảo vệ
năm 1989 tại Solfia, Bulgaria.
22
22
22
“Cốt truyện và nhân vật trong sử thi của người Mnông” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 1, năm 1993); Sử thi thần thoại Mnông
1
của Đỗ Hồng
Kỳ (Nxb. KHXH, năm 1996); “Otnrong - một bộ sử thi phổ hệ mới được phát
hiện” của Phan Đăng Nhật (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, năm 1998); “Sử
thi của người Mnông” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, năm
2002); “Những phát hiện mới xung quanh sử thi nrong” của Tô Đông Hải (Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 4, năm 2002); “Diện mạo ndrong - sử thi Mnông” của
Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5, năm 2002); Văn hoá mẫu hệ
qua sử thi Êđê
2
của Buôn Krông Tuyết Nhung (Nxb. Văn hóa dân tộc, năm
2010); “Sự ra đời thần kì của người anh hùng trong sử thi - khan Êđê” của
Phạm Đặng Xuân Hương (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, năm 2007); “Hệ

thống nhân vật anh hùng của sử thi Mnông” của Nguyễn Thị Mỹ Lộc (Tạp chí
Nguồn sáng dân gian, số 2, năm 2009); “Phương thức tồn tại và tình hình sưu
tầm, nghiên cứu khan sử thi” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
12, năm 2009); Công thức truyền miệng trong sử thi - ot ndrong
3
của Nguyễn
Việt Hùng (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2011); “Sự biến thái của
kiểu cốt truyện “cuộc chiến cứu người đẹp” trong sử thi Bahnar” của Phan
Thị Hồng (Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 1, năm 2012); “Sự đặt tên
thế giới và con người, từ thần thoại đến sử thi thần thoại Mnông” của Nguyễn
Việt Hùng (Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 1, năm 2013)
Thứ ba, nhóm những công trình đề cập đến một tác phẩm cụ thể, mà
chủ yếu là Dăm Săn. Đó là: “Tìm hiểu giá trị Bài ca chàng Dăm Săn” của Chu
Xuân Diên (Tập san Nghiên cứu văn học, số 3, năm 1960); “Mấy vấn đề về
anh hùng ca Dăm Săn” của Lê Văn Khoa (Tạp chí Văn học, số 6, năm 1982);
“Sử thi Dăm Săn và phương pháp nghiên cứu văn hoá dân gian” của Phan
1 Công trình được phát triển từ luận án cùng tên, bảo vệ năm 1994 tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội.
2 Công trình được phát triển từ luận án có tên Văn hoá mẫu hệ trong sử thi Êđê, bảo vệ năm 2007 tại Khoa
Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
3 Luận án.
23
23
23
Đăng Nhật (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, năm 1986); “Phương thức tự sự
chủ yếu của sử thi Dăm Săn” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí Văn hóa dân gian, số
5, năm 2001); “Một bản anh hùng ca Dăm Săn mới chuyển thể thơ” của Phan
Đăng Nhật (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, năm 2005); “Trao đổi ý kiến về
phần sử thi Dăm Săn trong sách giáo khoa” của Phan Đăng Nhật (Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 6, năm 2005); “C|uê n\uê của người Êđê trong cuộc sống và

c\uê n\uê được phản ánh trong sử thi Dăm Săn” của Đỗ Hồng Kỳ (Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 3, năm 2005)
Có hai sự kiện lớn trong quá trình nghiên cứu sử thi Tây Nguyên cần nói
đến là các hội thảo khoa học diễn ra trong thập niên cuối của thế kỉ XX và thập
niên đầu của thế kỉ XXI có tên Sử thi Tây Nguyên - Việt Nam và Sử thi Việt
Nam. Hội thảo Sử thi Tây Nguyên - Việt Nam được Trung tâm KHXH và Nhân
văn Quốc gia phối hợp với UBND tỉnh Đắc Lắc tổ chức năm 1997 tại Buôn Ma
Thuột, với sự góp mặt của nhiều báo cáo đáng chú ý như “Sử thi ở Việt Nam”
(Đinh Gia Khánh), “Nhìn lại quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên
trong bối cảnh sử thi Việt Nam” (Phan Đăng Nhật), “Vùng sử thi Tây Nguyên
(một số quan điểm cơ bản)” (Ngô Đức Thịnh), “Quá trình sử dụng thuật ngữ sử
thi ở Việt Nam” (Nguyễn Xuân Kính) Trong hội thảo, các nhà khoa học đã đề
xuất và trao đổi về một số cách phân loại sử thi theo tiêu chí lịch sử - xã hội và
chức năng, nhiệm vụ của nhân vật trung tâm là “sử thi anh hùng” và “sử thi
thần thoại”, “sử thi cổ sơ” và “sử thi cổ đại”, “sử thi sáng tạo thế giới” và “sử
thi thiết chế xã hội”. Sử thi Tây Nguyên, kỉ yếu của hội thảo được xuất bản năm
1998. Một thập niên sau (2008), vẫn Viện KHXH Việt Nam và UBND tỉnh Đắc
Lắc đã phối hợp tổ chức hội thảo quốc tế có tên Sử thi Việt Nam tại cùng địa
bàn, trong đó có nhiều báo cáo đề cập tới sử thi Tây Nguyên như: “Số phận
của sử thi Tây Nguyên trong xã hội đương đại” (Tô Ngọc Thanh), “Suy nghĩ
về các phương thức bảo tồn và phát huy giá trị của sử thi Tây Nguyên trong xã
hội hiện đại” (Phan Đăng Nhật), “Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây
24
24
24
Nguyên” (Ngô Đức Thịnh), “Về môi trường sưu tầm, nghiên cứu, truyền dạy
sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh hiện nay” (Nguyễn Thị Hòa) Các báo cáo
này tập trung vào những vấn đề có tính thời sự, bao gồm việc nghiên cứu sử
thi Tây Nguyên trên cơ sở các tư liệu của Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản,
biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên (2001 - 2007) và bảo tồn

chúng trong bối cảnh mới. Năm 2009, kỉ yếu hội thảo - Sử thi Việt Nam trong
bối cảnh sử thi châu Á - được công bố. Những hội thảo trên là các sự kiện có ý
nghĩa quan trọng đối với diễn trình nghiên cứu sử thi Tây Nguyên.
Việc tìm hiểu sử thi Tây Nguyên ở Việt Nam, trải qua một thời gian
tương đối, đã đạt được những kết quả đáng chú ý
1
. Có thể rút ra hai nhận xét.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu hướng tới việc khái quát về sử thi của cả
vùng hay của một dân tộc thì nhiều hơn là một sử thi cụ thể, điều đó cho thấy
việc nhận diện sử thi Tây Nguyên với tính hệ thống của nó trong thời gian qua
là vấn đề đã và đang tiếp tục được quan tâm. Thứ hai, các công trình đã có vẫn
khá nghiêng về việc khảo sát khía cạnh thẩm mĩ của đối tượng, trong khi sử thi
không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là một hiện tượng văn hóa đa
chiều cạnh và cần được nghiên cứu nhiều hơn từ góc độ liên ngành.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu sử thi Bahnar
Trước hết, xin nói vài nét về việc sưu tầm sử thi Bahnar.
Không kể đến một vài truyện kể tóm lược có nhắc đến tên các nhân vật
mà sau này ta biết là của sử thi ở công trình Mọi Kon Tum
2
của Nguyễn Kinh
Chi và Nguyễn Đổng Chi (1937), Truyện cổ Bahnar của Bùi Văn Nguyên, Đỗ
1 Về hoạt động sưu tầm, nghiên cứu sử thi nói chung ở Việt Nam, Nguyễn Xuân Kính đưa ra cách phân kì
xác đáng và thuyết phục, theo đó quá trình này được chia thành: 1. Giai đoạn từ năm 1927 đến 1955, với vai
trò sưu tầm thuộc về người Pháp, việc xác định thể loại tác phẩm chưa được quan tâm nhiều; 2. Giai đoạn từ
năm 1957 đến 1976, con số sử thi được công bố lớn hơn trước nhưng chủ yếu bằng tiếng Việt, mặc dù vậy
giáo trình đại học đã có sự phân biệt chính xác các thuật ngữ liên quan (trường ca, anh hùng ca và sử thi); 3.
Giai đoạn từ năm 1976 đến 2001, việc sưu tầm, nghiên cứu được đẩy mạnh và đạt những kết quả nhất định,
nhiều luận án tiến sĩ về sử thi đã được thực hiện; 4. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, số lượng tác phẩm được
sưu tầm và công bố tăng đáng kể, và khái niệm sử thi ngày càng trở nên quen thuộc trong giới học thuật cũng
như trong đời sống xã hội [53, tr. 32 - 58]. Chúng tôi thấy rằng, cách phân kì này phản ánh hoàn toàn rõ nét

lịch sử sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên nói riêng.
2 Cuốn sách này đã được tái bản vào năm 2011 với tên gọi là Người Bahnar ở Kon Tum [10].
25
25
25

×