Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Công tác xã hội với đối tượng khuyết tật là phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.16 KB, 49 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................3
NỘI DUNG CHÍNH...........................................................................................7
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu...................................7
1.1. Các khái niệm công cụ................................................................................7
1.1.1. Khuyết tật.................................................................................................7
1.1.2. Người khuyết tật....................................................................................10
1.1.3. Phụ nữ khuyết tật..................................................................................10
1.1.4. Các khái niệm liên quan khác...............................................................10
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu....................................................11
1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa và hành động xã hội của Max Weber...............11
1.2.2. Lý thuyết phân tầng xã hội của Max Weber.......................................13
1.2.3. Tháp nhu cầu của Maslow....................................................................13
1.2.4. Lý thuyết chức năng..............................................................................14
1.3. Những chính sách, dịch vụ hỗ trợ hướng nghiêp cho người khuyết tật
...........................................................................................................................15
1.3.1. Cơ chế chính sách dành cho người khuyết tật....................................15
1.3.2. Các chương trình hỗ trợ giành cho người khuyết tật.........................18
Chương 2: Phụ nữ khuyết tật với việc làm (nghiên cứu trường hợp chị
T.N.K)...............................................................................................................23
2.1. Tiếp nhận thông tin và đánh giá sơ bộ....................................................23
2.1.1. Miêu tả và tiểu sử của vấn đề................................................................23
2.1.2. Những thông tin cơ sở về đời sống của thân chủ và tình hình cuộc
sống hiện tại......................................................................................................25
2.2. Phân tích đánh giá các khía cạnh vấn đề của thân chủ.........................33
2.3. Kế hoạch can thiệp....................................................................................42
2.3.1. Xác định mục tiêu..................................................................................42


2.3.2. Kế hoạch cụ thể......................................................................................43
2.4. Tổ chức thực hiện và triển khai kế hoạch...............................................45


2.5. Giám sát và đánh giá kết thúc.................................................................45
KẾT LUẬN.......................................................................................................46


MỞ ĐẦU
Người khuyết tật (NKT) là vấn đề đáng nhận được sự quan tâm của xã hội đặc biệt
khi Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế Thế giới. Thực vậy, nền kinh tế
Việt Nam vốn có xuất phát điểm thấp, chủ yếu dựa vào kinh tế nơng nghiệp, thêm vào đó
lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, khi nền kinh tế đang dần thay đổi sang cơ chế
thị trường thì việc địi hỏi phải có một đội ngũ lao động chun mơn ra đời là điều tất yếu.
Việt Nam là nước có dân số đông, nguồn nhân lực lao động dồi dào, cần cù, chịu khó
nhưng chất lượng đào tạo cịn thấp, vì thế nhu cầu tìm kiếm việc làm để phát triển kinh tế,
đảm bảo chất lượng cho cuộc sống của bản thân và gia đình là một nhu cầu cần thiết. Nhu
cầu đó cịn khó khăn hơn khi người lao động là NKT. Nhiều người thường nghĩ “khuyết
tật” đồng nghĩa với mất khả năng khơng làm được gì để ni sống cho bản thân huống gì
là chăm sóc gia đình, đặc biệt là khi phần lớn NKT được xếp vào diện nghèo hoặc cận
nghèo. Chính vì thế “việc làm” khơng chỉ có ý nghĩa kinh tế mà nó cịn mang những ý
nghĩa sâu sắc khác bởi việc làm đồng nghĩa với sự tôn trọng và chấp nhận giá trị bản thân
của xã hội dành cho NKT.
Theo số liệu thống kê của Chính Phủ năm 2003 thì Việt Nam có trên 5 triệu NKT,
chiếm 6,3% tổng dân số. Gần 8% hộ gia đình Việt Nam có NKT mà hầu hết là các hộ
nghèo. Có đến 80% NKT sống phụ thuộc vào nguồn trợ cấp từ gia đình hoặc xã hội thơng
qua Nhà Nước và cộng đồng1. So sánh với năm 2003 thì gần đây nhất theo Báo cáo kết
quả suy rộng mẫu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2009 thì hiện nay tính từ mức
độ khó khăn trở lên và được gọi là khuyết tật thì cả nước có 12,1 triệu lượt người bị
khuyết tật2. Thực tế cho thấy, số lượng NKT trong những năm gần đây có chiều hướng
tăng, chính vì vậy vấn đề về NKT ngày càng địi hỏi phải có sự quan tâm của Đảng, Nhà
Nước và cộng đồng trên nhiều khía cạnh.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với NKT, hiện nay công tác dạy nghề
và tạo việc làm cho NKT đã có bước tiến mới, nhận thức của xã hội, của người sử dụng

lao động là NKT cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, những thách thức trong việc dạy
1

Theo Tổng cục Thống kê, 2003.

2

Kết quả cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở, 01/04/2009.


nghề và tạo việc làm cho NKT vẫn rất cần lời giải và sự quan tâm của các cấp đảng, chính
quyền, doanh nghiệp, doanh nhân và tồn xã hội.
Sau 5 năm (2006-2010) triển khai thực hiện Đề án trợ giúp NKT, cả nước đã có gần
50.000 NKT được tham gia học nghề, (trong đó nữ chiếm khoảng 50,5%); 467.965 người
tàn tật, khuyết tật được thụ hưởng các chương trình an sinh xã hội. Cả nước có hơn 400
cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho NKT. Ngoài các cơ sở đào tạo nghề của Nhà
nước, các tổ chức Phi Chính phủ, cịn có rất nhiều tổ chức tự lực của NKT tham gia đào
tạo nghề, giải quyết việc làm cho NKT, qua đó giúp cho NKT có thu nhập ổn định, chủ
động được cuộc sống, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Thống kê của Bộ LĐTB &XH cho thấy, cả nước hiện chỉ có 16.000 NKT đang làm
việc tại cơ quan, doanh nghiệp, (chủ yếu là thương, bệnh binh). Đáng quan tâm là có 87%
NKT đang sống tại khu vực nơng thơn với điều kiện, hồn cảnh kinh tế hết sức khó khăn,
khó có thể tự chủ trong cuộc sống của mình. Việc đào tạo nghề cho NKT vẫn gặp phải
những khó khăn: đa số NKT thường mặc cảm, tự ti về sự khuyết tật của mình, do đó họ
ngại giao tiếp với cộng đồng, khơng muốn dời xa gia đình để tìm việc làm, hoặc học
nghề; hầu hết gia đình NKT đều là hộ nghèo, ở nơng thơn, dân trí thấp, nên các thành viên
trong gia đình cũng ít khi khuyến khích, tạo điều kiện để NKT đi học nghề...
Giúp NKT cải thiện cuộc sống, được học nghề, tạo việc làm là một trong những biện
pháp góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên Hợp quốc và Công ước Quốc tế về NKT. Để phát huy vai trị, trách nhiệm của cộng

đồng, gia đình và xã hội trong việc tạo điều kiện về mọi mặt để NKT tự tin hồ nhập cộng
đồng, nhất là tìm được việc làm phù hợp với sức khoẻ ổn định cuộc sống, ngày 1/1/2011,
Luật Người khuyết tật Việt Nam đã chính thức có hiệu lực. Hy vọng, với văn bản Luật
này, NKT sẽ có thêm cơ hội, điều kiện để làm chủ cuộc sống bằng chính sức lao động của
mình.
Một xã hội càng đi đến văn minh, phát triển là một xã hội mà ở đấy mọi giá trị nhân
phẩm của con người đều phải được tôn trọng, mọi khả năng tự lập của con người đều phải
được phát huy. Sự quan tâm đến người khuyết tật không chỉ là sự trợ cấp, giúp đỡ về mặt
nào đó mà bản thân người khuyết tật không thể thực hiện được, điều quan trọng là xã hội


phải tạo ra những điều kiện nhằm đảm bảo để người khuyết tật có thể tiếp cận, qua đó hịa
nhập được với cộng đồng tức là được tăng cường năng lực về vật chất và tinh thần để họ
vượt lên những khuyết tật mà họ phải chịu đựng để hòa nhập cuộc sống.
Làm việc là một trong những nhu cầu thiết thực trong cuộc sống con người. Điều
này đã được pháp luật khẳng định trong một số văn bản luật có liên quan. Điều 13 của Bộ
luật Lao động có hiệu lực năm 1994 khẳng định Chính phủ, các doanh nghiệp và tồn thể
xã hội phải có trách nhiệm tạo công ăn việc làm và đảm bảo rằng tất cả những ai có khả
năng làm việc đều được làm việc. Nhưng trên thực tế, có việc làm đối với nhiều người đã
là một điều khó khăn thì đối với NKT thì nó càng khó khăn hơn nữa…. Họ gặp phải rất
nhiều hạn chế trong thơng tin việc làm, tìm và duy trì được việc làm bởi những yếu tố
như: hình thể, nhận thức, kỹ năng làm việc, sự kỳ thị, và sự công nhận năng lực của xã
hội. Với những cố gắng phi thường, nhiều NKT đã không đầu hàng số phận, họ đã phấn
đấu không ngừng vượt qua những rào cản của bản thân, gia đình và mơi trường xã hội,
nhiều người đã trở thành tấm gương sáng ngời trong lao động, sản xuất và học tập. Vươn
lên hoà nhập cộng đồng và được xã hội công nhận là ước ao, mong mỏi của tất cả NKT.
Việc khiếm khuyết đi một phần trên cơ thể không làm mất đi giá trị cũng như năng lực
của NKT nhưng do những rào cản nên việc hoà nhập cộng đồng của nhiều NKT gặp khó
khăn.
Khó khăn đầu tiên mà họ gặp phải là sự thiếu cảm thơng của xã hội về tình trạng

khuyết tật của mình. Nhiều trẻ em khuyết tật khơng thể đi học cũng do gia đình, cha mẹ
các em làm cho chính bản thân các em sợ sẽ bị bạn bè trêu chọc. Nhiều NKT không dám
đến các nơi cơng cộng vì sợ bị nhiều ánh mắt để ý khiến họ cảm thấy tự ti. Ngay tại các
doanh nghiệp, NKT tưởng như được nhiều ưu đãi nhưng thực chất họ lại gặp những khó
khăn khơng mong đợi như cơ sở vật chất, thời gian làm, công việc làm, phương tiện đi lại
và môi trường tiếp cận (nhà vệ sinh, cầu thang máy...). Nhiều NKT sau khi ra trường
không thể tìm cho mình một cơng việc phù hợp do nhiều nhà tuyển dụng ái ngại về khả
năng lao động của NKT.
Khó khăn về việc tiếp cận dành cho NKT, bao gồm tiếp cận thơng tin về các chính
sách, tiếp cận giao thông và tiếp cận cơ sở vật chất. NKT muốn tham gia vào các hoạt


động của xã hội nhưng họ lại không thể tiếp cận giao thông. Người khiếm thị không thể
tiếp cận trường lớp vì thiếu giáo trình (phần mềm đọc chữ, chữ nổi, ..) và chưa có phương
pháp giảng dạy phù hợp.
Ngồi ra, khó khăn nằm trong chính nội lực của NKT khi nhiều NKT còn chưa thực
sự cố gắng để vượt qua khiếm khuyết, hoà nhập cộng đồng và khẳng định bản thân. Còn
rất nhiều NKT vẫn đang sống trong mặc cảm, chán chường và gặp những trở ngại không
nhỏ trong cuộc sống. Điều mà họ mong muốn là có được những cơ hội, điều kiện thuận
lợi để vươn lên sống ý nghĩa và có ích cho xã hội.
Từ thực tế và những lý do nêu trên, tơi quyết định tìm hiểu vấn đề: “Phụ nữ khuyết
tật với việc làm”. Cũng là NKT nhưng phụ nữ khuyết tật thường chịu nhiều thiệt thịi hơn
so với nam giới. Họ có rất ít cơ hội để học tập, làm việc, và nói lên tiếng nói của mình.
Phụ nữ khuyết tật thường được xem là người có sức khỏe kém, đối tượng cần giúp đỡ,
khơng có khả năng làm việc và là gánh nặng của xã hội. Vì vậy, các thành viên trong gia
đình thường “gán nhãn” cho họ là nên ở nhà làm công việc bếp núc hoặc những công
việc thêu thùa, may vá... Với mục đích tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận
việc làm của phụ nữ khuyết tật, những khó khăn của phụ nữ khuyết tật khi phải lo cho
kinh tế gia đình. Tơi sẽ tiến hành nghiên cứu một trường hợp cụ thể điển hình: “Chị
T.N.K – một phụ nữ khuyết tật vận động hiện đang sống tại TP.HCM”. Chị là một trong

những ca được điển cứu của Dự án Buil (Dự án xây dựng cuộc sống hòa nhập cho Người
Khuyết tật). Đề tài được thực hiện mong muốn sẽ đi sâu tìm hiểu những thơng tin xoay
quanh cuộc sống của chị, tìm hiểu những khó khăn mà chị đang gặp phải trong hiện tại.
Từ đó cùng chị xác định cách giải quyết vấn đề nhằm nâng cao khả năng tự lập, chị có
việc làm tăng thu nhập, tư tin hơn trong cuộc sống và có thể hỗ trợ chị một số dịch vụ xã
hội để chị sống tốt hơn.


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khuyết tật
Từ khuyết tật có nguồn gốc từ disability trong tiếng Anh. Theo nguyên ngữ từ này
hàm ý có khó khăn có trở ngại khi thực hiện một tác vụ nào đó. Theo DDA (Disability
Discrimination Act – Đạo luật chống phân biệt đối xử với NKT do Quốc hội Anh ban
hành), khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài
mà ít hơn 12 tháng bình thường khơng được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại,
một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi
họ sẽ được phục hồi hồn tồn. Cịn Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990
(ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có
sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động
quan trọng trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm:
khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc
và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim,
tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc
khơng có triệu chứng). Có sự thống nhất tương đối về định nghĩa thế nào là khuyết tật của
hai đạo luật này.
Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết
(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ đến sự mất
mát hoặc khơng bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý.

Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết.
Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thịi của người mang khiếm khuyết do tác
động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ (WHO, 1999). Cịn theo
quan điểm của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật, NKT trở thành tàn tật là do thiếu cơ hội
để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác (DPI,
1982). Do vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính
năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó NKT đang sống.


Bộ Y tế và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội là hai Bộ chính soạn thảo ra các
chính sách và cung cấp các dịch vụ phục hồi chức năng, chăm sóc, điều trị và cung cấp
phúc lợi xã hội cho người khuyết tật. Hai bộ phận này đã sử dụng những định nghĩa về
khiếm khuyết, giảm khả năng và tàn tật của tổ chức y tế thế giới là:
Khiếm khuyết (ở các bộ phận cơ thể): bị mất hoặc tình trạng bất bình thường một
hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khiếm khuyết có thể là hậu quả của
bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường hoặc bẩm sinh. Giảm khả năng (ở cấp độ cá
nhân): giảm hoặt mất khả năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất chức
năng (vận động, nghe, hoặc giao tiếp).
Khuyết tật: Là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức
năng nó chỉ ra sự khác biệt về hình thức của khuyết tật hoặc làm giảm khả năng hoạt động
và là nguyên nhân gây ra nhiều khó khăn trong công việc, cuộc sống và học tập.
Tàn tật (ở cấp độ xã hội): những thiệt thòi mà một người phải chịu do bị khuyết tật.
Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị khiếm khuyết hoặc giảm khả năng với
những rào cản trong môi trường xã hội, văn hóa hoặc vật chất, làm cho cá nhân này
khơng thể tham gia một cách bình đẳng vào cuộc sống cộng đồng chung hoặc hồn thành
một vai trị bình thường.
Để phân loại khuyết tật, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng phương pháp phân loại của
tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong đó khuyết tật được chia thành 7 loại chính như sau:
khuyết tật thể chất/vận động (chẳng hạn: cụt tay chân, tê liệt, tật bẩm sinh khác); khuyết
tật nghe/nói (giao tiếp); khuyết tật nhìn; khuyết tật về khả năng học tập (nhận thức hoặc

trí tuệ); hành vi lạ (do bệnh về tâm thần như trầm cảm và tâm thần phân biệt gây ra); động
kinh; những khuyết tật khác...
Tuy nhiên việc phân loại này không được sử dụng một cách thống nhất vì các tài liệu
khác nhau định nghĩa về các loại khuyết tật cũng khác nhau.
Còn theo Pháp lệnh về Người tàn tật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định
nghĩa người tàn tật như sau: “Không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật, người tàn tật là
người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới


những dạng tàn tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu cũng như các văn bản pháp luật vẫn chưa
thấy được sự thống nhất các khái niệm về người khuyết tật. Trước đây, trong các văn bản
thường sử dụng cụm từ “người tàn tật”. “Tàn tật là người bất kì (nam hay nữ) không phân
biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật, là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng
hoạt động, khiến cho lao đông, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Một số nghiên
cứu khác lại sử dụng từ “khuyết tật ”, hiện tại chưa có cách hiểu thống nhất khái niệm
“người khuyết tật ”. Tuy nhiên những nghiên cứu ngày nay có xu hướng sử dụng khái
niệm “khuyết tật ”.
Đây là hai từ tiếng việt để chỉ cùng một khái niệm. Hiện nay người ta vẫn dùng song
song chúng trên các phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Trong các
pháp lệnh trước đây của nhà nước Việt Nam, “tàn tật” là cụm từ được chính thức sử dụng,
song theo dự thảo năm 2009, từ “khuyết tật” nhiều khả năng sẽ được dùng để thay thế
hoàn toàn trong các bộ luật. Trong nghiên cứu này, tôi sẽ sử dụng khái niệm “khuyết tật”.
Khái niệm về người khuyết tật của Liên Hiệp Quốc: Theo Tuyên ngôn về quyền của
người khuyết tật được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thơng qua ngày 09/02/1975 thì
“Người khuyết tật là bất cứ người nào khơng có khả năng tự đảm bảo cho bản thân, toàn
bộ hay từng phần những sự cần thiết của một cá nhân bình thường hay của cuộc sống xã
hội do sự thiếu hụt (bẩm sinh hay không bẩm sinh) trong những khả năng về thể chất hay

tâm thần của họ” (Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc về quyền của Người khuyết tật
09/02/1975).
Pháp lệnh về người khuyết tật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(01/11/1998) định nghĩa người khuyết tật như sau: “không phân biệt nguồn gốc gây ra
khuyết tật, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dưới những dạng khuyết tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt
động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”.


Theo quy định của Bộ Lao động: “người khuyết tật là người có khuyết tật, khơng có
khả năng ni sống bản thân, phải dựa vào cộng đồng, người thân và sự trợ giúp của Nhà
nước”. Theo đó, người khuyết tật được chia thành nhiều các dạng khuyết tật khác nhau:
khuyết tật vận động; khuyết tật khiếm thị; khuyết tật khiếm thính; khuyết tật ngơn ngữ;
khuyết tật trí tuệ và các dạng khuyết tật khác.
1.1.2. Người khuyết tật
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật – 2006 thì “Người khuyết tật bao
gồm những người có những khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác
quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và
hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã
hội”3
Theo luật người khuyết tật được quốc hội Việt Nam thông qua ngày 17/6/2010:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn”4
1.1.3. Phụ nữ khuyết tật
Là những phụ nữ mà họ phải chịu một hoặc nhiều tổn hại và gặp phải những rào cản
xã hội. Họ bao gồm những chị/ em phụ nữ khuyết tật ở mọi lứa tuổi sinh sống ở thành thị
và nông thôn. Phụ nữ khuyết tật không được quan tâm đến những tổn hại, không nhận
được sự quan tâm từ quyền ưu tiên về giới tính cũng như nền văn hóa hay bất cứ điều gì
mà họ sống trong cộng đồng5.

1.1.4. Các khái niệm liên quan khác
Việclàm: Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm.( Điều 13, Bộ Luật Lao Động Việt Nam)

3

Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, 2006

4

Luật người khuyết tật, 2010

5

Trường Đại học Bán Công Tôn Đức Thắng – “ Phụ nữ khuyết tật – những trở ngại trong tình u hơn

nhân và gia đình”


Nghề nghiệp: Nghề là công việc chyên môn cụ thể làm theo sự phân công lao động
xã hội, nghề làm để sinh sống phục vụ xã hội được gọi là nghề nghiệp. Nghề ngiệp là một
lĩnh vực tồn tại khách quan nó ln thay đổi và phát triển qua từng điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội nhất định. Nghề nghiệp là một loại giá trị mà mỗi cá nhân đều hướng tới
và lựa chọn, nó phản ánh tình trạng lao động xã hội. Mỗi loại nghề đều mang lại trong nó
những giá trị xã hội khác nhau, do vậy quan niệm của các tầng lớp trong xã hội về việc
làm cũng khác nhau
Sự tham gia: là sự lựa chọn bởi người khuyết tật (trên cơ sở đánh giá của họ về
những khả năng và giới hạn của bản thân) để thực hiện một phần trong các hoạt động như
đối thoại, đời sống xã hội, các hoạt động cộng đồng, làm việc, văn hóa, thể thao và giải
trí...cùng với những người không khuyết tật.

Thừa nhận và công nhận: là q trình mà nhờ nó người khuyết tật có sự tham gia vào các
hoạt động một cách bình đẳng
Sự bình đẳng: là q trình mà qua đó người khuyết tật có được quyền đầy đủ trong
xã hội như người khơng khuyết tật, được đem lại nhờ nhiều phương tiện bằng nhiều
phương tiện bao gồm cả pháp lý...để tạo ra một môi trường không rào cản dành cho người
khuyết tật6.
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa và hành động xã hội của Max Weber
Theo Max Weber thì xã hội hóa là một q trình dạy dỗ và học hỏi mà qua đó cá
nhân tham gia vào quá trình này học cách hành động đúng đắn theo chuẩn mực của nhóm
xã hội. Qúa trình xã hội hóa thống nhất với nhau qua ba giai đoạn: giai đoạn ở gia đình,
nhà trường và ngồi xã hội, con người thường học cách suy nghĩ và hành động phù hợp
với những người xung quanh trong cả ba môi trường một cách đan xen và nó chỉ chấm
dứt khi chúng ta chết đi. Qúa trình này là một quá trình khó khăn, phức tạp, cá nhân ở mỗi
hồn cảnh khác nhau sẽ có những hành động khác nhau. Điều đó có nghĩa là con người

6

Trường Đại học Bán Cơng Tơn Đức Thắng – “ Phụ nữ khuyết tật – những trở ngại trong tình u hơn

nhân và gia đình”


ngồi việc phản xạ với các kích thích thì cịn lựa chọn những cách ứng xử phù hợp với
mong muốn của xã hội.
Theo Max Weber con người thường hành động theo 4 kiểu hành động: hành động
hợp mục đích, hành động do cảm xúc, hành động mang tính truyền thống, hành động hợp
lý. Hành động xã hội chính là kết quả của quá trình học hỏi được ở người khác để cá nhân
trưởng thành và phát triển nhân cách của mình thơng qua tương tác xã hội.
Sử dụng lý thuyết này nhằm giải thích rõ hơn nữa mối quan hệ tương tác của con

người và xã hội, con người có bản chất tương tác với nhau. Con người luôn luôn là “con
người trong bối cảnh”. Hành vi của một người luôn xuất phát cả từ nhân cách của người
ấy lẫn từ trong những mối quan hệ trong cuộc sống của người ấy. Môi trường sống của
một con người bao gồm gia đình và các quan hệ liên cá nhân khác như hàng xóm, các
mạng lưới hỗ trợ xã hội, các thơng số và giá trị về văn hóa. Ngồi ra cịn có các quan hệ
trong nghề nghiệp, kinh tế, tơn giáo, chính trị... Chúng ta tự “định cấu hình” cho bản thân
để phần nào đó đáp ứng lại với những gì được cho là quan trọng và đang hiện diện trong
thời khắc hiện tại. Vì thế, một “bộ mặt” nào đó của chúng ta sẽ có thể xuất hiện trong tình
huống này và một “bộ mặt” khác lại xuất hiện trong một tình huống khác. Đây là quan
điểm về “trường” (field) trong hành vi con người và cũng tương thích với quan điểm hệ
thống; điều đó có nghĩa là con người trong chúng ta dù là ai chăng nữa thì muốn hồn
thiện và phát triển, phải được xã hội hóa ở các mơi trường hay cịn gọi là tác nhân xã hội
hóa. Điều này cịn có ý nghĩa hơn đối với người khuyết tật trong việc tương tác với các
mối quan hệ xã hội, được học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng để áp dụng trong cuộc
sống, tạo cơ hội việc làm cho họ. Và ngược lại trong quá trình làm việc NKT cũng sẽ
tương tác và được xã hội hóa, thơng qua đó có thể học hỏi, phát triển và hịa nhập cộng
đồng. Thân chủ tuy khơng làm việc tại môi trường công sở để tạo ra tương tác với mọi
người nhưng quá trình thân chủ làm kinh doanh tại nhà là một sự tương tác rất đặc biệt
bởi vì đối tượng mà chị tiếp xúc cũng rất đặc biệt, công việc chị làm tạo ra kinh tế giúp
bản thân chị tự tin hơn.


1.2.2. Lý thuyết phân tầng xã hội của Max Weber
Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu sự tác động của hai
nhóm yếu tố cơ bản: Các yếu tố kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất, thị trường…), và các yếu tố
phi kinh tế (vị thế xã hội, năng lực, cơ may, quyền lực…).
Dựa trên các yếu tố này, ông phân biệt phân tầng xã hội thành: Phân tầng xã hội –
giai cấp, phân tầng xã hội – vị thế, phân tầng xã hội – quyền lực. Phân tầng xã hội – giai
cấp đề cập đến yếu tố kinh tế (tài sản, nguồn vốn, sức lao động…) tác động đến cơ may
sống của con người. Phân tầng xã hội – vị thế dựa trên uy tín, danh vọng và đánh giá của

xã hội tác động đến cuộc sống của con người. Phân tầng xã hội – quyền lực: sự thống trị
về quyền lực gây ảnh hưởng đến hành động của cộng đồng.
Theo thuyết phân tầng xã hội thì những người nắm giữ kinh tế, có vị thế và quyền
lực (thường là những người giàu) sẽ có cơ hội sống cao hơn những người không nắm giữ
các yếu tố này (thường là những người nghèo).
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài nhằm giải thích vấn đề: Phải chăng người khuyết
tật thường khó khăn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội (văn hóa, y tế, giáo dục,
hướng nghiệp việc làm…)? Phải chăng cơ hội nghề nghiệp của họ thường thấp hơn. Và
phải chăng họ cần phải được quan tâm hơn nữa?
1.2.3. Tháp nhu cầu của Maslow
Cấu trúc của tháp nhu cầu có 5 tầng, trong đó những nhu cầu con người được liệt
kê theo một trật tự thứ bậc hình Kim tự tháp
Những nhu cầu cơ bản ở phái đáy tháp phải được thỏa mãn trước khi nghĩ đến các nhu
cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc cao sẽ nảy sinh và mong muốn đươc thỏa mãn ngày càng
mạnh liệt khi tất cả các nhu cầu cơ bản ở dưới đã được đáp ứng đầy đủ.
Năm tầng trong tháp nhu cầu của Maslow:

Tầng thứ nhất: Các nhu cầu căn bản nhất về “ thể lý” (physiological), đó là thức
ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi

Tầng thứ hai: Nhu cầu an tồn (safety), cần có cảm giác yên tâm về an toàn than
thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo




Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc

(love/belonging), muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình n
ấm, bạn bè thân hữu tin cậy


Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem), cần có cảm giác được
tơn trọng, kính mến, được tin tưởng

Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization), muốn sáng
tạo được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được cơng
nhân là thành đạt

Dựa vào nội dung của tháp nhu cầu Maslow, tôi sẽ nêu lên được những nhu cầu mà
mỗi con người chúng ta cần đến để có thể duy trì cuộc sống và có một cuộc sống tốt đẹp,
ấm no, hạnh phúc, an toàn. Sau đó tơi sẽ đi sâu tìm hiểu và phân tích những nhu cầu cụ
thể của thân chủ để từ đó có thể thấy được hiện tại chị có những nhu cầu gì và đã đạt
được những nhu cầu nào.
1.2.4. Lý thuyết chức năng
Lý thuyết này gắn với các nhà Xã hội học nổi tiếng như H. Sepencer, E. Durkheim,
T. Parson...Theo lối tiếp cận này thì “Xã hội được coi như là một hệ thống bao gồm nhiều
bộ phận khác nhau mỗi bộ phận giữ một vai trị nào đó trong xã hội và vận hành một cách
bình thường. Trong xã hội để thực hiện một số yêu cầu và thỏa mãn nhu cầu bình thường


nào đó trong xã hội” bởi lẽ trong các hoạt động của xã hội, hoạt động nào cũng nhằm đến
một mục tiêu nhất định của nó mục tiêu đó có thể là tích cực hay tiêu cực.
Bên cạnh đó các nhà xã hội học cịn xem xã hội ln tồn tại trong trạng thái cân
bằng có trật tự và thống nhất. Theo quan điểm của các nhà theo thuyết chức năng thì sự
bất bình đẳng và sự phân tầng xã hội như là một đặc trưng tất yếu của xã hội lồi người.
Nhờ đó xã hội đảm bảo được địa vị quan trọng nhất phải do những người tài năng đảm
nhiệm một cách có ý thức, nếu trong xã hội mọi người đều như nhau đều được hưởng mọi
nhu cầu như nhau trong khi công sức lao động bỏ ra là khác nhau thì sẽ tạo ra sự ỷ lại làm
cản trở động lực phát triển của xã hội.
Phụ nữ khuyết tật cũng giống như phụ nữ không khuyết tật họ cũng cố gắng thực

hiện tốt vai trị của mình để hòa nhập vào cuộc sống đời thường và hòa nhập vào cộng
đồng xã hội. Phụ nữ khuyết tật cũng cố gắng lựa chọn cơng việc thích hợp cho bản thân
để duy trì nhu cầu cơ bản nhất của đời sống cá nhân, nhưng sự lựa chọn còn chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, theo thuyết chức năng thì phụ nữ khuyết tật chịu
nhiều thiệt thịi hơn phụ nữ khơng khuyết tật, việc hịa nhập vào xã hội của họ cũng khó
khăn hơn, do đó xã hội cần tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ khuyết tật
thực hiện những chức năng cơ bản nhất như mọi người. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài phải
xem xét đến chức năng của gia đình, bạn bè, xã hội, phương tiện truyền thông đã tác động
đến việc hịa nhập của phụ nữ khuyết tật.
1.3. Những chính sách, dịch vụ hỗ trợ hướng nghiêp cho người khuyết tật
1.3.1. Cơ chế chính sách dành cho người khuyết tật
Ngày 13 Tháng 12 năm 2006, Liên Hợp Quốc đã thông qua công ước Quốc tế về
quyền của NKT, đến nay (thời điểm của bài báo là năm 2008) đã có khoảng 200 quốc gia
tham gia ký kết. Việt Nam là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước vào tháng
10/2007. Ngày 30/7/2009, tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York, đại diện Chính phủ Mỹ
cũng đã ký cơng ước này. Đây là công ước quốc tế về nhân quyền đầu tiên mà Mỹ đã ký
trong gần một thập kỷ qua. Được xây dựng dựa trên khuôn khổ Tuyên ngôn nhân quyền,
Công ước về quyền của người khuyết tật đã có hiệu lực từ ngày 3 tháng 5 năm 2008 và
lần đầu tiên, Công ước này đã thiết lập quyền của 650 triệu NKT trên toàn thế giới. Đây
là hiệp ước đầu tiên mang lại vị thế và quyền hợp pháp nhìn nhận tình trạng khuyết tật


như là một vấn đề về quyền con người. Công ước này cịn có ý nghĩa đặc biệt khi thay đổi
cách nhìn đối với tình trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề y tế,
và xác lập sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng nhân đạo sang hướng nhân
quyền.
Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký cam kết tham gia Công ước về quyền của NKT.
Đến nay, Công ước đã được 136 quốc gia ký kết và 41 quốc gia phê chuẩn. Như vậy, kể
từ ngày 03/5/2008, Cơng ước đã có hiệu lực trên toàn hành tinh. Ở Việt Nam, các cơ
quan, tổ chức hữu quan đang tích cực chuẩn bị đề án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ

trình cơ quan có thẩm quyền đã phê chuẩn cơng ước này.
Cơng ước quốc tế về quyền của NKT dành Điều 27 để quy định rõ quyền làm việc
của NKT: "Các quốc gia thành viên công nhận quyền được làm việc của NKT, trên cơ sở
bình đẳng với người khác; trong đó bao gồm cả quyền có cơ hội kiếm sống bằng một
cơng việc được tự do lựa chọn hoặc chấp nhận trong thị trường lao động và mơi trường
làm việc mở, hịa nhập và dễ tiếp cận đối với NKT." Điều 27 cũng đề ra 11 biện pháp mà
các quốc gia thành viên cần phải thực hiện để bảo đảm quyền làm việc của NKT:
Nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật trong các vấn đề có liên quan đến tất cả
các hình thức về việc làm, bao gồm các điều kiện tuyển dụng, thuê và nhận NKT vào làm,
duy trì việc làm, thăng tiến trong sự nghiệp, các điều kiện lao động an toàn và bảo đảm
sức khỏe.
Bảo vệ quyền của NKT, trên cơ sở bình đẳng với người khác, nhằm bảo đảm điều
kiện lao động công bằng và thuận lợi, bao gồm cơ hội bình đẳng và được trả lương bình
đẳng cho những cơng việc như nhau, có các điều kiện làm việc an tồn và bảo đảm sức
khỏe, bao gồm việc bảo vệ khỏi bị quấy rối và được bồi thường cho nỗi bất bình.
Bảo đảm NKT có thể thực hiện quyền lao động và quyền về cơng đồn, bình đẳng với
người khác.
Bảo đảm NKT tiếp cận có hiệu quả tới các chương trình chung về hướng dẫn kỹ
thuật và dạy nghề, các dịch vụ sắp xếp việc làm, chương trình đào tạo và bổ túc nghề.
Nâng cao cơ hội có việc làm và sự thăng tiến trong nghề nghiệp của NKT trong thị trường
lao động cũng như hỗ trợ trong việc tìm việc làm, nhận được việc làm, duy trì việc làm và
trở lại làm việc.
Tăng cường khả năng tự tạo việc làm, lập doanh nghiệp, phát triển các hợp tác xã
và bắt đầu tạo dựng sự nghiệp riêng.


Tuyển dụng NKT trong khu vực công.
Thúc đẩy việc làm của NKT trong khu vực tư nhân thông qua các chính sách và
biện pháp phù hợp, trong đó có thể bao gồm những chương trình hành động được phê
chuẩn, sự khuyến khích và các biện pháp khác.

Người khuyết tật là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Đã từ lâu, Đảng và
Nhà nước ta dành rất nhiều sự quan tâm cho đối tượng này, do số lượng người khuyết tật
ở nước ta cịn đơng, hơn 5,3 triệu người nên người khuyết tật gặp nhiều khó khăn, nhất là
trong vấn đề huy động các nguồn lực từ xã hội trợ giúp họ hoà nhập cộng đồng cũng như
phát huy tiềm năng của chính người khuyết tật. Những khó khăn mà người khuyết tật ở
Việt Nam gặp phải trong công tác huy động nguồn lực xã hội mà người khuyết tật gặp
phải là: nhận thức của xã hội về vấn đề người khuyết tật còn hạn chế; sự thiếu đồng bộ
trong hệ thống chính sách khiến nhiều người khuyết tật gặp trở ngại hoà nhập; huy động
sự ủng hộ từ bản thân nội lực các cơ quan tổ chức trong nước chưa nhiều; chưa biết sử
dụng có hiệu quả nguồn ủng hộ từ các tổ chức quốc tế mà nguyên nhân chính là do năng
lực quản lý; điều kiện giao thơng chưa tiếp cận; các chính sách an sinh xã hội như giáo
dục, y tế, việc làm còn chưa đi vào chiều sâu và hiệu quả; bản thân nhiều người khuyết tật
cịn chưa khẳng định được tiếng nói của chính mình trong xã hội do mặc cảm, tự ti….
Nhìn chung, những khó khăn là vơ cùng, ngay cả với những người không phải khuyết tật.
Cho đến nay, văn bản pháp luật đầy đủ và có hiệu lực rộng rãi về vấn đề người khuyết tật
duy nhất là pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về Người tàn tật (06/1988/PLUBTVQH10, ngày 30 tháng 07 năm 1998). Pháp lệnh cũng đã đề cập đến nhiều chính
sách dành riêng cho người khuyết tật có liên quan đến y tế, giáo dục, học nghề, việc làm,
hoạt động thể dục thể thao:
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình
đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn
định đời sống, hồ nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội.
Người tàn tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức
năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Hàng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách và vận động xã hội để trợ giúp người tàn
tật trong việc khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, học văn hoá, học nghề, tạo việc
làm, tự ổn định đời sống.


Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia các hoạt động xã hội

- từ thiện trợ giúp người tàn tật với các hình thức phù hợp.
Bên cạnh pháp lệnh, là một số các văn bản đơn lẻ tập trung vào một vài lĩnh vực việc làm,
trợ cấp xã hội…
1.3.2. Các chương trình hỗ trợ giành cho người khuyết tật
Các chương trình hỗ trợ NKT tập trung ở vấn đề an sinh xã hội như bảo hiểm y tế,
chăm sóc sức khoẻ, giáo dục dạy nghề và hướng nghiệp, giáo dục hoà nhập, trợ cấp xã
hội…
Gần đây, nhiều cơ quan và tổ chức trong cũng như ngoài nước dành nhiều quan tâm
hơn cho lĩnh vực NKT và có đầu tư mở các cơ sở giáo dục dạy nghề cho NKT như dạy tin
học (công nghệ thông tin), dạy nghề (may, thêu, thủ công,…). Nhiều trung tâm phục hồi
chức năng và ni dưỡng NKT ra đời, nhiều tổ chức phi chính phủ trong và ngồi nước
có các dự án đầu tư, tài trợ cho các trung tâm này.
Bên cạnh đó, các trung tâm tư vấn cho người khuyết tật cũng ra đời nhằm đáp ứng
nhu cầu nguyện vọng của không chỉ người khuyết tật mà cịn của gia đình người khuyết
tật và những người có quan tâm.
Mạng lưới người khuyết tật trên cả nước ngày càng được mở rộng thông qua những
kênh thơng tin chính thống như báo đài, ti vi, tổ chức về người khuyết tật…
Gần đây, tiếp cận giao thông của người khuyết tật cũng đã được quan tâm, với các
chương trình như giao thơng tiếp cận cho người khuyết tật, xe bus miễn phí tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh, việc đăng kiểm xe ba bánh cũng được tiến hành…
Hàng năm, ngày 18-04 được lấy là ngày người khuyết tật Việt Nam, trong ngày này
nhiều chương trình về người khuyết tật diễn ra. Cùng với đó, ngày 03-12 hàng năm, ngày
người khuyết tật quốc tế luôn là một cơ hội lớn cho tất cả người khuyết tật trên cả nước
giao lưu, chia sẻ và tìm kiếm cơ hội việc làm
Theo “Báo cáo kết quả giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về người cao tuổi,
người tàn tật, dân số”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội Hà Nội, 6 năm 2006 đã đưa ra
những nội dung sau:
Những khó khăn và tồn tại:
Một số cơ quan, ban ngành, chưa quan tâm đến người tàn tật, cơng tác tun truyền
cịn dừng ở việc đưa tin chung. Một số quy định trong pháp lệnh về người tàn tật, trong



bộ luật lao động như về chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng về thời gian làm việc
và nghỉ ngơi, về tỷ lệ lao động là người tàn tật mà các Doanh nghiệp phải nhận...chưa
được các ngành, các cấp quan tâm thực hiện đầy đủ.
Các cơng trình cơng cộng, các hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ người tàn tật
còn rất hạn chế. Đời sống vật chất, tinh thần của người tàn tật cịn nhiều khó khăn, mức
trợ cấp xã hội còn thấp và chậm được sửa đổi. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các Hội, hiệp
hội, cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật cịn nhiều khó khăn, chưa được trợ giúp.
Ngun nhân:
Cơng tác tuyên truyền về Pháp lệnh, về chủ trương chính sách của Nhà Nước đối
với Người tàn tật chưa sâu rộng, nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận dân cư, ngành,
địa phương chưa đúng, chưa quan tâm tạo điều kiện cho người tàn tật.
Chưa có tài chính phân bổ nguồn đảm bảo xã hội để thực hiện chính sách trợ giúp người
tàn tật, ngân sách Nhà nước dành cho người tàn tật và cơ sở sản xuất của người tàn tật
thấp với quy định của pháp luật.
Chưa có chế tài để các Doanh nghiệp phải tiếp nhận người tàn tật vào làm việc hoặc
đóng góp vào Qũy việc làm cho người khuyết tật theo Quy định của Bộ luật Lao Động
Còn thiếu sự phối hợp liên ngành trong các hoạt động chăm sóc và tạo điều kiện để
người tàn tật tham gia hoạt động xã hội. Một số tỉnh, thành phố chưa quan tâm bố trí cán
bộ làm cơng tác về người tàn tật.
Định hướng thời gian tới:
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm đối với xã hội về người tàn tật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về người tàn tật và tăng cường chỉ đạo thực hiện pháp
lệnh về người tàn tật
Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, các cá nhận tham gia hoạt động
trợ giúp người tàn tật
Tiếp tục hỗ trợ giáo dục văn hóa, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và xóa đói giảm
nghèo
Đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình – phục hồi chức năng cho

người tàn tật
Nâng cao khả năng sử dụng các cơng trình cơng cộng
Mở rộng hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao của người tàn tật
Tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, thống kê về người tàn tật và bồi dưỡng
cán sự xã hội
Phát triển hợp tác quốc tế


Hiện nay Nhà nước ta đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm
giai đoạn 2010 - 2015" với các nội dung chủ yếu sau:
Quan điểm:
Học nghề, lập nghiệp là quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nữ; phụ nữ chủ động
tham gia học nghề để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, góp phần tăng sức cạnh
tranh của nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Tăng cơ hội học nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; đặc biệt phụ nữ khu vực nông thôn, phụ
nữ độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng di dời, giải
tỏa
Nhà nước tăng cường đầu tư phát triển dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; có chính
sách huy động mọi nguồn lực trong xã hội quan tâm dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ;
chú trọng đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề thu hút nhiều lao động nữ, đặc biệt là các
cơ sở dạy nghề thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Mục tiêu của Đề án:
Mục tiêu chung: tăng cường công tác đào tạo nghề cho phụ nữ là góp phần bảo đảm
quyền được học nghề và có việc làm của phụ nữ trong Luật Bình đẳng giới; tăng tỷ lệ lao
động nữ được đào tạo nghề và nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của lao động
nữ; tạo cơ hội để phụ nữ có thể tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm
nghèo và nâng cao vị thế cho phụ nữ; đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu cụ thể:
70% lao động nữ trở lên được tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, pháp
luật, chính sách của Nhà nước về dạy nghề và việc làm

Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số chỉ tiêu tuyển sinh học nghề đạt 40%, trong đó tăng
nhanh tỷ lệ lao động nữ được đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề; tỷ lệ lao động nữ có
việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 70%
Các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và
các cấp Hội phụ nữ thực hiện tư vấn học nghề, giới thiệu việc làm và tạo việc làm cho
khoảng 100.000 phụ nữ hàng năm, trong đó khoảng 50.000 lao động nữ được đào tạo
nghề.
Đối tượng:
Lao động nữ trong độ tuổi lao động, ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người
thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có cơng với cách mạng, hộ nghèo, hộ có


thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật,
người trong diện thu hồi đất canh tác, phụ nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp.
Chính sách:
Chính sách đối với người học:
Lao động nữ thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có cơng với cách
mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác, lao
động nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn
(trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khoá
học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế); hỗ trợ tiền ăn với
mức 15.000đ/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với
mức tối đa không quá 200.000đ/người/khoá học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ
15 km trở lên; lao động nữ (cả nông thơn và thành thị) thuộc diện hộ có thu nhập tối đa
bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp
nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khoá học (mức hỗ trợ
cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế).
Lao động nữ khác đuợc hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và
dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khoá (mức hỗ trợ cụ thể theo
từng nghề và thời gian học nghề thực tế).

Lao động nữ học nghề được vay vốn để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối
với học sinh, sinh viên. Lao động nữ làm việc ổn định tại chỗ (nơi cư trú) sau khi học
nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay học nghề.
Lao động nữ là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi,
người có cơng với cách mạng, hộ nghèo có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ
nghèo học các khoá học trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề được hưởng chính sách
dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú
Lao động nữ sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm
Lao động nữ sau khi học nghề tham gia sản xuất kinh doanh, tự tạo việc làm được
ưu tiên hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm từ các hoạt động hỗ trợ
việc làm của Đề án này và các chương trình xúc tiến thương mại hiện hành
Mỗi lao động nữ chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của Đề án này.
Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước thì khơng


được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án này. Riêng những người đã được
hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để
chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối đa không quá 03 lần.
Mức hỗ trợ học nghề sẽ được điều chỉnh khi có sự thay đổi chính sách chung.
Chính sách đối với giáo viên, giảng viên
Áp dụng chính sách với giáo viên, giảng viên theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg
ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “ Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2001, Cuốn sách “Thập kỷ Người
Khuyết tật Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương 1993 - 2002” có bàn về khía cạnh về giới
của Các tổ chức tự lực, trong đó có nội dung: Tăng cường khả năng của phụ nữ khuyết tật
đưa sự quan tâm của họ vào chương trình hành động của các tổ chức tự lực và cung cấp
cho họ các cơ hội bình đẳng để tác động vào chính sách và q trình ra quyết định trong

các tổ chứcđó. Các tổ chức tự lực của NKT nên:
Có chú ý đặc biệt để tuyển thêm những thành viên là phụ nữ và em gái khuyết tật
nhằm cải thiện sự cân bằng về giới trong các tổ chức và để đại diện đầy đủ hơn cho quyền
lợi của phụ nữ và em gái khuyết tật.
Hướng tới việc phụ nữ được đại diện ngang với nam giới trong các cơ quan ra quyết
định và làm chính sách
Hình thành các ủy ban do các thành viên nữ bầu ra để thúc đẩy sự thăng tiến của phụ
nữ và em gái khuyết tật
Nâng cao nhận thức của phụ nữ và em gái khuyết tật về các vấn đề giới tính nhằm
tăng cường cho họ khả năng phân tích các khó khăn gây ra và phát triển các kĩ năng giải
quyết khó khăn trong cuộc sống hàng ngày
Trên thực tế đã có những Phụ nữ khuyết tật nhận được sự hỗ trợ để kinh doanh nhỏ
và đạt được kết quả rất đáng ghi nhận: Sáng 29/2, Ban hành động vì sự phát triển hịa
nhập (IDEA) tổ chức hội thảo kết thúc chương trình dự án nhỏ của Ngân hàng thế giới tài
trợ năm 2007-2008 với chủ đề “Kinh doanh nhỏ với phụ nữ khuyết tật”.
Tại hội thảo, tham luận của đại diện Hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội đã hướng dẫn các
phụ nữ khuyết tật về những nguồn vốn ưu đãi mà chị em có thể tiếp cận để vay làm vốn
khởi nghiệp. Những chủ doanh nghiệp là người khuyết tật trao đổi kinh nghiệm mà bản


thân mình đã trải qua để vượt lên khó khăn, vươn tới thành cơng. Mục đích của hội thảo
là trang bị những kiến thức cần thiết để phụ nữ khuyết tật có thể xóa bỏ mặc cảm, biết
cách quản lý tài chính và tự tin tìm cách tạo việc làm để trang trải cho cuộc sống.
IDEA là một tổ chức phi chính phủ địa phương – đứng dưới Trung tâm hỗ trợ sáng
tạo khoa học và công nghệ với những mục tiêu: tạo mạng lưới thông tin cho người khuyết
tật, hỗ trợ các nhóm tự lực của người khuyết tật thành lập hội, tập huấn về các lĩnh vực
khuyết tật (bao gồm phục hồi chức năng, các dịch vụ chăm sóc y tế, việc làm, giáo dục
hịa nhập, nâng cao nhận thức và tiếp cận…)
Theo chị Nguyễn Thị Lan Anh, cán bộ dự án của IDEA, “đã có nhiều phụ nữ khuyết
tật chưa bao giờ tham gia các hoạt động phong trào của người khuyết tật. Thông qua dự

án này IDEA đã tiếp cận được với nhiều phụ nữ khuyết tật nghèo ở các quận, phường,
mời các chị tham gia lớp tập huấn. Sau khi tiến hành khảo sát các thành viên tham gia tập
huấn, chúng tơi được biết ¾ các chị chưa bao giờ được tham gia một khóa đào tạo nào”.
Mong muốn mà Dự án Buil đang thực hiện dành cho đối tượng hưởng lợi cũng như vậy.

Chương 2: Phụ nữ khuyết tật với việc làm (nghiên cứu trường hợp chị T.N.K)
2.1. Tiếp nhận thông tin và đánh giá sơ bộ
2.1.1. Miêu tả và tiểu sử của vấn đề
Chị K là một phụ nữ khuyết tật vận động (do sốt bại liệt năm chị lên sáu tuổi với tỷ
lệ dạng tật là 65%) năm nay chị đã 43 tuổi. Hiện tại chị sống với mẹ đã hơn 70 tuổi. Địa


chỉ Nguyễn Thị Định, Khu phố 2, Phường Bình Trưng Tây, Quận 2, Thành phố Hồ Chí
Minh. Cơng việc hiện tại của chị là bán tạp hóa nhỏ tại nhà (nhà chị nằm sâu trong một
con hẽm). Nói là bán tạp hóa nhưng qn của chị nhỏ xíu, chị chỉ bán những nhu yếu
phẩm, vật phẩm hàng ngày cho trẻ em (bim bim, mì tơm, bánh tráng...); tổng các mặt
hàng không nhiều lắm, tổng số vốn của quán cũng chỉ khoảng hai triệu đồng.
Nhìn bề ngồi thân chủ thấp, khn mặt trịn, người mập, da sạm, tóc đã bạc nhiều
và đi tập tễnh. Quần áo chị mặc trông rất giản dị, đã cũ nhưng sạch sẽ và gọn gàng. Nhìn
bề ngồi trơng thân chủ giống một người phải làm lụng vất vả, suy nghĩ và lo toan công
việc nhiều. Căn nhà nhỏ của mẹ con chị chật hẹp nhưng sạch sẽ, mát mẻ. Ban đầu gặp chị
mặc dù chị đã biết tơi nhưng chị vẫn dè chừng ít nói chuyện và hay nhìn tơi để xem phản
ứng của tơi. Những cuộc nói chuyện ban đầu của tơi tại nhà chị không dài lắm, chỉ là
những cuộc điện thoại hỏi thăm về sức khỏe và tình hình hàng quán. Khoảng một tháng
sau, những lần xuống nhà chị tôi thường ở lại với thời gian lâu hơn và chuyện trò với chị
nhiều hơn, đổi lại chị cũng hỏi tôi rất nhiều và tôi cũng sẵn sàng chia sẻ với chị những ý
nghĩ của tôi về cuộc sống của tôi khi xa nhà. Với chị tôi cũng giống như một người em
hoặc một người cháu.
Qua nhiều lần tiếp xúc tôi thấy chị là người thích chia sẻ, thích có người quan tâm,
động viên và hỏi han. Chị chia sẻ với tôi chị đang gặp khó khăn về kinh tế “hiện tại mẹ

chị đã già yếu không thể phụ giúp chị những công việc hàng ngày, sức khỏe chị cũng
không được tốt. Thu nhập từ cái quán nhỏ của mẹ con chị là 300.000 Đ/ tháng”. Cuộc
sống của hai mẹ con đều trông vào khoản tiền lương hưu 1000.000 VNĐ/ tháng của mẹ
chị.
Tuổi thơ của chị không may mắn như nhiều bạn bè cùng trang lứa khác (bố mẹ chia
tay, kinh tế gia đình khó khăn, bản thân là người khuyết tật, gia đình khơng có đàn ơng
gánh vác việc đại sự, tất cả trơng vào hai người phụ nữ đơn thân...) chính vì vậy chị mặc
cảm, tự tin và mất niềm tin ở người khác đặc biệt những kỉ niệm về chuyện xảy ra giữa bố
và mẹ thời ấu thơ đã làm chị mất tin tưởng ở người khác giới.
Những kỉ niệm từ thời thơ ấu hiện nay vẫn tác động sâu sắc vào cuộc sống của mẹ
con chị theo hướng khơng tích cực vì vậy chị cảm thấy buồn và nhiều khi bất mãn với
cuộc sống.


Mặc dù tuổi của chị đã “ngoại tứ tuần” nhưng chị chưa từng tham gia hoạt động bên
ngoài ( Câu lạc bộ, hội nhóm hoặc các tổ chức đồn thể ), bởi vì chị đi lại rất khó khăn
sau khi chị tốt nghiệp lớp 9 ở nhà khơng làm gì, mẹ chị lấy hàng về cho chị bán mặc dù
quán nhỏ nhưng cả ngày chị phải mất thời gian vào nó. Bạn bè ngày xưa của chị lâu ngày
khơng gặp chị cũng khơng nắm bắt được thơng tin của họ...Vì vậy chị ít bạn bè lại khơng
có những kĩ năng trong cuộc sống, buồn cũng không biết nên chia sẻ với ai, cũng khơng
có ai chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với chị
Mong muốn hiện tại của chị là chị có vốn để mở rộng quán bán thêm nhiều các mặt
hàng, tăng thu nhập để chị có điều kiện chăm lo cho cuộc sống của hai mẹ con vì chị thấy
chị tìm được niềm vui, tình yêu thương an ủi từ công việc này Theo Lý thuyết nhu cầu
của Maslow thì con người có năm loại nhu cầu theo thứ bậc từ thấp tới cao và con người
chỉ thỏa mãn nhu cầu cao khi đã thỏa mãn được những nhu cầu thấp hơn nó. Khi những
nhu cầu cơ bản nhất của con người là ăn, uống, ngủ và nghỉ ngơi sinh hoạt..này cịn chưa
được đáp ứng thì họ khơng có đủ điều kiện để đạt được những nhu cầu khác cao hơn.
2.1.2. Những thông tin cơ sở về đời sống của thân chủ và tình hình cuộc sống hiện
tại

Theo lời chị kể “bố chị là bộ đội, bố chị quê ở Miền Trung vào Miền Nam tập kết;
bố mẹ chị lập gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh và sau đó trở về sống tại Khánh Hịa,
bố mẹ chị sinh được ba người con chị là con út. Khác với anh trai và chị gái được sinh ra
ở Thành phố Hồ Chí Minh, chị K được sinh ra tại quê nội Khánh Hòa. Bố mẹ chị chia tay
năm chị mới lên 1, bố chị “đuổi” mẹ con chị ra khỏi nhà và lấy vợ lẽ”. “Ngày đó mẹ chị
theo bố chị ra miền Trung sau đó mới sinh chị. Chị sinh ra thì bố chị dẫn vợ mới về, bố
chị cầm súng lục đuổi mẹ con chị đi. Vậy nên mẹ chị sợ quá đem chị em chị vào đây. Vết
thương đó khơng bao giờ lành được trong lịng chị. Nó ám ảnh chị đến suốt đời mình và
đó cũng là một trong những lý do chị khơng lập gia đình”. Mẹ chị mang ba người con
quay trở lại Sài Gịn lúc đó chị gái mới 4 tuổi, anh trai 2 tuổi và chị chưa đầy 1 tuổi. Kể từ
ngày đó chị chưa từng một lần gặp lại bố của mình: “Bố chị bỏ mẹ chị rồi thấy chị khuyết
tật vậy nữa nên khơng quan tâm gì cả, thành thử ra chị chẳng biết mặt bố mình, khơng có
thành quen giờ khơng biết ơng ấy sống chết thế nào”. Một người phụ nữ bị chồng đuổi ra


×