Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Dinh dưỡng cho ba tháng cuối thai kỳ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.25 KB, 3 trang )

Dinh dưỡng cho ba tháng cuối thai kỳ



Phụ nữ mang thai cần được chăm sóc chu đáo về mặt dinh dưỡng vì không chỉ cung cấp
những dưỡng chất mang lại lợi ích sức khoẻ lâu dài cho các bà mẹ, mà còn tác động đến
việc hình thành, tăng trưởng, phát triển bào thai và sức khoẻ của trẻ sau này.
Ba tháng cuối thai kỳ là lúc phát triển thai nhi và bánh nhau. Các bà mẹ phải được bồi
dưỡng tốt về mặt thể chất và tinh thần để chuẩn bị cho sự ra đời của bé. Do vậy, nuôi
dưỡng thai phụ lúc này vừa phải đảm bảo về mặt năng lượng (thường là trên 2.500 KCal)
cho mọi hoạt động cơ thể, vừa để tăng trọng lượng khoảng 6-7kg, sao cho so với lúc chưa
mang thai, thai phụ phải tăng tối thiểu 12kg, đủ dự trữ cho họ 4kg chất béo, tương đương
3.600 KCal dành cho việc hồi phục cơ thể và sản xuất sữa và nuôi con bú… sau khi sinh.


Những thành phần dinh dưỡng sinh năng lượng như chất bột đường (carbohydrates),
protein, lipid, nhất là protein (chất đạm) và lipid (chất béo) phải được gia tăng, mỗi loại
tới 70g mỗi ngày, không những để thoả mãn nhu cầu về năng lượng, mà còn cung ứng
protein cho việc tạo dựng các tế bào, các mô cơ thể con và mẹ. Với một lượng chất béo
đáng kể (70g mỗi ngày), các lọai axít béo như DHA, Omega 3… khiến cho các tế bào
thần kinh và não bộ trẻ có điều kiện để phát triển, hoàn thiện không những về cấu trúc mà
còn về chức năng. Đồng thời các vitamin tan trong mỡ như vitamin A, D, K có cơ hội để
mẹ và con hấp thu, tăng cường cho thị giác, hoàn thiện các biểu mô của bộ máy tiêu hoá,
hô hấp, tăng cường hệ thống miễn dịch (vitamin A), bổ sung, tăng cường cho hệ thống
xương và răng (vitamin D), hỗ trợ cho cơ chế đông máu, dự phòng chảy máu, mất máu
cho cả mẹ và con (vitamin K).

Những thành phần không sinh năng lượng trong chế độ dinh dưỡng như các loại vitamin,
các vi khoáng và chất xơ cũng phải được quan tâm. Cần nhấn mạnh việc cung cấp đủ
vitamin D (400 đơn vị quốc tế) và vi khoáng canxi (1.200mg) mỗi ngày trong ba tháng
cuối thai kỳ sẽ giảm thiểu tình trạng mất xương trong lúc mang thai và những năm tháng


sau này của các bà mẹ, hạn chế nguy cơ loãng xương. Với thai nhi, vitamin D và canxi
giúp thai nhi hoàn thiện hệ xương, dự trữ nguyên liệu cho việc hình thành mầm răng, góp
phần phòng tránh chứng co giật (Tetanie) do hạ canxi trong máu, thường gặp ở tuổi sơ
sinh và trẻ nhỏ.

Cung cấp đủ vitamin D và canxi sẽ làm tăng tỷ trọng xương, phòng tránh loãng xương
khi trẻ trưởng thành. Các vitamin khác như vitamin nhóm B,các vi khoáng như kẽm,
magnesium, sắt cũng rất cần thiết cho chuyển hoá các chất đối với cơ thể mẹ,
magnesium còn giúp các bà mẹ không bị chuột rút (vọp bẻ), mệt mỏi và mất ngủ, kẽm hỗ
trợ cho việc tăng trưởng, hoàn chỉnh hệ thống thần kinh và các cơ quan khác của thai nhi,
làm giảm triệu chứng biếng ăn của thai phụ. Vitamin C vừa tăng cường khả năng miễn
dịch, vừa tạo môi trường thuận lợi cho việc hấp thu sắt, hỗ trợ cho việc tạo máu, làm tăng
khối lượng máu của mẹ và thai nhi, dự phòng cho việc mất máu trong lúc chuyển dạ,
cũng như dự trữ sắt cho trẻ nhỏ tránh tình trạng thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt ở trẻ
nhỏ sau này.


Tất cả những yêu cầu đó chỉ được thoả mãn khi một chế độ dinh dưỡng cho thai phụ
trong ba tháng cuối được thiết kế một cách đầy đủ và cân đối về năng lượng và các chất
dinh dưỡng, nhờ vào việc sử dụng thực phẩm đa dạng, đủ các nhóm thực phẩm như gạo,
bánh mì, ngũ cốc để cung cấp năng lượng. Cá, thịt, hải sản, trứng, sữa, đậu nành… thoả
mãn nhu cầu về chất đạm (protein). Các loại đậu, rau có lá xanh đậm như bông cải xanh,
bắp cải, rau dền, rau ngót, rau lang, rau bí, các loại củ, hạt như hạt điều, hạt hướng
dương, hạt đậu phộng, các lọai trái cây tươi và sạch như bưởi, cam, quýt, xoài, vú sữa,
măng cụt… là nguồn cung cấp dồi dào các vitamin vi khoáng và các chất xơ như đã nói
trên.

Tuy nhiên, ba tháng cuối thai kỳ, vì thai nhi đã lớn, có thể đè ép lên cơ hoành, và các bộ
phận của hệ tiêu hoá như dạ dày, ruột, bàng quang… làm cho thai phụ mệt mỏi, khó chịu,
không muốn ăn, đôi khi ói và táo bón, đi tiểu nhiều lần… Để đảm bảo cung cấp đủ năng

lượng và các dưỡng chất, cần chia nhỏ các bữa ăn, tăng cường rau xanh, trái cây và uống
đủ nước. Có như vậy thai phụ mới đủ sức "vượt cạn", tránh được những tai biến đáng tiếc
và đủ sức khoẻ, đủ sữa để nuôi con đồng thời cũng phòng tránh được tình trạng suy dinh
dưỡng bào thai, những dị tật và những chứng bệnh thường gặp ở thai nhi non yếu như suy
hô hấp, xuất huyết não – màng não, vàng da nặng do tăng Bilirubin tự do hoặc những
chứng bệnh nan y khác trong quá trình trưởng thành của trẻ.

×