Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

ôn tập văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.1 KB, 60 trang )

Công thức làm văn nghị luận
Trong thể làm văn nghị luận thì 2 môn Chứng Minh và Giải Thích là nền tảng cho các
loại còn lại. Binh luận hay Phân tích thực chất cũng là sự kết hợp pha trộn giữa Chứng
Minh và Giải Thích. Khi Phân tích thì phầngiải thích nặng hơn chứng minh, khi Bình
luận thì phần chứng minh nặng hơn giải thích. Do đó, nắm rõ phương pháp Chứng
Minh và Giải Thích sẽ giúp cho việc làm văn trở nên dễ dàng hơn.
Cơ bản của phươngpháp này là các công thức dễ nhớ, dựa vào các công thức này mà
ngườiviết có thể tìm ý, xây dựng khung ý tưởng dồi dào cho bài viết.
Làm văn ai cũng biết có 3 phần Mở bài - Thân bài - Kết Luận
1. Mở bài: là chìa khóa cho toàn bộ bài văn, phần mở bài gồm có 3 phần:
Gợi- Đưa - Báo : tức là GỢI ý ra vấn đề cần làm - sau khi gợi thì ĐƯA vấnđề ra - cuối
cùng là BÁO - tức là phải thể hiện cho biết mình sẽ làm gì.
Khó nhất là phần gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp /6 lối để giải quyết như sau:
- Tươngđồng / tương phản : đưa ra một vấn đề tương tự/hoặc trái ngược để liêntưởng
đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để ĐƯA vấn đềra, cách này thường
dùng khi cần CM-GT-BL về câu nói, tục ngữ, suy nghĩ.
- Xuất xứ / đại ý: dựa vào thông tin xuất xứ/ đại ý để dưa vấn đề ra, cách này thường
dùng cho tác phẩm/tác giả nổi tiếng
- Diễn dịch/ quy nạp: cách này thì cũng khá rõ về ý nghĩa rồi.
2. Thân bài
Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một vấn đề
chung. Để tìm ý cho phần thân bài thì có thể dùng các công thức sauđâyđể đặt câu hỏi
nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó cóthể sử dụng toàn bộ hoặc một
phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bàivăn:
Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
2.1 Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Gì: Cái gì, là gì
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Do: do đâu


Nguyên: nguyên nhân
Hậu: hậu quả
hãy tưởng tượng vấn đề của mình vào khung câu hỏi trên , tìm cách giải đápcâu hỏi
trên với vấn đề cần giải quyết thì bạn sẽ có một lô một lốc cácý tưởng
2.2 Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
Mặt: các mặt của vấn đề
Không: không gian xảy ra vấn đề (thành thị, nông thôn, việt nam hay nước ngoài )
Giai: giai đoạn (vd giai đoạn trước 1945, sau 1945 )
Thời: thời gian - nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn (có thể là, mùa thu mùa đông, ùua
mưa mùa nắng, buổi sáng buổi chiều )
Lứa: lứa tuổi (thiếu niên hay người già, thanh niên hay thiếu nữ )
1
2.3 Hình thành đoạn văn từ khung ý tưởng:
Sau khi dựa vào công thức bạn hình thành được khung ý tưởng, điều tiếp theo là từ
từng ý tưởng đó ta triển khai ra các đoạn văn hoàn chỉnh. Cáchtriển khai đoạn văn
dùng công thức
Nào - Sao - Cảm
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Cảm: cảm xúc, cảm giác, cảm tưởng của bản thân
Cứ như vậy bạn sẽ có nhiều đoạn văn, các đoạn văn này hợp lại là thân bài
3. Kết bài
Có công thức Tóm - Rút - Phấn để thực hiện phần này
Tóm: tóm tắt vấn đề
Rút: rút ra kết luận gì
Phấn: hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
I/ Giới thiệu chung :
1/ Nguyễn Dữ , quê ở Hải Dương , sống vào thế kỉ 16 , thời kì nhà Lê khủng hoảng ,
các tập đoàn Lê- Trịnh -Nguyễn tranh giành quyền lực . Tác phẩm nổi tiếng của

Nguyễn Dữ là " Truyền kì mạn lục ", gồm 20 truyện viết đan xen giữa biền văn và
thơ ca .
2/ Chủ đề của truyện " Chuyện người con gái Nam Xương " : thể hiện niềm cảm
thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt , đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống
của người phụ nữ VN dưới chế độ PK.
3/ Tóm tắt truyện : Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam
Xương, tính tình nết na thuỳ mị. Cô lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì
chàng phải đi lính . Nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ chồng già và nuôi con nhỏ . Để dỗ
con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó . Khi Trương Sinh về
thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ nói với Trương sinh rằng cha nó đêm đêm vẫn
đến nhà . Trương Sinh sẵn tính ghen, nghi ngờ vợ không chung thuỷ, mắng nhiếc và
đuổi đi. Vũ Nương giãi bày không được. Hàng xóm biện bạch cũng không xong.
Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn . Nàng được tiên rùa Linh Phi rẽ
nước cho xuống sống dưới thuỷ cung . Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì sự đã rồi .
Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng . Vũ Nương hiện về nói lời từ biệt rồi biến
mất .
II/ Đề văn tham khảo :
Đề 1 : Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Dàn bài :
1/ Mở bài : Ca dao có câu " Thân em như hạt mưa sa , hạt vào giếng ngọc hạt ra
ruộng lầy " . Câu ca dao trên như tiếng than ai oán cho thân phận của người phụ nữ
dưới chế độ phong kiến . Họ là những người có nhiều vẻ đẹp đáng được trân trọng
nhưng số phận của họ thì luôn chịu phải những đắng cay oan nghiệt . Với " Chuyện
2
người con gái Nam Xương " , Nguyễn Dữ- một nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ 16 đã thể
hiện niềm thương cảm sâu sắc cho cuộc đời bất hạnh của những kiếp hồng nhan trong
xã hội PK nam quyền .
2/ Thân bài:
* Cảm nhận chung : Câu chuyện về số phận bất hạnh của Vũ Thị Thiết vẫn ám ảnh
người đọc . Đó là sự xót thương, thông cảm cho cuộc đời người phụ nữ đức hạnh,

thuỷ chung mà cuối cùng phải nhận cái chết oan uổng .
Truyện được chia làm 3 phần đều tập trung kể về cuộc đời bất hạnh của Vũ Nương
+ Vẻ đẹp của Vũ Nương
+ Những nỗi oan của Vũ Nương
+ Vũ Nương dưới thuỷ cung .
a/ Vẻ đẹp của Vũ Nương: Vũ Thị Thiết là người phụ nữ hoàn hảo, nàng có đầy đủ
những phẩm chất của người phụ nữ theo tiêu chuẩn của chế độ PK " công ,
dung, ngôn,hạnh " . Trong từng hoàn cảnh , những phẩm chất ấy được bộ lộ theo
từng cấp độ khác nhau:
+ Mở đầu t/ p : Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ thuỳ mị nết na , tư
dung tốt đẹp
+ Khi nàng lấy chồng : Biết chồng có tính đa nghi, nàng khéo léo giữ gìn khuôn
phép , không để xảy ra thất hoà . Sự khéo léo chuẩn mực của nàng dường như đã hoá
giải được Trương Sinh nếu như không có sự xa cách
+ Khi tiễn chồng đi lính: nàng dặn dò chu đáo, đằm thắm , thiết tha : " thiếp chẳng
mong được đeo ấn phong hầu chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình an "
thể hiện tình yêu thương, sự lo lắng của nàng đối với chồng, tình yêu ấy vượt lên
trên mong ước vinh hoa phú quí, tâm tư quen thuộc của phụ nữ phong kiến .
+ Khi xa chồng : nàng ở nhà một mình nuôi mẹ già con dại , hết lòng hiếu nghĩa ân
tình với mẹ chồng và một mực thuỷ chung son sắt với chồng: " Mỗi khi thấy bướm
lượn đầy vườn , mây che kín núi là nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn
được " thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi của người vợ trẻ . Mẹ già vì quá nhớ thương con
trai mà sinh ốm . Vũ Nương hết lòng chăm sóc, thuốc thang chu đáo , lựa lời ngon
ngọt khuyên lơn . Mẹ chồng hết sức cảm động " xanh kia quyết chẳng phụ con cũng
như con chẳng phụ mẹ ". Mẹ chồng qua đời , nàng vô cùng thương xót " việc ma chay
tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ ". Thương con, sợ con thiếu thốn tình cảm của
cha, nàng đã chỉ cái bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó . Vũ Nương là người
trọn nghĩa vẹn tình , nhưng bà mẹ chỉ có thể tin vào niềm tin mộc mạc của triết lí" ở
hiền gặp lành . Nhưng triết lí ấy đã không thành hiện thực khiến nỗi oan của Vũ
Nương lại càng thêm chua xót .

* Khái quát lại phần I và chuyển ý : Tác giả tập trung làm nổi bật những phẩm chất
quí báu của Vũ Nương . Nàng không chỉ thuỳ mị Nàng xứng đáng được hưởng
một hạnh phúc trọn vẹn . Nhưng nàng lại chịu những đắng cay , oan trái , càng
cay đắng và chua xót hơn khi những nỗi oan ấy lại do chính những người thân yêu
nhất của nàng gây ra .
b/ Nỗi oan của Vũ Nương : Trương Sinh trở về bình an như ước nguyện của nàng ,
nhưng giấc mộng xum họp cùng thú vui nghi gia nghi thất lại từ đây mà tan vỡ .
3
+ Trương Sinh nghi ngờ vợ : Đứa con không nhận cha " Ô hay, ông cũng là cha tôi
ư , ông lại biết nói , chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít". Trương Sinh
gặng hỏi, Đản thông tin thêm " Có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả ". Lời nói ngây thơ
vô tình của con trẻ đã làm nảy sinh mối nghi ngờ trong lòng con người vốn qua
đa nghi, Trương Sinh đinh ninh vợ hư hỏng .
+ Vũ Nương chết oan khuất : Nàng van xin,giãi bày không được , hàng xóm biện
bạch cũng không xong . Nàng bị chồng cho là thất tiết " la um cho hả giận " rồi "
mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi ".Vũ Nương mất tất cả " chồng con rẫy bỏ tiếng
chịu nhuốc nhơ " . Nàng phải chọn cái chết để giãi tỏ lòng trong sạch
+ Nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương :
Trực tiếp : Lời nói ngây thơ vô tình của bé Đản, sự đa nghi thái quá của Trương
Sinh
Gián tiếp : Chiến tranh phong kiến liên miên dẫn đến sự xa cách
Sâu xa : Chế độ PK nam quyền với nhiều hủ tục khắt khe trói buộc người phụ
nữ , dung túng cho sự hồ đồ, tàn nhẫn của người đàn ông
+ Liên hệ mở rộng : Phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình , luôn chịu
sự lệ thuộc vào đàn ông ( Dẫn chứng bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương ), hoặc
phải chịu sự oan khuất ( cái chết của Vũ Nương ) . Khi Trương Sinh tỉnh ngộ thì đã
muộn màng .
c/Vũ Nương dưới thuỷ cung :
* Nhận xét chuyển ý: Trong hoàn cảnh xã hội PK đang cơn khủng hoảng, thì cái chết

của Vũ Nương là không tránh khỏi. Nhưng Nguyễn Dữ đã không đang tâm với kết
thúc đau xót ấy . Chuyện cổ tích Vợ chàng Trương dừng lại ở chỗ bé Đản chỉ cái
bóng và Trương Sinh nhận ra sai lầm nhưng việc đã rồi . Còn Nguyễn Dữ thêm phần
sau với những chi tiết kì ảo ( tóm tắt ngắn gọn đoạn 3).
+ Ý nghĩa của những chi tiết kì ảo : Khác với môtíp của truyện cổ tích, yếu tố kì ảo
không đan xen vào cốt truyện mà được tách riêng thành một phần nhằm :
Giảm đi tính bi kịch của truyện và tạo kết thúc có hậu hơn : Vũ Nương được lập
đàn giải oan
Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương : ở thuỷ cung Vũ Nương
vẫn canh cánh nỗi nhớ nhà, một lòng một dạ hướng về quê hương , khao khát được
giải tiếng oan
Điểm thành công nhất của t/p là ở chi tiết kì ảo cuối, mang tính tố cáo hiện thực sâu
sắc tuy nó không làm thay đổi được hiện thực : Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3
đêm nhưng vẫn không chuộc được lỗi lầm của mình. Vũ Nương không trở về vì cái
xã hội đầy dẫy nhưng bất công không dung chứa nổi cái đẹp , cái trong trắng của
người phụ nữ
d/ Đặc sắc nghệ thuật : Khéo léo trong cách dẫn dắt tình tiết , diễn biến câu chuyện ,
xây dựng câu chuỵên giàu kịch tính , chân thực, sống động , lời trần thuật khách quan,
tự nhiên, hợp lí , sáng tạo đặc sắc.
3/ Kết bài : Qua câu chuyện thương tâm về , Nguyễn Dữ bộc lộ niềm thương cảm
và khẳng định niềm tin tưởng vào vẻ đẹp truyền thống quí báu của họ . Câu chuyện sẽ
4
mãi sống với thời gian cùng với những giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo
cao cả .

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
I/ Tìm hiểu chung : Ngô gia văn phái thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng tả Thanh Oai
( huyện Thanh Oai- Hà Nội ) . hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du . Tác
phẩm được viết theo thể chí ( tiểu thuyết lịch sử chương hồi ) ,thời Tây Sơn khởi
nghĩa , đánh tan quân Thanh xâm lược . Văn bản thuộc hồi 14

II/ Đề văn tham khảo :Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung
1/ Mở bài : Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả rất trung thành với vua Lê . Nếu
xét theo quan điểm PK thì vua Quang Trung là kẻ " nghịch tặc " . Thế nhưng trong "
Hoàng Lê nhất thống chí " thì hình ảnh Quang Trung- Nguyễn Huệ lại hiện lên thật
oai phong lẫm liệt với tài cầm quân " bách chiến bách thắng " và nhiều phẩm chất tốt
đẹp khác. Điều đó một phần bởi triều đình nhà Lê đã quá suy yếu, mục nát , mặt khác
có thể chính tài năng và đức độ của vua Quang Trung đã làm thay đổi quan điểm của
nhóm tác giả này , và hình ảnh Quang Trung cùng chiến công hiển hách của ông được
Ngô gia văn phái thể hiện trong tác phẩm một cách chân thực và rõ nét .
2/ Thân bài :
- Đoạn trích thuộc hồi 14 của tác phẩm . Phần đầu đoạn trích cho thấy vua Quang
Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền .
( Lắng nghe ý kiến thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra
Bắc , hỏi người Cống sĩ ở Nghệ An về việc đánh quân Thanh ntn , chứng tỏ ông rất
quan tâm đến ý dân, lòng dân .)
- Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng hết sức thuyết phục: vừa khéo léo, mềm
mỏng lại vừa kiên quyết, hợp tình, hợp lí ( nói với binh sĩ ông cho họ ngồi, lời nói
giản dị, dễ hiểu, lấy lịch sử để nêu gương ,tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ ăn ở hai
lòng)
- Cách ứng xử với các tướng lĩnh mềm mỏng mà kiên quyết : Khi đến Tam Điệp , Sở
và Lân mang gươm tren lưng xin chịu tội , ông thẳng thắn chỉ ra tội của họ nhưng
cũng nói rõ họ là người có công lớn trong việc bảo toàn lực lượng , đợi thời cơ .
- Lời nói, việc làm của vua Quang Trung hợp tình, hợp lí và hợp lòng người : mềm
dẻo, kiên quyết, xét đúng công, đúng tội , đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng
lên trên hết , khiến binh sĩ cảm phục, hết lòng chống giặc.
- Tài dụng binh như thần : Việc tuyển quân, cuộc hành quân tấn công thần tốc của
vua Quang Trung, lời hứa trước lúc xuất quân chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng, tài
thao lược, xử trí nhạy bén, mưu trí ( đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn
cônglàng Hà Hồi , dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi ) . tài dùng binh
khôn khéo đó khiến quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, dẫn tới sự thất bại thảm hại của

chúng " Tôn Sĩ Nghị sợ mất mất, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc
giáp, chuồn trước qua cầu phao " , đám tàn quân thì " giẫm đạp lên nhau mà chạy
trốn "
5
3/ Kết bài : Cuộc đại phá quân Thanh quả là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ Quốc của dân tộc ta . Người làm nên kì tích ấy chính là người anh
hùng áo vải Quang Trung -Nguyễn Huệ . Tác giả thật hả hê sung sướng khi truyền đến
cho người đọc những giây phút lịch sử oai hùng đó . Và hình ảnh lẫm liệt của vua
Quang Trung mãi mãi là một bậc thầy về nghệ thuật quân sự với tài thao lược cùng
tấm lòng hết mình vì dân vì nước
TRUYÊN KIỀU
I/ Tìm hiểu chung :
Nguyễn Du( tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên), quê ở làng Tiên Điền huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) sống trong một thời đại có nhiều biến cố lịch sử : cuối thế kỉ 18,
đầu thế kỉ 19 , chế độ PK khủng hoảng trầm trọng với sự tranh giành của các tập đoàn
PK Lê- Trịnh- Nguyễn , phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là
khởi Tây Sơn .Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đai quí tộc, nhiều đời làm
quan , có truyền thống về văn học . Nguyễn Du từng làm quan dưới triều Nguyễn, đi
sứ Trung quốc, vốn kiến thức sâu rộng ,am hiểu cuộc sống của nhân dân.Sự nghiệp
văn học của Nguyễn Du gồm sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm .
Đoạn trường tân thanh ( Truyện Kiều ) là tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất của
Nguyễn Du , mượn cốt truyện từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân (Trung Quốc). Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu lục
bát truyền thống .
II/ Tóm tắt Truyện Kiều: Theo bố cục 3 phần
- Gặp gỡ và đính ước : Thuý Kiều là con gái đầu lòng của một gia đình họ Vương
trung lưu lương thiện , sống êm đềm hạnh phúc cùng cha mẹ và hai em là Thuý Vân
và Vương Quan . Kiều là cô gái tài sắc vẹn toàn . Nhân dịp Tết thanh minh, Kiều và
Vân đi tảo mộ ,du xuân . Lúc về gặp Kim Trọng , chàng thư sinh " phong tư tài mạo
tót vời". Giữa Kim Trọng và Thuý Kiều nảy nở mối tình đầu trong sáng , đằm thắm .

Kim Trọng tìm đến trọ học ở gần nhà Kiều . Hai người gặp nhau và tự nguyện đính
ước .
- Gia biến và lưu lạc: Kim Trọng về quê chịu tang chú .Gia đình Kiều bị vu oan, cha
và em trai nàng bị bắt . Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng rồi quyết định bán
mình để cứu cha và em .Không ngờ, Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà lừa
gạt , đẩy vào lầu xanh. nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, cứu
thoát. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh ghen tuông,đầy đoạ đành
phải trốn đến nương nhờ cửa Phật . Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà- một kẻ
buôn người như Tú Bà. Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ 2. Rồi nàng gặp Từ Hải - một
anh hùng đầu đội trời chân đạp đất cứu thoát , lấy nàng làm vợ và giúp nàng báo ân
báo oán .Vì mắc lừa tên tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến nên Từ Hải bị giết. thuý
Kiều phải hầu đàn, hầu rượu cho Hồ tôn Hiến và bị ép gả cho tên thổ quan. Đau đớn,
tủi nhục, nàng trẫm mình xuống sông Tiền Đường nhưng sư Giác Duyên lại cứu lần
thứ hai và gửi nàng nơi cửa Phật .
- Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều . Nghe tin Kiều bán mình, chàng vô cùng đau
xót .Tuy kết duyên với vân nhưng chàng không thể nào quên mối tình đầu say đắm.
6
Chàng lặn lội đi tìm Kiều .Nhờ gặp Giác Duyên , Kim - Kiều gặp nhau, gia đình đoàn
tụ sau 15 năm Kiều lưu lạc. Chiều ý mọi người, Kim- Kiều nối lại duyên xưa nhưng
họ cùng nguyện ước" Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy " .
III/ Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều :
1/ Giá trị nội dung : Hiện thực và nhân đạo
- Hiện thực:
Là bức tranh hiện thực về xã hội bất công, tàn bạo , đặc biệt là ma lực đồng tiền
Phơi bày nỗi thống khổ của người lương thiện đặc biệt là người phụ nữ
- Nhân đạo: Là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người nhất là
người PN
Tiếng nói lên án , tố cáo những thế lực xấu xa
Tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát
vọng chân chính của con người như quyền sống, quyền tự do, công lí và hạnh phúc

2/ Giá trị nghệ thuật : Kiệt tác truyện Kiều là kết tinh thành tựu nghệ thuật văn
học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại
- Ngôn ngữ VHDT và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ
- Nghệ thuật tự sự đã có những phát triển vượt bậc : Dẫn chuyện , miêu tả thiên
nhiên, khắc hoạ tính cách và miêu tả tâm lí nhân vật

Kiều ở lầu Ngưng Bích
Kiệt tác truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thành công về nghệ thuật
tự sự với cốt truyện đặc sắc, tình tiết hấp dẫn gây xúc động lòng người . Bút pháp tả
cảnh của t ác gỉa thể hiện trong truyện cũng khiến người đọc vô cùng nể phục . Một
trong những điều đáng kính nể ấy là bút pháp tả cảnh ngụ tình mà đoạn trích Kiều ở
lầu Ngưng Bích được cho là một bức tranh tâm cảnh tuyệt vời nhất . Đọan trích gồm
22 câu tả cảnh nơi lầu Ngưng Bích và tâm trạng cô đơn, buồn khổ, nhớ nhà, nhớ
người yêu của Kiều
Sau khi nhận Kiều từ tay Mã giám sinh, Tú Bà buộc nàng tiếp khách nhưng Kiều
không chịu. Mụ đã đánh đập thúc ép nên nàng đã đ ịnh quyên sinh để mong thóat
khỏi cảnh ô nhục nhưng không được. Tú Bà đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng
Bích nói là để tìm nơi xứng đáng gả chồng cho nàng nhưng kì thật là đợi để thực hiện
mưu ma chước quỷ băt nàng phải làm gái lầu xanh kiếm lợi cho mụ.
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn
của Kiều. Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy
Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một
khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người :
“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung, Bốn bề bát ngát xa trông, cát vàng cồn nọ, bụi
hồng dặm kia”.Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một
không gian rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ
và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông
bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn , bên thì những đám bụi
hồng trải khắp dặm xa. Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật

7
hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẽ bàng chua xót :
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là chỉ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày,
Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn
tuyệt đối.Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra
người yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương
Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận , nàng cảm thấy như
mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày
trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình. “Tưởng người dưới nguyệt
chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ”.Càng thương nhớ người yêu ,
càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi
đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với chàng
Kim sẽ không bao giờ phai nhạt. “Bên trời góc bể bơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho
phai”.
Với người yêu, nàng nhớ thương nuối tiếc . Còn với cha mẹ, Kiều xót xa thương nhớ
khôn cùng “Xót người tựa cửa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa. Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nỗi nhớ thương ấy của Kiều mới cảm động làm sao . Kiều quả là một người con hiếu
kính cha mẹ . Tuy đã bán mình cứu cha và em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều vẫn thấy
mình chưa trọn đạo làm con . Nàng hình dung ra bóng song thân già yếu đang ngày
đêm “tựa cửa” ngóng trông mình và xót xa tự nghĩ ai sẽ là người thay mình chăm sóc
cha mẹ. Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh động
và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều.Trong đọan thơ này , tài năng của thi hào
Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi viết về tâm trạng Kiều. Để
nàng nhớ người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Điều này thật chuẩn xác và khách
quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đã tự bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được một phần
chữ hiếu, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã
thấy mình lỗi hẹn như một người bạc tình: “Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi
thiếp đã phụ chàng từ đây” Cái tinh tế trong tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du nhận ra

đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác. Tám câu cuối là tâm trạng buồn lo của Kiều
về dự cảm về kiếp người " tài hoa bạc mệnh" sẽ ập đến với cuộc đời nàng . Đến đây,
người đọc càng thán phục Nguyễn Du bởi bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo, một
trong thành công về nghệ thuật của Truyện Kiều . “Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa.Buồn trông ngọn nước mới sa. Hoa trôi man
mác biết là về đâu. Buồn trông nội cỏ dàu dàu. Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh”.
“Buồn” và “trông”. Buồn và cô đơn. Cảnh vật dưới con mắt của Kiều lúc này dường
như cũng có hồn, như cũng buồn lây theo tâm trạng của mình Ta chợt nhớ đến một
câu thơ khác mà Nguyễn Du đã từng viết trong truyện Kiều :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Cụm từ “buồn trông” như một điệp khúc vừa tạo ra nhạc điệu du dương vừa thể hiện
nỗi buồn lớp lớp trào dâng trong lòng Kiều. Có những nét tả thực với “cửa bể, cánh
8
buồm, chân mây, tiếng sóng…” nhưng đều chứa đựng nhiều nghĩa ẩn dụ , gợi mở
những liên tuởng phản ảnh nỗi lòng Kiều . Đặc biệt trong hai câu cuối đoạn, nàng
cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại và hãi hùng trước tương lai như
bão táp đang chực chờ, đe dọa tấm thân mình : “Buồn trông gió cuốm mặt duyềnh
.Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” . Ngồi trước lầu Ngưng Bích , vậy mà nàng
tưởng như mình đang ở giữa biển khơi, bốn bề ầm ầm sóng vỗ , sóng dữ gào thét,
cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng tràn dội cả vào tâm hồn , dông tố vây bủa nàng như
dự báo những sóng gió cuộc đời sẽ bất ngờ ập đến vùi dập tấm thân nàng .
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đọan tả cảnh ngụ tình hay nhất trong
Truyện Kiều. Hay vì đoạn thơ này không những thể hiện tài năng của Nguyễn Du
trong cách miêu tả nội tâm nhân vật , mà đọc đoạn thơ , ta còn cảm nhận được những
phẩm chất vô cùng quí giá của Kiều : Đó là tấm lòng hiếu thảo, thuỷ chung son sắt .
Không những thế , đoạn thơ còn chứng tỏ cảm hứng nhân đạo sâu sắc trong cây bút
Nguyễn Du , đó là sự trân trọng và quan tâm đến số phận của con người , đặc biệt là
người phụ nữ .Kiều ở lầu Ngưng Bích quả là một bức tranh tâm cảnh đặc sắc làm lay

động lòng người .
Mã Giám Sinh mua Kiều
" Trong tay có sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì "
( Nguy ễn Du- Truy ện Ki ều )
Quả là trong truyện Kiều , ma lực đồng tiền thật vô cùng ghê gớm . Vì tiền , con
người có thể đánh mất lương tri. Cũng vì tiền , con người có thể bất chấp mọi thủ
đoạn, sẵn sàng chà đạp lên tâm hồn và thể xác của những người lương thiện . Đoạn
trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã vạch trần bộ mặt của những kẻ hám tiền , bất
lương , xảo trá đó , đồng thời thể hiện nỗi xót xa thương cảm trước tình cảnh đáng
thương tội nghiệp , nỗi ê chề, nhục nhã trong tai họa bất hạnh đầu tiên của cuộc đời
Kiều.:
Sau khi gặp gỡ, đính ước cùng Kim Trọng thì thình lình gia đình Kiều gặp tai họa.
Cha và em bị bắt bớ, hành hạ. Không đành lòng để gia đình tan nát, nàng đã tự
nguyện bán mình để lấy tiền lo lót cho bọn tham quan để chuộc cha và em ra khỏi
vòng lao lý. Chẳng may, kẻ đến mua nàng lại là Mã giám sinh, một tên buôn người .
Xuất hiện trong vai một chàng sinh viên đi lấy vợ lẽ, Mã giám sinh đến nhà Kiều đển
dạm hỏi Kiều qua lễ “vấn danh”. Hắn là người phương xa, cả quê quán, lí lịch đều
không rõ ràng. Tuy tuổi đã ngoài bốn mươi nhưng hình thức diện mạo vẫn như trai lơ,
bảnh chọe (Quá niên tạc ngoại tứ tuần. Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao).
Hỗ trợ cho gã "trai lơ" ấy còn có cả một đám tôi tớ lao xao nhâng nháo đi theo. Tất
cả đều được mời vào nhà một cách trang trọng . Thế nhưng ngay từ phút đầu tiên, Mã
đã không giấu được bộ mặt thật của mình. Đặc biệt với cử chỉ thô lỗ, không văn hoá
“Ghế trên ngồi tót sổ sàng”. Chỉ với từ “ngồi tót, tác giả đã vạch mặt gã cho mọi
người thấy rõ đó không phải là “giám sinh” gì cả mà chỉ là một tên vô học, thiếu lịch
sự, thiếu văn hoá, một tên con buôn đúng nghĩa “buôn thịt bán người” .
Tiếp đến là cách Mã nhìn, ngắm Kiều. Không phải là cách thức, tâm trạng của người
9
đi “xem mặt vợ” mà là cách nhìn, xem xét và đánh giá một một mòn hàng “đặc biệt”.
Hắn đã “đắn đo cân sắc cân tài. Ép cung đàn nguyệt, thử bài quạt thơ”. Hắn đã nhấc

lên, đặt xuống, xoay sở đủ điều với Thuý Kiều, coi nàng như một " món hàng " thật
sự. Khi đã tạm hài lòng với “món hàng”, Mã lại che đậy bản chất của mình bằng
những lời khách sáo, mỹ miều, giả dối:“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều. Sính nghi xin
dạy bao nhiêu cho tường”Nói là nói vậy chứ không phải như vậy. Bởi ngay sau đó gã
lại bộc lộ tính “con buôn” của mình bằng cách thức “mua bán”, thách giá – trả giá như
ngoài chợ trước “món hàng”: “Cò kè bớt một thêm hai. Giờ lâu ngã giá vàng ngoài
bốn trăm”. Trong khi người ra giá (mụ mối) “ thách” đến “ Chữ trinh đáng giá ngàn
vàng” (!!)Lúc này Mã giám sinh đã hiện nguyên hình là một “con buôn thứ thiệt”, ghê
tởm và đê tiện.Trong đoạn này, nếu hình ảnh Mã giám sinh càng xấu xa, đê tiện bao
nhiêu thì hình ảnh Kiều càng tội nghiệp bấy nhiêu. Là một tiểu thư đài các “phong lưu
rất mực hồng quần”. Kiều đang sống yên vui trong cảnh “Êm đềm trướng rũ màn che”
, lại đang say men hạnh phúc với mối tình đầu vừa chớm nở, trong sạch nhưng cũng
nồng ấm và mãnh liệt thì tai hoạ bất ngờ đổ xuống biến nàng thành món hàng cho bọn
“buôn người” trao tay “cò kè bớt một thêm hai” mua bàn, bán mua. Vốn là một người
con gái thông minh và nhạy cảm, kiều cảm nhận rất sâu sắc tình cảnh của mình trong
lúc này là đáng hổ thẹn , nhục nhã tột cùng. “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà. Thềm hoa
một bước lệ sa mấy hàng. Ngại ngùng rợn gió e sương. Nhìn hoa thẹn bóng, soi guơng
mặt dầy”. Trong màn kịch “lễ vấn danh” , dưới tay đạo diễn của mụ mối. Kiều đã nhất
cử nhất động làm theo : đánh đàn, làm thơ như những việc làm máy móc, vô cảm , trơ
lì chịu đựng, đành chấp nhận tất cả, miễn sao đạt được mục đích là “có tiền” để chuộc
cha và em ra khỏi vòng lao lý, để gia đình không tan nát. Với dáng vẻ “Nét buồn như
cúc, điệu gầy như mai”.Hình ảnh của Kiều thật đáng thương, tội nghiệp. Tuy nín lặng
nhưng cô gái này đã không sao giấu được nỗi niềm cay đắng , xót xa và tủi nhục.
Đoạn trích này ta càng thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua thái độ đau
đớn, xót xa trước thực trạng thân phận và nhân phẩm con người, cụ thể ở đây là Kiều,
bị chà đạp, bị hạ thấp. Ngòi bút bất bình của tác giả phẩn nộ trong từng câu, từng chữ
khi phải nói đến tên “buôn nguời” Mã giám sinh. Cũng có thể nói đây là một lời tố
cáo thực trạng xã hội xấu xa, lời lên án thế lực đồng tiền thật mạnh mẽ
Cảnh ngày xuân
Thiên nhiên vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ cố. Với thiên tài Nguyễn Du, đề

tài ấy càng được ông thể hiện một cách đặc sắc . Trong truyện Kiều, thiên nhiên bốn
mùa đều được ông miêu tả với những đặc trưng rõ nét . Cảnh mùa xuân cũng là một
trong những bức tranh thiên nhiên như thế . Cảnh ngày xuân nằm ở phần đầu của
truyện. Đây là đoạn tiếp liền theo đoạn tả vẻ đẹp hai chị em Kiều. Đoạn này tả cảnh
chị em Kiều du xuân trong tiết Thanh minh. Đó cũng là một nét đẹp lễ hội ngày xuân
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân . Một bức tranh xuân tuyệt tác:
“Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. ”
Ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt vải trong khung cửi .Câu thơ này vừa diễn
tả không khí rộn ràng, tươi sáng của cảnh vật trong mùa xuân đồng thời thể hiện tâm
10
trạng nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh quá. Như thế hai câu đầu vừa nói về thời gian
mà còn gợi tả không gian mùa xuân. Hai câu còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt
đẹp.
“Cỏ non xanh tận chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh rợn. Đó chính là gam màu
nền của bức tranh ngày xuân tươi đẹp. Trên nền thảm cỏ xanh ấy điểm thêm vài bông
lê trắng. Sự phối hợp màu sắc của bức tranh thật hài hòa.Không có gì tuyệt vời hơn
thế . Màu xanh non tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho sức sống đang lên , còn
màu trắng là biểu tượng của sự trong trắng tinh khiết . Tất cả cho thấy ngày xuân ở
đây thật khoáng đạt, mới mẻ, thanh tân, dạt dào sức sống trong một không khí trong
lành, thanh thoát. Từ “điểm” dùng ở đây làm cho bức tranh thêm sinh động, có hồn.
Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng được miêu tả thật sinh động , náo nức:
Gần xa nô nức yến oanh . Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên . Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
Tết thanh minh, mọi người cùng nhau đi sửa sang lại phần mộ của người thân . Không
khí thật rộn ràng đựơc thể hiện qua một loạt các từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình .Tất
cả đều góp phần thể hiện cái không khí lễ hội đông vui , một truyền thống tốt đẹp của
những nước Á Đông.

Cảnh vật mùa xuân thì vẫn còn đó, nhưng, cuộc vui nào rồi cũng có lúc phải
tàn , nó để lại trong lòng người những cảm giác bâng khuâng nuối tiếc, đó chính là nội
dung của 6 câu cuối đoạn trích : " Tà tà bắc ngang". Cảnh vật, không khí mùa xuân
trong sáu câu này so với mấy câu đầu đã có sự khác biệt. Cái không khí rộn ràng náo
nức của buổi sáng không còn . Mọi thứ đều đã lắng xuống, nhạt dần. Nắng xuân ấm
áp hồng tươi vào buổi sớm giờ đây đã “nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp cầu bắc ngang tuy
vẫn giữ nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ nhàng, nhưng mặt trời
ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc nuối, dòng nước uốn
quanh. Nhưng tất nhiên thời gian khác thì không gian cũng khác. Nếu cảnh trong bốn
câu đầu là cảnh buổi sáng lúc lễ hôi mới bắt đầu thì ở đây là cảnh chiều tan hội . Tâm
trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Những từ láy “nao nao”, “tà tà”, “thanh
thanh” đâu chỉ tả cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng đãng, bâng khuâng,
xuyến xao và tiếc nuối…Bởi lẽ "Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn lại Sự vật
chảy trôi không quyền nào ngăn cản nổi" ( R. Tagore). Cảnh ngày xuân quả là một
bức tranh xuân không gì so sánh nổi .

Anh thanh niên trong lặng lẽ Sa pa
Sapa, một vùng đất tuyệt vời với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà thơ mộng, với
những chú bò đeo chuông đang thung dung gặm cỏ. Nhắc đến Sapa, người ta nghĩ
ngay đến những giờ phút thú vị được khám phá những ngọn núi cao, được giải thoát
khỏi cái nóng oi bức và hưởng thụ một không gian thoáng đãng, yên bình. Nhưng,
ngay tại cái nơi mà "chỉ nghe tên đã nghĩ ngay đến chuyện nghỉ ngơi" ấy, vẫn có
những con người âm thầm cống hiến tuổi xuân, tài năng sức lực của mình cho quê
hương đất nước. Hình ảnh những con người đáng quý ấy đã được khắc hoạ thật đẹp,
11
thật nổi bật qua hình ảnh nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa"-
kết quả cuả chuyến viếng thăm Lào Cai vào mùa hè năm 1970 của Nguyễn Thành
Long.
Truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa" được xây dựng với bốn nhân vật: bác lái xe, cô kỹ sư trẻ,
ông họa sĩ già và anh thanh niên- nhân vật chính của truyện. Anh thanh niên không

được giới thiệu ngay từ đầu truyện mà chỉ được nhắc đến qua lời của bác lái xe. Anh
xuất hiện, trò chuyện với bác họa sĩ và cô kỹ sư trẻ chỉ trong ba mươi phút, rồi lại
khuất lấp trong cái bạt ngàn, tĩnh lặng của núi rừng Sapa.
Trước khi anh xuất hiện, anh đã được bác lái xe giới thiệu là "một trong những
người cô độc nhất thế gian". Lời giới thiệu của bác lái xe đã gây ấn tượng mạnh và gợi
lên sự tò mò cho tất cả mọi người. Nhưng lời giới thiệu của bác không phải là hoàn
toàn cường điệu. Anh thanh niên sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn
cao 2600 mét, quanh năm chỉ có cây cỏ và sương mù lạnh lẽo. Bốn năm trôi qua, anh
chưa một lần về thăm nhà. Sống trong cái không gian lạnh lẽo chứa đượm nỗi buồn
man mác của Sapa, anh thanh niên luôn phải chịu đựng sự cô đơn. Đó là một thử
thách rất lớn đối với một thanh niên sôi nổi, nhiệt tình như anh. Vậy, điều gì đã giúp
anh vượt qua thử thách khó khăn ấy?
Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công việc và cuộc
sống.
+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.
+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có một
mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc công
việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.
Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và tinh thần.
+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.
Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ : Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho
những con người lao động mới, sống có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết
mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước trong một giai
đoạn lịch sử của dân tộc.
Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong “Lặng lẽ Sa Pa”, ta

nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên chúng ta trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
Tình cha con trong chiến tranh qua Chiếc lược ngà
Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi
người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận
người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa
12
trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người
nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn
khác mới mẻ và chân thực hơn. Câu chuyện khắc họa hình ảnh nhân vật bé Thu đầy
ấn tượng và tinh tế,ca ngợi tình cha con thiêng liêng, vĩnh cửu dù trong chiến tranh.
Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết
ra Bắc và bắt đầu viết văn. Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các
tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ. Nguyễn
Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, xoay quanh những câu
chuyện đời thường nhưng ý nghĩa. Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường
Nam Bộ chống Mỹ , là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc, xây dựng tình huống bất
ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết, mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
Truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi
kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì
con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông
Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng
mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé
Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con
một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho
con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi
nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết
sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây
ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong
mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà
ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà
ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính
của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách
của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé
Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây
dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại
là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé
Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với
má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già
đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng
khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn
quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi
thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không
đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định,
thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào tính cách cứng cỏi ngoan cường .
Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ
13
thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ
của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với
tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm
vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ
đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot
nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình
có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi
tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé
Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn

mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong
những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở
khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó, mẹ nó sang
dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu
được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một
đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.
Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu
tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà
cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi
vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa
hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể
từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về
cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi
nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm
mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến
ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ
rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba
nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy
lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ
đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha
nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào
dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa
kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt
lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài
trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó
đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên
trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được
nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi
cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng
với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.

Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên
quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ của một đứa bé 8 tuổi : Nhân vật bé Thu.
Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca
ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu
14
được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến
đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy
năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được
gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một
nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự
lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong
lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa
con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ
làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ
ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm
con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con
phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có
thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu
truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm
khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho
ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa
đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết
cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông
cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không
muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước
mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của
con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ
ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu
dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay

làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con
vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt hành
động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn
cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé
nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng
tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết
ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông
Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện
cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của
mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động
sâu sắc.
Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn
tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn
sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé
Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có
thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng
của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và
cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là
15
“Chiếc lược ngà”!)
Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất,là tổ
ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa
ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương
mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người
phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc
gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc
nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh
trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô
ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không
có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng

cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cùng
đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng,
“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây
dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông
Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là người từng
trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương,gắn bó máu thịt với
những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có
thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh
động,bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động!
Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc
liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia
đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một
áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu
tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.
Truyện ngắn làng-KimLân
Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945
với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn
quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện
tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở
chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công
một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể,
người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình
cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê
hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu
làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình
cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện

sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung
16
đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật
chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình
cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê
việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí
“đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường
hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng
lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm
nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không
bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong
tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt,
không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm
mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta
rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại
không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt
ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông
thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Khong khí nặng nề bao
trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay

gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có
tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung
thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu
thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như
cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất
khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời
thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách
căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi
cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn
17
theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của
kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng,
bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột
cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi
sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng
chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí
tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ

chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối
thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá
tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc,
chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình
thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới
trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến
chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong
những thành công đáng quý.
Cảm nhận về tình quê của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “ Bến quê” của
Nguyễn Minh Châu.
“Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi/ Quê hương nếu ai không
nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người” (trích Quê hương- Đỗ Trung Quân). Quê hương
vốn rất gần gũi, bình dị nhưng cũng rất đổi thiêng liêng trong tình cảm mỗi người Việt
Nam. Muôn ngàn tình cảm của con người sẽ hội tụ trong tình yêu quê hương đất nước.
Bởi thế, quê hương đã trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Truyện ngắn
“Bến quê” của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm tiêu biểu đã để lại nhiều ấn tượng sâu
sắc trong lòng đọc giả. Truyện là tình quê của Nhĩ – nhân vật chính của truyện, một
tình yêu quê hương, đất nước vẻ mới lạ trong văn học Việt Nam.
“Bến quê” là tình cảm mà Nguyễn Minh Châu đã gởi gắm qua nhân vật Nhĩ - một
người từng đi đến khắp nơi tận cùng của Trái đất nhưng đến cuối đời, căn bệnh hiểm
nghèo buộc chân anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hoàn
18
cảnh đặc biệt này, anh mới nhận ra những nét gần gũi, bình dị của quê hương mình.
Vào buổi sáng đầu thu, nằm trên giường bệnh cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt
anh đẹp biết bao. Nhĩ đưa mắt nhìn từ gần ra xa, từ thấp lên cao qua ô cửa sổ nhà

mình. Mấy bông hoa bằng lăng như đậm hơn. Thấp thoáng phía xa là con sông Hồng
với những tia nắng chiếu xuống, nước sông có màu vàng thau đẹp lạ thường. Mọi thứ
tưởng chừng rất đỗi quen thuộc lại trở nên hết sức lạ lẫm trong mắt Nhĩ- Cảnh vật đẹp
quá làm Nhĩ cứ ngắm hoài một cách say mê. Bỗng Nhĩ thấy “vòm trời như cao hơn”,
“dòng sông như rộng ra’. Cảnh vật vẫn hiện hữu bao lâu nay như thế đấy chứ? Đó chỉ
là cái nhìn của một con người có dự cảm sắp phải đi xa, đến một nơi rất xa, xa lắm….
Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình một điều: mình không còn sống
được bao lâu nữa? Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn sau những câu hỏi anh đã
hỏi Liên- vợ mình: “Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. Hình như Liên đã hiểu
những gì Nhĩ đang nghĩ nên chị không trả lời. Không phải ngẫu nhiên mà những bông
hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi bồi bên kia sông
lại vang đến tại Nhĩ hay Nhĩ hỏi Liên nhưng câu như thế nó dự báo về quãng đời còn
lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng. Những hình ảnh mang tính biểu tượng
được Nguyễn Minh Châu sử dụng khá thành công. Một con người luôn đi đến những
nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì không đau khổ nào bằng.
Nhưng chính những ngày này Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn rõ được hình ảnh
của quê hương. Đó là những bông hoa bằng lăng, là con sông, là bãi bồi, là vòm trời
quê hương… Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh
chưa quan tâm hết mực nay hiện ra trước mắt anh hình ảnh, một dáng dấp tần tảo, chịu
đựng, giàu đức hy sinh. Mọi sinh hoạt của Nhĩ đều nhờ vào sự chăm sóc của Liên.
Đến lúc này anh mới thấy thương và yêu vợ mình hơn bao giờ hết. Dù bao năm tháng
đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề thay đổi cũng như quê hương vậy, vẫn
chan chứa nghĩa tình. Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê
hương, yêu thương những gì gần gũi, bình dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của
Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng nhưng anh biết điều này không
thể. Anh đã nhờ con anh- Tuấn thực hiện ước nguyện này giúp anh. Nhưng nghịch lý
thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình mong muốn. Tuấn chưa hiểu
được ý muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh sa vào đám phá cờ thế
trên đường để thoả mãn nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình. Nhĩ không trách
Tuấn bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ chăng chỉ có những người từng trải như anh

mới hiểu hết được sự đời, mới thấy được những gì mình cần phải làm? Lúc này, Nhĩ
mới nhận ra một triết lý. Con người khó tránh khỏi cái “vòng vèo”, “chùng chình” trên
đường đời để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý trong
cuộc đời mỗi người không ai có thể lường hết được. Và hai tình huống nghịch lý trong
truyện này cũng là một minh chứng để mỗi người biết cách sống tốt hơn, sống đẹp
hơn.
Mong ước cuối cùng của Nhĩ không thể thực hiện được. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ
một cách xa xăm, đầy mê say. Anh mãi mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động
cuối cùng của Nhĩ: “đu mình ra ngoài cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang
ra hiệu cho một ai đó” có vẻ kỳ quặc. Nhưng có thể Nhĩ đang nôn nóng thúc giục con
19
trai mình hãy nhanh chóng để lỡ chuyến đò; hay đó là một sự đánh thức con người
hãy sống khẩn trương, sống có ích, đừng sống vô bổ và tránh xa những cái “vòng
vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời. và Nhĩ cũng ra đi trong niềm tiếc nuối. Bến
quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi vào cõi vĩnh hằng
nhưng trong anh còn chứa bao tiếc nuối. Hoàn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh
nhận ra được những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê
hương mình. Con người ta ai cũng thế, bao lần vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu
là họ có vực dậy mà đi tiếp không. Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo duổi những ước
mơ xa vời nơi chân trời tươi đẹp nhưng anh lại đánh mất hình ảnh của quê hương, của
người thân. Đến lúc Nhĩ nhận ra mọi sự việc thì đã quá muộn màng. Cuộc sống đối
với Nhĩ chỉ toàn là vô vị chỉ khi cuối đời thì phần người chan chứa thi vị trong anh
mới thực sự rõ nét. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh như được đất mẹ che chở
đến ngàn thu, đây cũng là một niềm hạnh phúc.
Truyện ngắn “Bến quê” khép lại để cho người đọc cảm thấy ngậm ngùi cho cuộc đời
một con người. Nhưng bài học triết lý sâu xa của truyện còn âm ỉ mãi. Trong cuộc
sống có bao lần ta mắc phải cái “vòng vèo”, “chùng chình” của đường đời, hãy sống
sao cho thật có ích, phải biết trân trọng những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương
bởi lẽ dù cho ta có đi đến nơi nào thì quê hương vẫn là điểm dừng chân cuối cùng của
cuộc đời mỗi con người. Tình yêu quê hương sẽ là nguồn sinh lực thúc đẩy mỗi chúng

ta hướng tới những ước mơ, khát vọng đích thực trong hương thơm lộng gió của cuộc
đời.
Phân tích nhân vật Phương Định - Truyện: Những ngôi sao xa xôi.
Chúng ta đã từng tự hào về hình ảnh những chiến sĩ lái xe hiên ngang trong bài
thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật . Lê Minh Khuê, một nhà văn trẻ
thuộc thế hệ thanh niên xung phong thời chống Mỹ lại giúp ta được chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của các cô gái trong 1 tổ trinh sát ở tuyến đường Trường Sơn đầy máu lửa nhưng
cũng thật anh hùng . Sự gặp gỡ của những nhân vật này đã giúp người đọc có 1 cảm
nhận đẹp đẽ về tuổi trẻ VN trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ . Nhưng cái tạo
nên sự hấp dẫn của Những ngôi sao xa xôi là sự am hiểu cặn kẽ cuộc sống và tâm lí
tình cảm cùng với những suy nghĩ của những con người trẻ tuổi ở Trường Sơn .
Truyện được kể qua lời 1 nhân vật cũng là nhân vật chính : Phuơng Định .
Đoạn trích trong tác phẩm kể về công việc vô cùng gian khổ của 3 cô gái tổ trinh
sát mặt đường .Duới ngòi bút hết sức chân thực cùng với những tâm tư suy nghĩ của 1
nhà văn nữ và bằng những cảm nhận của những năm tháng hoạt động ở trường sơn ,
Lê Minh Khuê đã giúp chúng ta thấy rõ những cô gái mang chí khí bà Trưng Bà Triệu
xung phong ra tiền tuyến. Và chiến trường Trường sơn huyền thoại được làm nên
bằng xương máu, bằng mồ hôi cùng với bao chiến tích phi thường của những cô gái
VN anh hùng . Ba cô ở trong 1 cái hang dưới chân cao điểm . Nơi máy bay giặc Mĩ
đánh phá dữ dội . Nơi tưởng như ko có sự sống, ko có lá xanh ,cành cây bị tước khô
20
cháy . chỉ có thần chết chờ chực . thần kinh căng như chão .Thứ sẵn có duy nhất ở đây
là những quả bom: nó sẽ nổ và làm sao đừng để nó cướp đi sinh mạng của mình .
Công việc của các cô là san lấp mặt đường và phá bom - một công việc hết sức quan
trọng và vô cùng nguy hiểm . Để tái hiện lại cảnh phát bom vô cùng nguy hiểm, nhà
văn đã sử dụng những chất liệu hết sức chân thực: cảm nhận của Phương Định . Định
dùng lưỡi xẻng đào đất bỏ gói thuốc mìn xuống, châm ngòi vào dây mìn rồi chạy
nhanh về chỗ nấp .Chị thao thổi còi , bom nổ , mảnh bom xé ko khí, nổ váng óc , ngực
đau nhói . Chỉ đọc qua mà đã thấy sự nguy hiểm căng thẳng ko thể nào kể xiết . Bom
nổ, hầm sập, Nho bị thương, chị Thao nghẹn ngào và Phương Đinh hát . Cuộc sống

thường nhật của họ là vậy đó : Đến đây ta mới hiểu ý nghĩa sâu xa của lời hát "Tiếng
hát át tiếng bom " nó quan trọng đến nhường nào .Mỗi ngày họ phá bom đến 5 lần
ngày nào ít cũng 3 lần . Và họ cũng nghĩ đến cái chết nhưng đó là cái chết rất mờ nhạt,
ko cụ thể, chỉ cháy bỏng 1 điều “ liệu mìn có nổ không" . Đây quả là những hiện thực
quá khắc nghiệt của chiến trường Trường Sơn thời chống Mỹ . Đó cũng là những cảm
xúc chân thật của chính tác giả trong những năm tháng ở Trường Sơn .Thế nhưng ,
trong hoàn cảnh sống vô cùng
khắc nghiệt đó,hình ảnh Phương Định hiện lên vô cùng đáng yêu đáng mến, một cô
gái Hà Nội xinh xắn nhưng chỉ khiêm tốn nhận mình là "khá" với "hai bím tóc dày,
tương đối mềm" , "cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn", còn đôi mắt, đôi mắt
tuyệt đẹp_đôi mắt mà các anh lái xe vẫn hết lời khen ngợi "Cô có cái nhìn sao mà xa
xăm!".Một vẻ đẹp thật nữ tính và có chiều sâu! Bước chân vào chiến trường,hành
trang duy nhất mang theo là những kỉ niệm về những ngày tháng hồn nhiên của thời
thiếu nữ bên gia đình trong "một căn nhà nhỏ" để rồi cô chợt nhớ nhà, nhớ mẹ,"nhớ
những ngôi sao to trên bầu trời thành phố",nhớ "cái vòm tròn nhà hát" hoặc "bà bán
kem " Tất cả như ùa về trong giây lát. Phải chăng chính những kỉ niệm hồn
nhiên,trong sáng của thời thiếu nữ nơi quê nhà thân thương ấy đã làm dịu mát lòng cô
ngay giữa chiến trường bom đạn ác liệt? Phương Định còn rất thích hát, cô thích "dân
ca quan họ mềm mại dịu dàng","thích Ca-chiu-sa của Hồng Quân Liên Xô", thích
"dân ca Ý trữ tình giàu có" , cô hát với một niềm lạc quan , yêu đời tha thiết , tiếng hát
át tiếng bom, và cái ác liệt của chiến tranh cũng đâu thể ngăn cản được niềm vui thích
rất đỗi ngây thơ đến trẻ con của Định , cô "vui thích cuống cuồng" khi bắt gặp một
trận mưa đá trên cao điểm. Chao ôi, có ai ngờ rằng ở người con gái tưởng chừng như
kiêu kì ấy lại có một tình đồng chí , đồng đội gắn bó keo sơn ruột thịt như chị em hơn
bao giờ hết , và "thực tình trong suy nghĩ của cô những người đẹp nhất , thông minh ,
can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên
mũ".Chẳng những Phương Định là một cô gái có tâm hồn trong sáng, nhiều mơ
ước,nhiều xúc cảm mà cô còn là một nữ thanh nien xung phong hết sức can trường
quả cảm nữa.Đáng khâm phục biết bao khi người con gái đất Hà thành ấy đã rời chiếc
ghế nhà trường xung phong vào phục vụ tuyến đường Trường Sơn máu lửa để rồi từng

ngày chạy trên cao điểm,từng giờ từng phút đếm bom rơi,bom nổ , ước lượng khối đất
đá lấp vào hố bom,tậm chí phá bom nếu cần,thật nguy hiểm bởi ngày ngày phải đối
mặt với Tử thần nhưng dường như cô không hề quan tâm đến cái chết,cô luôn đặt
nhiệm vụ lên hàng đầu và hoàn thành tốt công việc.Đọc "Những ngôi sao xa xôi" ta
21
như thấy được ở người con gái ấy hình ảnh của cả thế hệ thanh niên xung phong trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Những trang văn của Lê Minh Khuê đã khép lại
nhưng hình ảnh một cô gái Hà Nội với "hai bím tóc dày" đang "ngồi bó gối mơ màng"
bên khung cửa sổ vẫn còn mãi trong lòng người đọc. Nhà văn đã dựng nên 1 tượng đài
về khí phách anh hùng lẫm liệt . Đó là hình ảnh những cô nữ thanh niên xung phong
không tiếc máu xương, sẵn sàng cống hiến sức lực và tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp
cứu nước . Phương Định , chị Thao, Nho đã sáng ngời lên trong khói lửa bom đạn .
Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng như những người anh hùng ở ngã 3
Đồng lộc , như lớp lớp thanh niên Việt Nam đã
"Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai."
( Tố Hữu )
Và như nhà thơ Lâm Thị Mĩ Dạ đã từng ca ngợi trong" Khoảng trời và hố bom":
Em nằm dưới hố sâu
Như những khoàng trời đã nằm gần trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói lung linh.
Phân tích bài thơ "Đồng Chí"
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến
tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của
hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến công của những chiến sĩ mùa
thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những con người
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”(Tây Tiến_Quang Dũng). Họ đã dựng nên tượng
đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng.Hình ảnh người lính năm xưa đi
vào thơ ca một cách tự nhiên chân thực như chính họ_những con người quê hương

mộc mạc, giản dị."Đồng chí" là một trong những bài thơ như vậy!
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc sinh năm 1926 tại Cam Lộc-Hà Tĩnh, là một
trong những nhà thơ trưởng thành qua 2 cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.Ngôn
ngữ chọn lọc, hàm súc với cảm xúc dồn nén là những gì ta thường bắt gặp trong
những sáng tác của ông.Bài thơ "Đồng chí" (1948)_tác phẩm được sáng tác bằng
chính những trải nghiệm của thơ trong những năm KC với những cảm xúc sâu
xa,mạnh mẽ.Cùngvới "Nhớ" của Hồng Nguyên,"Tây Tiến" của Quang Dũng,"Đồng
chí" được coi là một trong những bài thơ xuất sắc nhất về đề tài người lính.
"Đồng chí"_nhan đề giàu ý nghĩa."Đồng chí không chỉ đơn thuần là những người
cùng chung lý tưởng ,chí hướng mà với nhan đề này nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn
bó keo sơn, sự sẻ chia ngọt bùi giữa những người lính từ nông dân,t ình đồng chí giúp
họ vượt qua khó khăn gian khổ.TÌnh đồng chí luôn tỏa sáng trên mọi bước đường, mọi
hoàn cảnh đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người lính."Đồng chí " còn là kết tinh cao đẹp
nhất của mọi tình cảm thiêng liêng khác.
Cơ sở tạo dựng nên tình đồng chí giữa những người lính đã được nhà thơ thể hiện
rất rõ ở khổ thơ đầu.Thật vậy, họ là những người lính chân lấm tay bùn,khoác lên
22
mình chiếc áo lính ra đi từ những miền quê nghèo lam lũ "Quê hương anh nước mặn
đồng chua/Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".Đất nước có chiến tranh,lòng yêu nước
tiềm ẩn trong mỗi con ngừoi trỗi dậy, họ cầm súng lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của tổ quốc.Tiếng gọi thiêng liêng ấy như sợi dây vô hình đã kéo những người
lính gần lại với nhau, để họ từ những người "xa lạ" về đây chung một chiến hào, để rồi
từ đó gắn bo thâ thiết với nhau"Súng bên súng,đầu sát bên đầu", những "đêm rét
chung chăn" họ bộc bạch , thủ thỉ tâm tình và đôi bạn "tri kỉ" bắt nguồn từ đó.Câu thơ
đối xứng với nhau diễn tả sâu sắc sự giao hòa giao cảm giữa những người bnj tri âm
tri kỉ và trên nữa là tình "đồng chí".Câu thơ thứ bảy chỉ vẹn vẹn có một từ mà như một
hơi thở tạo nên sự trầm lắng tha thiết, nó như thể một nút nhấm trong bản đàn dưới đôi
bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ."Đồng chí" đã lí giải sâu sắc cho tất cả những gì mà
trước đây từng "xa lạ" "tự phương trời chẳng hẹn quen nhau", giờ đây lại trở thành
những người bạn gắn bó máu thịt. "Đồng chí" _ hai tiếng sao àm thân thương thế, mỗi

lần họ goi nhau bằng hai tiếng hết đỗi thân thương trìu mến ấy thì mọi khoảng cách ,
ranh giới bị xóa nhòa, họ trở thành những người bạn, người thân và trên hết là nhưnữg
chiến sĩ cùng chung lí tưởng : đứng lên giải phóng quê hương giải phóng ách nô lệ.
Phải chăng tình đồng chí vang lên là kết tinh đẹp đẽ nhất của tình bạn , tình thân , tình
người? Hai tiếng "đồng chí" tưởng chừng như ngắn ngủi ấy lại ẩn chứa bao ý nghĩa
sâu xa, đặc biệt nó có vai trò như một chiếc bản lề khép lại khổ thơ đầu mở ra trước
mắt người đọc khổ thơ tiếp theo.
Đồng chí còn là cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau, những người lính họ
hiẻu nhau đến từng nỗi niềm sâu xa,thầm kín của đồng đội mình "Ruộng nương anh
gửi bạn thân cày/Gian nhà không mặc kệ gió lung lay".Từ "mặc kệ" trong câu thơ đã
thể hiện sâu sắc chiều sâu trong tâm hồn người lính,mang dáng dấp của một bậc
trượng phu vì nghĩa lớn dứt áo ra đi bỏ lại sau lưng quê hương với bộn bề công việc
cùng nỗi nhớ của mẹ già,vợ trẻ,đứa con thơ,nhưng không đằng sau hành động tưởng
chừng như dứt khoát ấy là biết bao những bịn dịn,vấn vương.Gác bỏ tình riêng vì
nghĩa lớn,họ quyết chí lên đường nhưng vẫn nặng lòng với quê hương làng xóm,có lẽ
vì vậy mà hình ảnh "giếng nước gốc đa" như làm sống lại trong lòng người lính cái
bóng dáng quê nhà thân thương để rồi tình yêu và nỗi nhớ quê da diết cùng trỗi dậy
tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ tiếp tục chiến đấu.Đó phải chăng chỉ là tình cảm
của người lính nơi chiến hào gửi về hậu phương hay đó còn là tình cảm của quê
hương,của những người ở lại gửi ra tiền tuyến?Bước chân vào cuộc chiến đấu,họ đã
phải đối mặt với bao chông gai thử thách,khó khăn gian khổ,ai đi lính chẳng từng ít
nhất một lần bị cơn sốt rét rừng hành hạ, dày vò tàn phá cơ thể "Anh với tôi biết từng
cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi",câu thơ như nhắc lại một kỉ niệm của
người lính nơi chiến hào,chắc hẳn bạn đọc vẫn chưa quên hình ảnh người lính Tây
Tiến với cơn sốt rét đến xanh da,trụi tóc"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân
xanh màu lá giữ oai hùm".Những người lính ,họ không những phải vật lộn chiến thắng
bệnh tật mà họ còn phải đối mặt với sự thiếu thốn về quân trang quân dụng "áo anh
rách vai",quần tôi lại có "vài mảnh vá","chân không giày" hay trong "Nhớ" của Hồng
Nguyên ta lại bắt gặp hình ảnh người lính đang "Lột sắt đường tàu/Rèn thêm đao
kiếm/Áo vải chân không/Đi lùng giặc đánh",có thế ta mới thấm thía nỗi gian lao vất

23
vả của người lính.Trong khó khăn gian khổ họ vẫn nở nụ"cười"của niềm lạc quan,yêu
đời,chính cuộc sống khó khăn thiếu thốn ấy đã làm ngời sáng lên vẻ đẹp phẩm chất
của anh bộ đội cụ Hồ.Trong cái lạnh của rừng đêm,hai người lính trận mạc chẳng có
gì cả,họ chỉ có đôi bàn tay "nắm lấy bàn tay",trong cử chỉ thân thương ấy ẩn chứa bao
xúc động nghẹn ngào không nói lên lời của người lính, họ truyền cho nhau sức mạnh
của niềm tin,nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Và dường như hơi ấm từ
đôi bàn tay ấy như lan tỏa rồi làm ấm dần cả bài thơ.Có thể nói,bằng những câu thơ
miêu tả chân thực, nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh sự khốc liệt cùng bao gian nan thử
thách của chiến tranh,đồng thời cũng cho ta thấy được chất thơ trong những gì bình
dị,đời thường nhất mà nổi bật lên đó là biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội thiêng
liêng và cao cả.
Tình đồng chí,đồng đội là sợi chỉ dỏ xuyên suốt trong mạch cảm xúc của bài thơ và
tạo nên những nốt ngân tuyệt vời ở ba câu thơ cuối. Bứoc vào cuộc chiến tranh, người
lính đã phải trải qua bao khó khăn,với thực tại khốc liệt , nghiệt ngã. Những người
lính họ quên sao những đêm đông giá rét, phải đối mặt với sự giá lạnh đến tê người
của "rừng hoang sương muối".Nhưng chính ở cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ còn
là gang tấc, họ vẫn "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" vẫn luôn kề vai sát cánh bên
nhau, vẫn chủ động đón nhận thử thách thậm chí cả sự hinh sinh, trong cái lạnh của
rừng đêm có cái ấm áp , nồng hậu của tình đồng chí, cái trong trẻo của lí tưởng cách
mạng.Tác giả Chính Hữu đã bất ngờ khép lại bài thơ của mình bằng hình ảnh "Đầu
súng trăng treo", hai hình ảnh tưởng chừng như trái ngược nhau .Nhưng không , đó là
sự kết hợp hài hòa giữa cảm ứng hiện thực và lãng mạn,thể hiện cái tài tình của nhà
thơ.Đọc câu thơ , ta như cảm nhận được sự đối lập giữa "súng" và "trăng",đằng sau
khẩu súng trường ấy,người ta thấy được cái khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh , vẫn
câu thơ ấy ta cũng đồng thời thấy được vẻ đẹp êm ái dịu hiền của "trăng" hòa
bình."Súng" và "trăng" đi liền kề trong câu thơ gợi lên trong lòng người đọc biết bao
liên tưởng thú vị về sự hòa quện giữa "súng" và "trăng",giữa hiện thực và lãng
mạn,giữa thực tại và mộng mơ,giữa cứng rắn và dịu hiền, giữa chiến sĩ và thi sĩ. Đó
như một biểu tượng đẹp đẽ của tâm hồn con người Việt Nam ,vừa can trường quả cảm

nhưng cũng rất đỗi lãng mạn và đầy mộng mơ. Những người lính cầm súng chiến đấu
cho vầng trăng hòa bình , hơn ai hết họ hiểu rằng bảo vệ quê hương đât nước chính là
bảo vệ gia đình người thân. Phải chăng chính vì thế, mà người lính sẵn lòng chấp nhận
và đối mặt với mọi khó khăn thử thách để giành lại cuộc sống ấm no hạnh phúc?
Trang thơ của Chính Hữu đã khép lại từ rất lâu rồi nhưng người đọc vẫn thấy đâu đây
cái dư vị ngân nga về bức tranh và nhất là biểu tượng của tình đồng chí đồng đội
thiêng liêng cao đẹp.
Phân tích hình ảnh " Đầu súng trăng treo " trong bài " Đồng chí" của Chính
Hữu
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. ở
truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những
mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế
24
nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết
tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế
mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng
không thiếu nétl ãng mạnđó.Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức
tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm
thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình
ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau
vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải
tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người
lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi
sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn
vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm
ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay
“đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm
nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn
và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh

nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là
giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặckệ”,vẫn say sưa với ánh
trăng Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời
ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng
đội thiêng liêng của những ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội
tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ
đội Cụ Hồ.Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và
trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình
hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn
hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi
sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí
tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự
thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng
tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính
đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay
nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ
quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.Cái thần của câu thơ “Đầu súng
trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét
lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện
tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu
nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết
được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”vốn
chẳng hề thơ mộng . Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại
“đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và
lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút.
Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×