Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.45 KB, 5 trang )
Khám hệ vận động, tiền đình, tiểu não
(Kỳ 1)
1. Phương pháp khám hệ vận động.
Mục đích khám chức năng vận động nhằm phát hiện: bệnh nhân có liệt
không? liệt tay, chân hay mặt? liệt trung ương hay ngoại vi? liệt độ mấy (từ độ 1-
5)? trương lực cơ có thay đổi không? bệnh nhân có các động tác vận động không
chủ ý (co giật, múa vờn, múa giật, run, tics )?
Khám vận động bao gồm: nhận xét tư thế và vận động của bệnh nhân,
khám sức cơ, khám trương lực cơ và nhận xét về các động tác không chủ ý.
1.1. Khám sức cơ:
1.1.1. Quan sát:
+ Quan sát tư thế của bệnh nhân: xem nét mặt và vận động các cơ mặt của
bệnh nhân, tư thế ngồi, đứng, nằm của bệnh nhân có gì đặc biệt không?
+ Quan sát dáng đi: thường gặp các dáng đi sau trong lâm sàng:
- Dáng đi lết vòng (dáng đi như gà) còn được gọi là dáng đi vạt cỏ gặp
trong liệt cứng nửa người, thường thấy ở bệnh nhân liệt nửa người do đột qụy não.
- Dáng đi chân rũ: khi đi bàn chân rủ thõng, hơi quay vào trong, các ngón
hơi gấp. Để khỏi quệt mũi bàn chân xuống đất khi đi, bệnh nhân thường nâng cao
chân, khi đặt bàn chân liệt xuống thì mũi bàn chân tiếp đất trước, sau đó là cạnh
ngoài bàn chân và gót chân.
- Dáng đi kiểu con ngỗng: lưng ưỡn ra trước, mông cong ra sau, đùi ở phía
trước, cẳng chân phía sau do teo cơ vùng thắt lưng, đùi, mông, thường gặp trong
bệnh loạn dưỡng cơ tiến triển.
- Dáng đi hysteria: dáng đi kéo gỗ, bệnh nhân lê hai bàn chân trên mặt đất
một cách nặng nhọc.
- Dáng đi Parkinson: bệnh nhân đi không vung vẩy tay, toàn bộ cơ thể của
bệnh nhân di chuyển như một khối, ngập ngừng, cứng nhắc, nửa người trên có xu
hướng lao về trước, bước đi ngắn và nhanh dần như chạy đuổi theo trọng tâm của
chính mình.