BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ VÀ
QUẢN LÍ CÔNG NGHIỆP
Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may
sang thị trường EU
Sinh viên thực hiện : Phan Thu Hiền
Lớp : QTKD CN và XD 43B
Hà Nội, 4/2009
MỤC LỤC
Mục lục 1
Lời nói đầu 2
I. Yêu cầu của thị trường EU với hàng dệt may 4
1.1 Đặc điểm của thị trương EU đối với hàng dệt
may 4
1.2 Những yêu cầu đặt ra với sản phẩm dệt may nhập
khẩu vào EU 7
II. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
EU 8
2.1 Những cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước với
xuất khẩu hàng dệt may 9
2.2 Kết quả của hoạt động xuất khẩu sang EU thời gian
qua 11
2.3 Một số yếu kém của hoạt động xuất khẩu sản phẩm
dệt may 15
2.3.1 Sức cạnh tranh chưa cao 15
2.3.2 Giá trị hàng dệt may xuất khẩu chưa tương xứng
với tiềm năng của các doanh nghiệp 18
2.3.3 Một số tồn tại 18
III. Một số mục tiêu và giải pháp cho hàng dệt may xuất
khẩu trong thời gian tới 20
3.1 Những mục tiêu cần đạt được với thị trường EU
20
3.2 Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt
may vào thị trường EU 21
3.2.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp dệt may. . 21
3.2.2 Giải pháp đối với nhà nước 26
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
2
LỜI NÓI ĐẦU
Qúa trình quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở các châu
lục, các khu vực trên thế giới, với sự tham gia ngày càng rộng rãi
của tất cả các nước chậm phát triển. Những lợi ích to lớn của hội
nhập kinh tế mang lại cho mỗi quốc gia là rất rõ ràng và khó có
thể bác bỏ.
Con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu
cô lập với bên ngoài ngày nay không còn sức thuyết phục và hầu
như không còn một quốc gia nào hướng tới nữa. Do vậy vấn đề
đạt ra cho mỗi quốc gia là hội nhập kinh tế quốc tế với những
bước đi như thế nào để có thể mang lại lợi ích tối đa với một
mức giá tối thiểu qủa là một thách thức không nhỏ.
Sự hội nhập tất yếu của nước ta vào hợp tác khu vực và
quốc tế cũng đặt ra nhiệm vụ hết sức to lớn cho nền kinh tế. Một
trong những bước của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là
xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tiến hành tự do hoá
thương mại và tham gia vào các định chế liên kết khu vực và
toàn cầu. Định hướng này đã được Đảng và Nhà nước ta lựa
chọn từ Đại hội Đảng lần thứ VI ( năm 1986) và được cụ thể hoá,
phát triển lên tại Đại hội Đảng lần thứ VIII ( năm 1996).
Ngành dệt may Việt Nam ra đời từ năm 1958, cùng với xu
thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế ngành dệt may Việt Nam đã
nhanh chóng tìm ra và khẳng định được những ưu thế của mình
trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc cho thị
trường thế giới. Hàng dệt may đã trở thành một mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam cùng với gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu,
3
v.v. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may không ngừng tăng
và hàng năm mang về cho đất nước một nguồn thu ngoại tệ lớn
khoảng 1 tỷ USD/năm.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
cũng gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân như: hàng dệt
may của Việt Nam bị canh tranh quyết liệt bởi hàng dệt may của
các nước khác, do chất lượng, mẫu mã, v.v. Đặc biệt, việc xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, một thị trường truyền
thống của Việt Nam cũng đang phải đối đầu với nhiều thách thức
và khó khăn. Với bài viết này, em muốn trình bày cách nhìn của
mình về sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị
trường EU và một số giải pháp thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu
hàng dệt may sang thị trường này. Do vậy, em chọn đề tàI: Đẩy
mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU. Đề
án gồm 3 phần:
I. Yêu cầu của thị trường EU với hàng dệt may.
II. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang EU trong thời gian qua.
III. Một số mục tiêu và giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Xuân Được đã
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm
2004
Sinh viên
Phan Thu Hiền
4
I. YÊU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG EU VỚI HÀNG
DỆT MAY
1.1 Đặc điểm của thị trường EU đối với hàng dệt may
1.1.1 EU là một thị trường rộng lớn với nhu cầu đa dạng,
phong phú:
Với 15 quốc gia với khoảng 375 triệu người tiêu dùng nên
nhu cầu về hàng hoá rất đa dạng, phong phú. Đặc biệt là, với mặt
hàng dệt may là mặt hàng có tính mùa vụ và thời trang cao thì
nhu cầu càng đa dạng. Tuy vậy thị trường EU không hoàn toàn
đồng nhất, 15 quốc gia trong EU với ngôn ngữ, phong tục tập
quán, tôn giáo khác nhau, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu,
giới tính, tuổi tác,sở thích sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang
phục. Sắp tới khi EU kết nạp thêm 10 thành viên mới, dân số EU
sẽ tăng thêm 100 triệu người do đó yêu cầu về sản phẩm dệt may
sẽ đa dạng và phong phú hơn nữa. Thị trường EU chỉ thống nhất
về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế là nhóm thị trường quốc gia và
khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đặc trưng riêng. Mỗi nước
thành viên tạo ra các cơ hội khác nhau và yêu cầu của họ cũng
khác nhau. Trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn, khí hậu
5
thay đổi từ nước này sang nước khác nên trang phục của người
dân EU cũng khác nhau. Trong mỗi nước lại có những dân tộc
với những truyền thống văn hoá khác nhau đây cũng là một yếu
tố tạo nên tính đa dạng về nhu cầu với sản phẩm dệt may. Lứa
tuổi, giới tính, công việc của mỗi cá nhân cũng yêu cầu sản phẩm
dệt may phù hợp với những người làm việc trong công sở họ có
nhu cầu lớn với mặt hàng sơ mi, comple. Trong khi đó với những
người nông dân lại yêu cầu những mặt hàng quần áo gọn nhẹ phù
hợp với công việc đồng áng. Trong những buổi dạ tiệc họ lại cần
những bộ quần áo làm cho họ nổi bật. Với những doanh nhân
trang phục của họ phải thể hiện tình năng động trong công việc.
Yêu cầu của họ đa dạng không chỉ về mẫu mã, chất liệu màu sắc,
kiểu dáng, kích cỡ mà còn về tính thời trang. Nghiên cứu thị
trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm người tiêu dùng
trong khu vực thị trường EU có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2 Tập quán tiêu dùng của người dân EU:
Đây cũng là một đặc điểm cần lưu ý vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm.Tuy có sự
khác biệt về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa thị trường các
quốc gia song 15 nước trong khối EU đều nằm ở khu vực Tây và
Bắc Âu nên có những nét tương đồng về kinh tế văn hoá. Trình
độ phát triển kinh tế của những nước này khá đồng đều nên
người dân EU có một số điểm chung về sở thích thói quen tiêu
dùng. Đối với mặt hàng dệt may, khách hàng EU rất quan tâm
đến chất lượng và thời trang, do đó yếu tố này có khi lại quan
trọng hơn yếu tố về giá cả. EU là nơi hội tụ của những kinh đô
thời trang thế giới nên họ đòi hỏi khắt khe về kiểu dáng và mẫu
6
mốt. Sản phẩm dệt may tiêu thụ ở thị trường này mang tính thời
trang cao, luôn thay đổi mẫu mã kiểu dáng, màu sắc chất liệu để
đáp ứng được tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của
người tiêu dùng. Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử
dụng hàng của những hãng nổi tiếng thế giới vì họ cho rằng
những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng và uy tín lâu đời
nên sử dụng những mặt hàng này có thể yên tâm về chất lượng
và an toàn cho người sử dụng.
1.1.3 Do mức sống cao nên người dân EU yêu cầu khắt
khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm dệt may.
Mức sống của người dân trong cộng đồng EU tương đối
đồng đều và ở mức cao nên tiêu dùng của họ rất cao cấp, yêu cầu
khắt khe về chất lượng và độ an toàn giá cả không phải là vấn đề
quyết định nhất đối với thị trường này. Vì thế cạnh tranh về giá
không hẳn là biện pháp tối ưu khi xâm nhập thị trường EU. Thu
nhập bình quân đầu người của người dân EU ở mức khá cao, và
tỉ lệ chi tiêu cho hàng may trong tổng thu nhập dân cư lớn. Bên
cạnh đó người tiêu dùng EU có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho
những mặt hàng dệt may cao cấp với yêu cầu về đa dạng về kiểu
dáng, mẫu mã, chất lượng cao. Người dân EU cũng đòi hỏi sản
phẩm dệt may phải an toàn cho người sử dụng không gây dị ứng,
tạo cảm giác khó chịu cho người mặc không có một số hoá chất
mà hiệp hội dệt may Châu Âu cấm sử dụng. Thị trường Châu Âu
còn sử dụng những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng rất khắt khe
như: tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.
1.1.4 Các hãng, công ty có tên tuổi trong làng dệt may
Châu Âu lại là khách hàng của doanh nghiệp dệt may ở nước
khác.
7
Hàng ngàn các hãng có tên tuổi của các nước Châu Âu là
những người bán hàng cho các nhà bán lẻ, nhưng sau khi tập hợp
các đơn hàng họ lại là người đi đặt hàng ở các nước khác, trừ
những mặt hàng cao cấp sản xuất tại Châu Âu. Họ có thể đưa
nguyên liêu sang và đặt các doanh nghiệp dệt may ở nước khác
gia công chế biến cho họ sau đó sản phẩm được nhập về và dán
nhãn mác của họ. Làm như vậy họ vừa tận dụng được nguồn
nhân công rẻ hơn ở các nước đang phát triển từ đó làm giảm chi
phí sản xuất và giúp họ thu được nhiều lợi nhuận hơn và làm
giảm ô nhiễm môi trường do chất thải của ngành công nghiệp dệt
may gây ra. Việc làm này giúp họ chỉ cần tập trung vào sản xuất
những mặt hàng cao cấp. Các nhãn hiệu nổi tiếng của các nhà
sản xuất Châu Âu đã tạo được uy tín lớn đối với người tiêu dùng,
đây cũng là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá. Vì vậy
người tiêu dùng Châu Âu luôn cảm thấy yên tâm khi mua hàng
hoá của họ cho dù hàng hoá này được chính họ sản xuất hay thuê
gia công chế biến ở nơi khác.
1.2 Những yêu cầu đặt ra với sản phẩm dệt may nhập
khẩu vào EU
1.2.1 Thị trường EU đặt ra những tiêu chuẩn về đạo đức
cho tất cả các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển.
Do ở các nước đang phát triển, nhiều nhà sản xuất sử dụng
lao động trẻ em trong sản xuất công nghiệp đặc biệt là trong lĩnh
vực dệt may bởi lực lượng lao động này vừa rẻ tiền vừa dễ bóc
lột sức lao động. Mối lo ngại về việc sử dụng lao động trẻ em
đang ngày một lan rộng làm cho các nhà hoạt động xã hội lo
ngại. Các tổ chức phi chính phủ ở phương tây, các phương tiện
8
truyền thông và các tổ chức công đoàn ủng hộ các nhà cung cấp
không sử dụng lao động trẻ em thông qua việc nâng cao nhận
thức cho người tiêu dùng ở thị trường này. Điều này đang tạo ra
áp lực cho nhà nhập khẩu nước ngoài khi mua hàng phải đảm
bảo nguồn cung cấp không sử dụng lao động trẻ em. Những quy
định về việc nguồn cung cấp phải đảm bảo tính đạo đức áp dụng
cho tất cả các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển và thậm
chí áp dụng cho cả đối với các nhà thầu phụ. Các nhà nhập khẩu
lớn trên thế giới đang áp dụng những qui tắc chặt chẽ này nếu
không họ sẽ bị công chúng tẩy chay.
1.2.2 Sản phẩm dệt may khi nhập khẩu vào EU phải
dán nhãn môi trường.
Các nhà sản xuất hàng dệt may từ các nước đang phát triển
đang ngày càng đối mặt với yêu cầu dán nhãn môi trường. Dán
nhãn môi trường hiện được coi là một công cụ marketing và các
sản phẩm có dán nhãn môi trường thường dành cho các thị
trường phát triển. Yêu cầu dán nhãn môi trường được các nhà
bảo vệ môi trường đưa ra và cũng một phần là do tác động của
chiến dịch quảng cáo quá khích của các ngành bảo hộ sản xuất
của các nước trong EU. Các sản phẩm dệt may của EU đang bị
cạnh tranh gay gắt bởi hàng dệt may của các nước đang phát
triển như Trung Quốc, một số nước ASEAN nhập khẩu vào EU
với giá rẻ mẫu mã đa dạng lại phù hợp với nhu cầu luôn luôn
thay đổi. Vì vậy để bảo hộ sản xuất trong nước khỏi nguy cơ mất
thị phần ngay tại thị trường EU các nhà sản xuất đã đưa ra tiêu
chuẩn dán nhãn môi trường. Việc dán nhãn môi trường sẽ làm
cho việc tiếp cận các thị trường phát triển sẽ bị giảm đáng kể nếu
người tiêu dùng tẩy chay hàng hoá không dán nhãn sinh thái.
9
1.2.3 Sản phẩm dệt may nhập khẩu vào EU phải chú
trọng yếu tố thời vụ.
Các nhà sản xuất phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi của thời
tiét trong năm ở từng khu vực của thị trường EU mà cung cấp
hàng hoá cho phù hợp. Nếu không chú trọng đến vấn đề này thì
hàng hoá của các nước xuất khẩu sang EU không đáp ứng kịp
thời nhu cầu thậm chí là không bán được hàng. Các nhà nhập
khẩu Châu Âu luôn chú ý đến thời hạn giao hàng. Nếu các nước
xuất khẩu không giao hàng kịp thời đúng như trong hợp đồng thì
họ có thể mất đi những đơn đặt hàng lớn từ thị trường EU. Trong
kinh doanh các doanh nghiệp của Châu Âu luôn coi trọng chữ
tín, hiểu được điều này thì doanh nghiệp của nước xuất khẩu và
nước nhập khẩu mới có thể hợp tác làm ăn lâu dài với nhau.
10
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN
QUA
1.1 Những cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước
với xuất khẩu hàng dệt may.
Trong thời gian gần đây Đảng và Nhà nước đã tạo mọi
điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
dệt may nói riêng trong hoạt động xuất khẩu. Đường lối của
Đảng được thể chế hoá bằng các chính sách, cơ chế xuất nhập
khẩu theo hướng tự do hoá thương mại. Quốc hội đã xây dựng và
ban hành nhiều luật như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luật Thương mại. Chính phủ
đã có nhiều Nghị định nhằm chuyển căn bản hoạt động xuất nhập
khẩu từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày
31/7/1998 của chính phủ đã cho phép tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực
tiếp, nhận gia công và làm đại lý bán cho nước ngoài hầu hết các
loại hàng hoá ( trừ một số loại hàng hoá cấm nhập khẩu, xuất
khẩu và xuất nhập khẩu có điều kiện) và trước khi tién hành kinh
doanh xuất nhập khẩu chỉ phải đăng kí mã số doanh nghiệp xuất
nhập khẩu với cơ quan hải quan tỉnh, thành phố nơi doanh
nghiệp đóng trụ sở chính.
Trong quá trình thực hiện, Nhà nước đã thường xuyên
hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và đổi mới
cơ chế điều hành xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích mạnh mẽ
xuất khẩu. Chính phủ đã thực hiện chính sách hoàn thuế, trợ giá,
11
bù lãi suất cho hoạt động xuất khẩu và thưởng xuất khẩu …. Để
khuyến khích xuất khẩu Nhà nước ta đã giảm bớt hàng rào thuế
quan đối với nhập khẩu. Việc giảm thuế xuống còn 0-5% có ý
nghĩa lớn khi Việt Nam tham gia vào ASEAN và sắp tới tham
gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trên cở sở nguyên
tắc chung là “có đi, có lại” trong buôn bán quốc tế, việc cắt giảm
thuế nhập khẩu với hang hoá nước ngoài của Việt Nam tạo điều
kiện cho hàng hoá Việt Nam và đặc biệt là hàng dệt may có thể
dễ dàng xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên của
ASEAN và WTO mà không gặp phải trở ngại lớn từ hàng rào
thuế quan và phi thuế quan của nước nhập khẩu. Cùng với việc
phê duyệt chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt - May đến
năm 2010 Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi để phát triển
ngành Dệt – May thành một trong những ngành công nghiệp mũi
nhọn, nâng cao khả năng cạnh tranh và năng lực xuất khẩu của
ngành.
Để giảm tối đa chi phí cho sản phẩm dệt may xuất khẩu,
tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị
trường thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nước ta đã có
nhiều ưu đãi cho ngành dệt may như: áp dụng thuế suất 0% đối
với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng được
áp thuế suất 0%; đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản
xuất hàng xuất khẩu trong thới hạn 275 ngày không phải nộp
thuế nhập khẩu, nêu ngoài thời hạn trên doanh nghiệp phải nộp
thuế nhập khẩu nhưng nhưng sẽ được hoàn trả sau khi sản phẩm
được xuất khẩu. Miễn thuế đối vớivật tư nguyên liệu nhập khẩu
để gia công hàng cho nước ngoài.
12
Chính phủ thực hiện một số chính sách, biện pháp khuyến
khích xuất khẩu theo kiến nghị của Bộ Thương mại. Tiếp tục đẩy
mạnh biện pháp hỗ trợ tài chính, áp dụng các chính sách thưởng
theo kim ngạch xuất khẩu và đơn giản hoá thủ tục xét thưởng.
Ưu tiên những mặt hàng có giá trị gia tăng cao.Tăng cường các
biện pháp hạ giá thành cũng như chi phí ngoài giá thành, ưu đãi
về thuế cho các doanh nghiệp vệ tinh như đối với các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, kiểm soát và giảm tới mức hợp
lý các chi phí và giá cả của các nhà cung ứng dịch vụ độc quyền.
Điều chỉnh thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp trong nước
sản xuất hàng xuất khẩu (hiện ở mức 32%) như đang áp dụng với
các donah nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(25%).
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại qua việc tăng cường tổ
chức các đoàn doanh nghiệp thực hiện công tác xúc tiến thương
mại với sự bảo trợ của Nhà nước, cải tiến việc chi hỗ trợ phát
triển thị trường và xúc tiến thương mại theo hướng không dàn
trải, ưu tiên danh một tỷ lệ thích hợp cho các chương trình xuất
khẩu trọng điểm. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ
các rào cản bất hợp lý. Tập trung đơn giản hoá thủ tịc hải quan,
tăng diện hàng hoá xuất nhập khẩu được miễn kiểm tra hải quan
cải tiến quy trình nghiệp vụ để doanh nghiệp có thể kiểm tra
hàng hoá xuất khẩu bất kỳ lúc nào nếu có đăng ký trước. EU là
thị trường mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, do đó Chính phủ
đang xem xét nhượng bộ một số yêu cầu mở cửa thị trường để
đổi lấy việc gia tăng hạn ngạch dệt may
Để khai thác tối đa thị trường EU và đảm bảo tính linh hoạt
trong việc triển khai thực hiện hạn ngạch, năm 2002 Bộ Thương
mại đã ban hành một cơ chế mới gọi là cơ chế cấp giấy phép xuất
13
khẩu tự động. Cơ chế này được đánh giá là sẽ giúp khắc phục
được nhiều nhược điểm của cơ chế cũ mà quan trọng là nó giải
quyết cơ bản tình trạng đầu cơ hạn ngạch, tạo sân chơi bình
đẳng, tạo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng chất
lượng tốt, có khách hàng đều có cơ hội xuất khẩu.
2.2 Kết quả của hoạt động xuất khẩu sang EU trong
thời gian qua.
Thị trường EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn
ngạch chủ yếu của Việt Nam. EU được coi là thị trường xuất
khẩu trọng điểm của nước ta và đang được các doanh nghiệp dệt
may tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường
này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại
và trong đó chỉ có khoang 10 – 15% là tiêu dùng bình thường
còn lại là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu
hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Anh,
Pháp … nhưng chỉ từ năm 1993 xuất hàng dệt may sang EU mới
thực sự khởi sắc.
Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt
phát triển mạnh kể từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may.
Cụ thể, sau khi hiệp định này được ký kết ngày 15/2/1992 và có
hiệu lực và năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý và kinh tế vững chắc
đưa ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bước vào giai đoạn
tăng trưởng nhanh chóng, từ chỗ hầu như bị cấm vận nhóm hàng
này của Việt Nam xuất khẩu sang EU có tốc độ tăng trưởng kim
ngạch 23%/năm trong thời kỳ 1993 – 1997. Theo Hiệp định năm
1992, Việt Nam được phép xuất khẩu sang EU 151 chủng loại
mặt hàng (cat) trong đó có 46 loại không bị hạn ngạch. Tổng số
14
hạn ngạch thao hiệp định này là 21298 tấn với kim ngạch khoản
450 triệu$. Tuy nhiên nếu nhìn từ phía EU thì Việt Nam chỉ là
nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0.5% kim ngạch nhập khẩu
hàng dệt may của EU. Điều đó chứng tỏ rằng hàng may mặc của
Việt Nam vào EU là quá nhỏ so với nhu cầu. Trong số các nước
thuộc EU thì Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhát của
Việt Nam chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là Pháp
14%, Hà Lan 12%, Italia 9% và các nước khác chiếm 8%. Từ
1993 đến năm 1999 xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt gần
700 triệu USD và năm 2000 tăng thêm khoảng 150 triệu USD.
Hiện nay xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chiếm 34 –
38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt
Nam. Hiệp định buôn bán hàng dệt may, dệt kim từ khi thực hiện
cho đến nay đã 2 lần được gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch.
Tháng 8/1995, Hiệp định lần đầu tiên sửa đổi tăng hạn ngạch ở
23 cat nóng tử 20 - 25%, giảm số cat có hạn ngạch từ 105 xuống
còn 54, tăng hạn ngạch gia công thuần tuý lên gấp đôi, ước tính
sẽ tăng bổ sung hạn ngạch lên 250 tấn tương đương với 100
triệu$ nâng tổng giá trị hạn ngạch vào EU là 550 triệu$. Hiệp
định dệt may sửa đổi lần thứ 2 cho giai đoạn 1998 - 2000 đã
được ký ngày 7/11/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 tăng
40% khối lượng so với giai đoạn trước tạo cơ hội mới thúc đẩy
hàng dệt may Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh hơn. So với
giai đoạn 1993 - 1997, Hiệp định sửa đổi này có những bổ sung
quan trọng tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam như
được tăng mức tự do chuyển đổi hạn ngạch giữa các mặt hàng
một cách đễ dàng hơn, được hưởng ưu đãi GSP. Theo hiệp định
này hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng đệt may vào thị
15
trường EU với lượng hàng 21938 tấn. Số cat chịu sự quản lý
bằng hạn
ngạch giảm từ 106 xuống còn 29, tăng hạn ngạch một số
cat “nóng” và nâng mức chuyển đổi hạn ngạch giữa các cat lên
27%. Tháng 3/2000, Việt Nam đàm phán với với EU thay đổi
thời hạn điều chỉnh Hiệp định dệt may đến hết năm 2002 thay vì
năm 2000. Đồng thời tăng hạn hạn hàng dệt may 16 cat của Việt
Nam xuất khẩu vào EU: trọng lượng tăng 4324 tấn đạt mức trên
26% so với hạn ngạch cơ sở của 16 cat, đơn vị sản phẩm tăng 15
triệu, đạt mức tăng 25%, trị giá sản phẩm tăng khoảng 120 triệu
USD đạt khoảng 20% so với năm 1999. Đàm phán tăng hạn
ngạch dệt may và mở cửa thị trường giữa Việt Nam và EU được
tiến hành gần đây nhất là giữa tháng 2/2003 áp dụng cho giai
đoạn 2003 - 2005. Theo bản sửa đổi này, Việt Nam sẽ mở cửa thị
trường cho một số lĩnh vực như bảo hiểm, rượu, xe máy, dược
phẩm, dịch vụ vận tải biển cũng như thuế nhập khẩu hàng dệt
may và nguyên liệu nhập khẩu từ EU. Đổi lại EU sẽ tăng hạn
ngạch dệt may cho Việt Nam mỗi năm lên khoảng 20% tức tổng
cộng 3 năm tăng khoảng 600 triệu$. Đặc biệt một số cat Việt
Nam cho là nóng có mức tăng từ 50 đến 75%. Nếu Việt Nam sử
dụng hết hạn ngạch cho phép thì giá trị xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam năm 2003 và các năm sau sang EU sẽ tăng lên 800
- 850 triệu$/năm, giải quyết việc làm thêm cho trên 100 ngàn lao
động. Đây là một bước tiến đáng kể đối với ngành dệt may Viẹt
Nam trong quan hệ với EU trong thời kỳ quá độ tiến tới tự do
hoá hoàn toàn. Trong mấy năm vừa qua tỷ trọng kim ngạch hàng
dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU luôn chiếm xấp xỉ
30% tổng trị giá xuất khẩu ra thế giới của toàn ngành may mặc,
có năm cao nhất là 31%
16
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thể
hiện trong biểu đồ sau:
Đơn vị: triệu USD.
N
ăm
1
994
1
995
1
996
1
997
1
998
1
999
2
000
2
001
2
002
2
003
K
im
ngạch
2
85
3
50
4
20
4
50
5
80
6
20
5
90
6
31
5
75
6
10
Nguồn của Bộ Thương mại (1/2004).
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang
EU, hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào một số sản
phẩm dễ làm, các mã hàng cho mùa đông như áo Jacket hai lớp
hoặc ba lớp, áo sơ mi, áo váy, quần âu, áo len và áo dệt kim, áo
T.shirt và polo shirt, quần dệt kim, bộ quần áo bảo hộ lao động,
áo sơ mi nữ… Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu
trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997 Việt
Nam xuất khẩu sang EU gần 11 triệu chiếc tăng gần 5 triệu chiếc
17
so với năm 1993 chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
sang EU.
Theo nguồn tin của Bộ Thương mại trong tháng 1-2/2004
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU tăng rất mạnh từ 28
– 30% so với cùng kỳ năm 2003. Những cat được cấp giấy phép
xuất khẩu là cat 4, cat 7, cat 9, cat10, cat 14, cat 18, cat 20, cat
21, cat 28, cat 41, cat 78; trong số những cat được cấp giấy phép
thì cat 4, 6, 41, 78 có tốc độ tăng cao và cat 21 áo jacket vẫn là
mặt hàng chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường EU là hình thức gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng
đến trên 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế hiệu quả
thực của xuất khẩu dệt may là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU thông qua
các thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các
nước này thường nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái
xuất sang thị trường EU. Nếu làm phép tính so sánh thì xuất khẩu
trọn gói theo giá FOB sẽ lãi gấp 2 lần so với may gia công.
Trung bình các nhà gia công Việt Nam chỉ nhận được khoảng
20% giá thnhf xuất khẩu, chủ yếu là gia công. Còn lại 80% là của
chủ đặt hàng và các công ty trung gian cung cấp nguyên phụ liệu,
mẫu mã. Nếu tính trên giá bán lẻ chỉ nhận được 4%cho một áo sơ
mi.
2.3 Một ta còn thiếu vốn và trình độ quản lý. Để thực hiện
biện pháp này nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho các nhà
đầu tư EU. Những ưu đãi này có thể là ưu đãi về thuế nhập khẩu
công nghệ, kết hối ngoại tệ, chuyển lợi nhuận… Cần thể chế hoá
18
và quy định cụ thể để hấp dẫn các nhà đầu tư số yếu kém của
hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may.
2.3.1 Sức cạnh tranh chưa cao
Tại thị trường EU thị trường được đánh giá là có nhiều lợi
thế nhất trong số các thị trường hạn ngạch, đây là thị trường
được đánh giá là Việt Nam có nhiều lợi thế nhất nhưng hàng dệt
may Việt Nam lại đang mất dần lợi thế tại thị trường này. Bị
cạnh tranh gay gắt bởi nhà xuất khẩu dệt may lớn khác là Trung
Quốc, thêm vào đó EU bắt đầu nới lỏng các biện pháp hạn chế
hàng Trung Quốc vào thị trường này bằng cách bỏ dần hạn
ngạch, thuế chống phá giá … Hàng Việt Nam không còn ưu thế
về chất lượng bởi Trung Quốc đã giải quyết cơ bản vấn đề này
hơn thế nữa giá gia công một số sản phẩm may của nước này
thấp hơn của Việt Nam tới 20%. Không chỉ với Trung Quốc,
hàng dệt may của Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng dệt
may từ nhiều nước khác nhất là khi EU bỏ hạn ngạch nhập khẩu
hàng dệt may từ các nước thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới WTO.
Trong cạnh tranh yếu tố trước hết và quyết định nhất là giá
nhưng giá thành hàng dệt may của ta lại cao hơn của đối thủ cạnh
tranh đặc biệt là Trung Quốc. Một số ưu đãi về thuế được Chính
phủ áp dụng cho hàng dệt may xuất khẩu để giảm giá thành sản
phẩm xuống gần bằng mức giá của các đối thủ. Nhưng những
quy định về thuế và sự tăng giá nhiều loại phí như phí cầu
đường, cảng, giá điện nước, bưu chính viễn thông liên tục tăng
làm cho giá thành hàng dệt may không những không hạ mà còn
cao hơn của đối thủ. Điều này làm cho hàng hoá của ta khó có
thể cạnh tranh.
19
♦ Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do:
+ Thứ nhất là, số lượng hạn ngạch Việt Nam được hưởng
còn rất thấp so với nhiều nước chỉ bằng 5% của Trung Quốc và
10 - 20% của các nước ASEAN. Số mặt hàng bị hạn chế bằng
hạn ngạch lớn hơn so với các nước khác của Vịêt Nam là 29
nhóm trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm, của Singapore là 8
nhóm.
+ Thứ hai là, do hàng của ta không rẻ bằng hàng hoá
của nước khác như Trung Quốc, bên cạnh đó mẫu mã của họ lại
phong phú hơn hàng của ta nhiều. Khách hàng yêu cầu thay đổi
mẫu mã trong khi đó các các doanh nghiệp, nhà sản xuất lại
không thay đổi được mẫu mã thành ra họ không mua nữa. Nhà
thiết kế Việt Nam cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
của thời trang công nghiệp nên sản phẩm chủ yếu của ta xuất
sang EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống còn những
sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch
được cấp. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có
hạn ngạch nhưng hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản
xuất, đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ
thuật cao, công nhân lành nghề mà các doanh nghiệp Việt Nam
chưa đáp ứng được.
+ Thứ ba là, chi phí vận chuyển các sản phẩm dệt may
của Việt Nam sang thị trương EU khá lớn điều đó làm tăng chi
phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt
Nam.
+ Thứ tư là, các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít
thông tin về thị trường, về các đối tác nước ngoài mà họ hợp tác
sản xuất. Do ít thông tin nên các doanh nghiẹp không thể tiếp
20
xúc trực tiếp được với nhiều khách hàng, tỷ trọng sản phẩm xuất
khẩu qua khâu trung gian, gia công còn cao. Tuy mạng lưới
thương vụ của ta hầu như có mặt ở mọi nơi trên thế giới song
những thông tin về thị trường nói chung và thị trường buôn bán
hàng dệt may nói riêng được họ quan tâm cung cấp về nước quá
ít kể cả một số thị trường lớn và truyền thống của Việt Nam như
EU. Các doanh nghiệp Việt Nam lại nghèo không có đủ chi phí
để thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc xúc
tiến mậu dịch ở nước ngoài, hoặc lập các văn phòng đại diện ở
nước ngoài nên thông tin quốc tế càng bị hạn chế. Những thay
đổi về mẫu mã, những khuynh hướng thời trang mới chúng ta
hoàn toàn không nắm được trước để chuẩn bị cho sản xuất.
+ Thứ năm là, hầu hết các loại chi phí cho một đơn vị sản
phẩm của ta đều cao hơn so với các nước trong khu vực và năng
suất lao động nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của
các nước ASEAN. Nhà xưởng, thiết bị công nghệ của ngành dệt
may còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu mới.
2.3.2 Giá trị hàng dệt may xuất khẩu chưa tương xứng
với tiềm năng của các doanh nghiệp.
Bộ Thương mại cho biết hạn ngạch của thị trường EU mới
chỉ đáp ứng được đáp ứng được 30- 35% năng lực sản xuất của
toàn ngành. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp ký được đơn hàng xuất
khẩu lại không có hạn ngạch để xuất trong khi tỷ lệ sử dụng hạn
ngạch lại rất thấp. Điều này nói lên thực trạng có một lượng hạn
ngạch rất lớn chưa xuất đang bị găm, giữ lại ở các doanh nghiệp.
Do được xuất khẩu tự động trong một thời hạn nhất định nên các
doanh nghiệp đã ký nhiều đơn hàng xuất khẩu lớn với khách
hàng nhưng do không có thông tin nên khi hết hạn ngạch vẫn tiếp
21
tục ký hợp đồng với đối tác dẫn đến tình trạng cháy hạn nghạch
và mất khách hàng. Chúng ta chưa giải quyết được vấn đề điều
phối lượng hạn ngạch của doanh nghiệp không có đơn hàng xuất
khẩu cho các doanh nghiệp có đơn hàng nhưng không có hạn
ngạch để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này xuất khẩu.
Các doanh nghiệp hiện đang tập trung vào những cat nóng
trong khi những cat nguội và các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật
phức tạp, chất lượng cao chưa được quan tâm nhiều. Nếu mở
rộng sang sản xuất những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp
thì các doanh nghiệp có thể tăng được lượng hàng xuất khẩu lên
một cách đáng kể.
2.3.2 Một số tồn tại:
- Sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì
trong một thời gian khá lâu trên thị trường, chỉ khi nào người
tiêu dùng đã chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới thôi không sản
xuất nữa.Điều này có tác hại lớn là mặc dầu khi doanh nghiệp
phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm và
dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra trên thị trường vẫn
tồn đọng một khối lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với
doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc
sản phẩm ngay khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và
đưa ra ngay sản phẩm mới khác. Cách làm này giúp cho doanh
nghiệp luôn có sản phẩm mới đề phục vụ kịp thời với nhu cầu
hay đổi của khách hàng.
- Tác động xấu đến hàng dệt may xuất khẩu còn là do
sản xuất nguyên phụ liệu như: xơ, sợi tổng hợp, bông vải thành
phẩm, dây khoá kéo, cúc … chỉ mới đáp ứng được 10-15% nhu
cầu. Khâu thiết kế và sản phẩm may mặc còn nhiều hạn chế mẫu
22
mã nghèo nàn, giá thành cao chưa xây dựng được một thương
hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế.
- Bên cạnh những đối thủ mạnh, thị trường EU cũng
đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm cao đòi hỏi phải có máy
móc hiện đại. Thiết bị của ngành may đã đổi mới được khoảng
90 – 95% nhưng khả năng tự động hoá còn yếu. Công nghệ cắt
may lạc hậu so với các nước trong khu vực.
- Cái yếu của ngành may xuất khẩu chính là do các
doanh nghiệp chưa có hình thức mua đứt bán đoạn, chưa có sản
phẩm tự thiết kế sản phẩm hoàn chỉnh để đi chào hàng cho các
khách hàng EU.
- Nhiều doanh nghiệp chưa áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9000 và ISO 14000 một tiêu chuẩn gần như bắt buộc
với tất cả các mặt hàng dệt may nhập khẩu vào EU.
- Chính sách đầu tư phát triển ngành dệt may chưa hợp lý
như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho
ngành dệt từ 7 – 10 năm, ngành may từ 5 – 7 năm. Thực tế ở Việt
Nam đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 – 15 năm, ngành may từ 10
– 12 năm mới thu hồi được hết vốn. Các thủ tục triển khai vốn
đầu tư xây dựng thường kéo dài, và chưa có chính sách cụ thể
thích hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong
nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành dệt may.
- Vốn đầu tư phát triển ngành dệt may còn thiếu, đặc biệt
ở các doanh nghiệp nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn trải, manh
mún theo hướng tự cân đối khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm
cho ngành dệt may ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa
các khâu trong sản xuất.
23
- Doanh nghiệp Việt Nam chưa biết tận dụng lợi thế của
cộng đồng các doanh nghiệp người Việt kinh doanh hàng dệt
may tại EU. Chỉ riêng ở Đức có 50000 người Việt sinh sống đã
có 20000 chuyên kinh doanh trong lĩnh vực may mặc trong số họ
cũng có khoảng 100 ông chủ lớn là những doanh nghiệp dệt may
người Việt có tiếng và có tiềm lực. Trong khi các doanh nghiệp
Trung Quốc tại thị trường này biết tập hợp nhau lại thành Hiệp
hội kinh doanh hàng dệt may người Trung Quốc và nỗ lực đưa
hàng Trung Quốc với giá rẻ tấn công áp đảo các đối thủ tại thị
trường EU thì ta lại chưa biết khai thác lợi thế này để giúp các
doanh nghiệp ngồi lại với nhau tránh cạnh tranh không lành
mạnh và quan trọng hơn là tạo thành một kênh tiêu thụ hàng dệt
may Việt Nam rất lớn tại đây.
III. MỘT SỐ MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CHO
HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1 Những mục tiêu cần đạt được với thị trường EU
- Duy trì và phát triển thị trường EU mở rộng mặt hàng
xuất khẩu trên cơ sở nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi
phí, cải tiến mẫu mã tạo ra mặt hàng mới, kết hợp các hình thức
kinh doanh linh hoạt nhằm tăng thị phần tại thị trường EU một
cách ổn định vững chắc, cố gắng đạt được kim ngạch xuất khẩu
sang EU từ 600 – 700 triệu USD.
- Tiếp tục đàm phán ở cấp nhà nước để tăng lượng hạn
ngạch dệt may.
24
- Tìm cách cắt giảm chi phí lưu thông, chi phí hành chính
để hạ giá sản phẩm xuống để có thể cạnh tranh về giá khi EU
bãi bỏ hạn ngạch vào năm 2005
- Tận dụng ưu thế về giá nhân công, kỹ năng lao động và
cải cách phương thức quản lý hạn ngạch và tìm cách giảm thời
gian chờ đợi khách hàng đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất
lượng sản phẩm để tạo lợi thế lấn át các đối thủ cạnh tranh trong
khu vực kể cả Trung Quốc và Inđônêxia và tăng nhanh thị phần
trên thị trường EU.
- Cố gắng tìm kiếm những đơn hàng xuất khẩu trực tiếp
nhưng vẫn duy trì hình thức gia công xuất khẩu
3.2 Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may vào thị trường EU.
3.2.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp dệt may
- Nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất
khẩu sang EU. Để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm
các doanh nghiệp Việt Nam phải chú trọng đến đổi mới thiết bị
công nghệ, thay thế máy móc thiết bị lạc hậu nhằm nâng cao
năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Để khắc
phục tình trạng lạc hậu của máy móc thiết bị công nghệ phương
án tối ưu với các doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu máy móc
công nghệ dệt may nguồn từ EU. Nhập khẩu máy móc công nghệ
nguồn từ EU sẽ giúp giải quyết được vấn đề phương tiện sản
xuất hiện đại, giải quyết khó khăn do yêu cầu khắt khe về chất
lượng sản phẩm từ EU.
25