Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

CHƯƠNG I ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT XÂY DỰNG doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.42 KB, 42 trang )

CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT XÂY DỰNG
I. KHÁI NIỆM, Ý KIẾN CỦA NGHÀNH XÂY DỰNG TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN
1. Khái niệm
- Ngành xây dựng theo nghĩa rộng ( hay còn có thể gọi là lĩnh vực đầu tư
nghành xây dựng) bao gồm chủ đầu tư có công trình xây dựng, kèm theo các
bộ phận có liên quan, các doanh nghiệp xây dựng chuyen nhận thầu xây lắp
công trình, các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng ( chuyên làm những công
việc như lập dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, quản lý thực hiện dự án … ) các
tổ chức cung ứng vật tư và thiết bị cho xây dựng, các tổ chức tài chính và
ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào tạo phục vụ xây
dựng, các cơ quan nhà nước trực tiếp liên quan đến xây dựng và các tổ chức
dịch vụ khác phục vụ xây dựng.
- Lĩnh vực đầu tư ở đây mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư
được thực hiện thông qua việc xây dựng công trình để vận hành và sinh lời và
không bao gồm các lĩnh vực đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư không
kèm theo các giải pháp xây dựng công trình.
2. Ý nghĩa ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
- Ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn (ngành cấp I)
của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá
trình sáng tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định (xây dựng công
trình và lắp đặt thiết bị, máy móc và công trình cho mọi hoạt động của đất
nước và xã hội dưới mọi hình thức (xây dựng mới, cái mở rộng và hiện đại
hoá tài sản cố định).
- Công trình xây dựng luôn luôn có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá,
nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Một công trình mới được xây dựng thường là
kết tinh của các thành quả khoa học, kỹ thuật nghệ thuậ và nhiều ngành ở thời
điểm đang xét và nó lại có tác động góp phần mở ra một giai đoạn phát triển
văn hoá và nghệ thuật kiến trúc có tác động quan trọng đến môi trường sinh
thái.


- Ngành xây dựng chi phí một nguồn vốn khá lớn của quốc gia và xã hội.
Những sai lầm xây dựng thường là gây nên những thiệt hại khá lớn và có thể
rất khó sửa chữa trong nhiều năm.
- Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ hợp thứ bẩy của quốc hội khoá 9
(năm 1995) vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội 1994 có thể đạt 48.000 tỷ
đồng, khối lượng đầu tư xây dựng đã được thực hiện thuộc vốn ngân sách nhà
nước là 8.833 tỷ đồng.
- Tỷ lệ đầu tư bằng vốn trong nước so với tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 1995 là 12,7% theo dự báo để nâng cao thu nhập tính cho một
đầu người lãi gấp đôi đến năm 2000 cần khoảng 40 tỷ USD, trong đó phần
lớn là dành cho xây dựng.
- Ngành xây dựng cũng có một phần đóng góp đáng kể vào giá trị tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
- Theo số liệu của Liên Xô (cũ) sản phẩm của ngành xây dựng chiếm
khoảng 11% tổng sản phẩm xã hội, giá trị tài sản cố định sản xuất của ngành
xây dựng kể cả ở các ngành liên quan như vật liệu xây dựng, chế tạo máy xây
dựng chiếm khoảng 20% giá trị tài sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
- Ở một số nước tư bản phát triển giá trị sản phẩm của ngành xây dựng
chiếm khaỏng từ 6% đến 10% cá biệt lên tới 20%.
- Ở nước ta phần đóng góp này còn nhỏ nhưng cũng đang ngày càng tăng
lên đáng kể.
- Trong nhiều ngành kinh tế ở Việt Nam, vai trò của nhập khẩu còn khá
lớn. Riêng đối với ngành xây dựng phần tự làm trong nước khi xây dựng công
trình trong nước còn khá lớn thông qua phần vật liệu xây dựng và phần nhân
công xây lắp.
- Có nhiều công việc xây dựng buộc phải thực hiện bằng vật tư và nhân
công trong nước mới có liên quan (ngay cả đối với các chủ đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam). Đó là ngành xây dựng còn có một nhiệm vụ quan trọng là phải
nâng cao trình độ tự lực giải quyết vấn đề xây dựng và phải bảo đảm có đủ

lực lượng để cộng tác với chủ đầu tư nước ngoài, không để có chủ thầu xây
dựng nước ngoài lũng đoạn thị trường xây dựng trong nước đối với các công
trình của chủ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
II. PHẠM VI NGÀNH XÂY DỰNG CÁC KHÁI NIỆM CẦN BIẾT TRONG THỐNG
KÊ XÂY DỰNG
1. Phạm vi ngành xây dựng
* Ngành xây dựng bao gồm các hoạt động
- Xây dựng và lắp đặt các thiết bị trong các công trình, phục vụ sản xuất,
đời sống xã hội và dân cư, do các tổ chức xây lắp thuộc các thành phần kinh
tế, kể cả các hộ sản xuất kinh doanh cá thể thực hiện dưới mọi hình thức nhận
thầu.
- Sửa chữa lớn các công trình xây lắp do các thành phần (ghi ở trên)
nhận thầu thực hiện.
- Hoạt động thi công cơ giới phục vụ cho việc xây dựng các công trình
xây lắp.
- Hoạt động xây dựng, lắp đặt và sửa chữa lớn tự làm của các thành phần
kinh tế và các hộ dân cư.
2. Các khái niệm cần biết trong thống kê xây dựng
2.1. Hoạt động xây dựng
* Hoạt động xây dựng là quá trình lao động để tạo ra những sản phẩm
xây dựng cho nền kinh tế quốc dân, gồm những công việc sau:
- Thăm dò, khảo sát, thiết kế
- Xây dựng mới, xây dựng lại công trình
- Cải tạo mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình.
- Cho thuê phương tiện, máy móc thi công có người điều khiển đi kèm.
+ Tuy vậy, theo phân ngành kinh tế hiện nay (hệ thống tài khoản quốc
gia: SNA - viết tắt chữ System of National Accunts), ngành xây dựng cơ bản
chỉ tính công việc thăm dò khảo sát thiết kế phát sinh trong quá trình thi công,
các công trình, còn việc thăm dò, khảo sát, thiết kế ban đầu là thuộc ngành
hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn.

2.2. Sản xuất xây dựng
- Là hoạt động của những người lao động thuộc ngành xây dựng tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra các sản phẩm xây dựng cần thiết cho
xã hội, nhằm phục vụ sản xuất và đời sống vật chất, tinh thần ngày càng nâng
cao của mọi thành viên trong xã hội.
- Sản xuất xây dựng là những hoạt động xây dựng mới, xây dựng lại, cải
tạo, mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá, lắp đặt thiết bị máy móc, sửa chữa lớn
những công trình nhà cửa, vật kiến rúc hoặc các công trình dân dụng khác kể
cả công việc thăm dò khảo sát thiết kế phục vụ trong quá trình thi công các
công trình đó.
- Sản xuất xây dựng là ngành kinh tế quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân, nó tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và những tài sản
cố định mới, phục vụ đời sống con người và tạo điều kiện cho các ngành kinh
tế khác phát triển.
2.3. Hoạt động xây lắp
- Là quá trình lao động xây dựng và lắp đặt thiết bị máy móc và các công
trình. Đây là hoạt động chủ yếu nhất của các đơn vị xây dựng, bao gồm
những công việc đào, xúc, san lấp mặt bằng, làm đường, xây dựng, sửa chữa
lớn nhà cửa, vật kiến trú và lắp đặt các thiết bị máy móc vào các công trình,
kể cho cho thuê phương tiện máy móc thi công có người điều khiển đi kèm.
- Những đơn vị doanh nghiệp chuyên làm những công việc này thường
gọi chung là các đơn vị thi công xây lắp nhận thầu.
2.4. Sản phẩm xây dựng
* Khái niệm và hình thức biểu hiện của sản phẩm xây dựng
- Sản phẩm xây dựng mà sản phẩm chính của nó là sản phẩm xây lắp, là
những công trình xây lắp, xây dựng và những bộ phận cấu thành, nêu chúng
còn đang xây dựng dở dang, cùng những công việc có tính chất xây lắp như
sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và lắp đặt thiết bị máy móc vào công
trình.
- Sản phẩm xây dựng là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, là kết

quả trực tiếp và hữu ích của lao động trong lĩnh vực sản xuất xây dựng sáng
tạo, ra theo đúng quy trình công nghệ xây lắp và đảm bảo chất lượng thiết kế
yêu cầu.
- Sản phẩm xây dựng được biểu hiện dưới hai hình thức:
Hình thức vật chất cụ thể và hình thức giá trị công việc có tính chất xây
lắp:
- Đại bộ phận sản phẩm xây dựng có hình thức vật chất cụ thể, có thể
dùng các đơn vị đo lường vật lý để xác định dung tích, khối lượng, công
suất… Đó là những công trình xây lắp, xây dựng nhà cửa, vật kiến trúc, công
trình dân dụng khác và các bộ phận cấu thành của chúng đang xây dựng dở
dang.
- Còn những sản phẩm không biểu hiện bằng hình thức cá thể được
(những công việc thăm dò thiết kế phát sinh trong thi công, công việc sửa
chữa nhà cửa, vật kiến trúc, công việc lắp đặt thiết bị máy móc), tuy không
tạo ra giá trị sử dụng mới nhưng chúng đã khôi phục và làm tăng giá trị sử
dụng hiện có, tạo điều kiện cho máy móc hoạt động.
* Phân loáip theo mức độ hoàn thành
Trong xây dựng cũng như trong bất cứ ngành sản xuất nào khác tại mỗi
thời điểm của quá trình sản xuất, sản phẩm sẽ hoàn thành ở một giai đoạn
nhất định.
Mức độ hoàn thành của các đối tượng được xây dựng sẽ khác nhau tuỳ
thuộc bởi khối lượng công việc được tiến hành từ khi bắt đầu xây dựng các
đối tượng đó.
Để xác định đúng đắn khối lượng sản phẩm xây dựng đã thực hiện được,
phục vụ cho việc hạch toán theo dõi, thanh toán, báo cáo được kịp thời, đúng
với tình hình thực tế thi công, người ta đã phân loại sản phẩm theo ba mức độ
hoàn thành như sau:
+ Thành phẩm
+ Khối lượng thi công xong
+ Khối lượng thi công dở dang

- Thành phẩm: là những công trình, hạng mục, công trình đã hoàn chỉnh,
đã làm xong hạng mục nghiệm thu sử dụng theo đúng chế độ quy định của
nhà nước và có thể sẵn sàng huy động sử dụng được ngay. Thành phẩm của
ngành xây dựng đồng thời cũng là tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân.
Những công việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc, lắp đặt thiết bị máy móc
và công trình, nếu hoàn thành đã bàn giao cũng được coi là thành phẩm.
- Công trình là biểu hiện tổng hợp của các vật thể kiến trúc có liên quan
với nền đất, được tạo bởi các vật liệu xây dựng, được thi công trên một hoặc
nhiều địa điểm, nhưng có chung một bản thiết kế và giá trị của đối tượng đó
được tính chung cho một bản tổng dự toán. Công trình có thể chỉ là một ngôi
nhà, hoặc một vật kiến trúc, nếu có thiết kế và dự toán độc lập.
Hạng mục công trình là các đối tượng xây dựng có thiết kế, dự toán
riêng trong thiết kế chung và dự toán tổng hợp với các đối tượng khác, nó có
thể huy động năng lực độc lập theo thiết kế riêng hoặc phục vụ huy động năng
lực tổng hợp của cả công trình.
Ví dụ: Công trình nhà máy thủy điện có bốn tổ máy phát điện, được ghi
chung trong một bản thiết kế và dự toán tổng hợp. Từng tổ máy phát điện lại
có thiết kế và dự toán riêng nằm trong dự toán chung. Như vậ, từng tổ máy
phát điện là hạng mục công trình và cả nhà máy là một công trình.
Tóm lại: thành phẩm là những công trình, hạng mục công trình và những
công việc xây lắp khác hoàn thành đã đạt được các yêu cầu sau đây:
+ Hoàn thành toàn bộ các khối lượng công tác xây lắp theo thiết kế quy
định.
+ Đảm bảo chất lượng thiết kế xây dựng qui định và sẵn sàng huy động
được ngay theo đúng chức năng đã đề ra.
+ Đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng theo đúng chủ đề nhà nước
quy định.
- Khối lượng thi công xong (còn gọi là thành phẩm quy ước của đơn vị
nhận thầu).
Khối lượng thi công xong là những khối lượng xây lắp đã hoàn thành

đến giai đoạn quy ước (giai đoạn quy định đối với từng công trình, hạng mục
công trình cụ thể) trong thiết kế, dự toán và theo nội dung hợp đồng đã ký kết
giữa hai bên giao thầu (bên A), nhận thầu (bên B) và đã được bên A xác nhận
thanh toán.
Tiêu chuẩn để xác định khối lượng thi công xong là:
+ Khối lượng công việc thi công xong đảm bảo đo, tính được dễ dàng.
+ Có thể kiểm tra được chất lượng sản phẩm
+ Đã cấu tạo và thực thể công trình
+ Đã thi công đấu phần việc cuối cùng trong đơn dự toán.
Như vậy, những khối lượng xây lắp nào chưa được bên A xác nhận là
hoàn thành đến giai đoạn quy ước, thì không được tính là khối lượng thi công
xong, mà sẽ tính là khối lượng thi công dở dang.
- Khối lượng thi công dở dang
Là những khối lượng xây lắp đang thi công, chưa hoàn thành đến giai
đoạn quy ước, chưa được bên A xác nhận thanh toán.
Tiêu chuẩn xác định khối lượng thi công dở dang:
+ Khối lượng công việc có thể đo, tính được dễ dàng
+ Sơ bộ kiểm tra được chất lượng sản phẩm
+ Đã thi công theo đúng thiết kế, dự toán
+ Phải là công việc do công nhân xây lắp thi công tại hiện trường.
Để xác định được khối lượng thi công dở dang, các doanh nghiệp xây
lắp phải thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm kê sản phẩm dở dang ở các tổ, đội
sản xuất vào ngày cuối mỗi tháng, phải có sự xác nhận của nhân viên kỹ thuật
của nhân viên kỹ thuật giám sát thi công và cán bộ tổ, đội sản xuất trong văn
bản kiểm kê, không được tuỳ ý, tuỳ tiện ước tính.
Cả 2 loại khối lượng thi công xong và thi công dở dang đều là khối
lượng sản phẩm xây dựng dở dang.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHƯƠNG PHÁP TÍNH CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, CHI PHÍ TRUNG
GIAN, GIÁ TRỊ TĂNG THÊM NGÀNH XÂY DỰNG.

1. Đặc điểm chung của ngành xây dựng do tính chất của sản phẩm
xây dựng
- Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn
biến đổi theo địa điểm xây dựng. Cụ thể là trong xây dựng con ngưòi và công
cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn
sản phẩm xây dựng (tức là các công trình xây dựng) thì hình thành và đứng
yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. Các phương án xây
dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn luôn phải thay đổi theo
từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc tổ
chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện cho người lao động, làm nảy sinh nhiều
chi phí cho khâu di chuyển. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các tổ chức xây dựng
phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ. Về mặt trang bị tài
sản cố định sản xuất, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, tăng
cường điều hành tác nghiệp, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận
chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây
dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để tranh thầu xây dựng, chú ý đến nhân tố chi
phí vận chuyển khi lập giá tranh thầu. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phải phát
triển rộng khắp trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng
như các dịch vụ cho thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu
xây dựng.v.v
- Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài. Đặc điểm
này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của tổ chức xây
dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang được xây dựng, các tổ chức
xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựn
xong dễ bị hao mòn vô hình do tiến bộ của khoa học và công nghệ. Đặc điểm
này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa
chọn phương án, phải lựa chọn phương án có thời gian xây dựng hợp lý, phải
có chế độ thanh toán và kiểm tra tra chất lượng trung gian thích hợp dự trữ
hợp lý.
- Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường

hợp cụ thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu, vì sản
phẩm xây dựng rất đa dạng, có tính cá biệt cao và chi phí lớn. Trong phần lớn
các ngành sản xuất khác người ta có thể sản xuất sẵn hàng loạt sản phẩm để
bán. Nhưng với các công trình xây dựng thì không thể được trừ một vài
trường hợp rất hiếm khi chủ đầu tư làm sẵn một số nhà ở để bán. Nhưng ngay
cả ở đây mỗi nhà cũng đều có những đặc điểm riêng do điều kiện địa chất và
địa hình đem lại. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là phải xác định giá cả của
sản phẩm xây dựng trước khi sản phẩm được làm ra và hình thức giao nhận
thầu hoặc đấu thầu xây dựng cho từng công trình cụ thể trở nên phổ biến
trong sản xuất xây dựng. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các tổ chức xây dựng
muốn thắng thầu phải tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho nhiều trường hợp xây
dựng cụ thể và phải tính toán cẩn thận khi tranh thầu.
- Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, các đơn vị tham gia xây dựng
công trình phải cùng nhau đến công trường thi công với diện tích có hạn để
thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và
không gian. Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải có trình độ phối
hợp tổ chức cao trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị và thiết kế tổ chức
thi công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu
chính và các tổ chức thầu phụ.
- Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng của
thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Ảnh hưởng của thời tiết, thường làm
gián đoạn quá trình thi công, năng lực sản xuất của tổ chức xây dựng không
được sử dụng điều hoà theo bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn công
trình, đòi hỏi phải dự trữ nhiều vật liệu… Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức
xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu, phấn đấu tìm
cách hoạt động tròn năm, áp dụng kết cấu lắp ghép làm sản phẩm sẵn trong
xưởng để giảm bớt thời gian thi công trong công trường, áp dụng cơ giới hoá
hợp lý, chú ý độ bền chắc của máy móc, đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện
điều kiện lao động của công nhân, chú ý đến nhân tố rủi ro, quan tâm đến phát
triển xây dựng trong điều kiện nhiệt đới…

- Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều
kiện địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình nhưng nếu nó được
đặt tại nơi có sẵn nguồn nguyên vậtliệu xây dựng, sẵn nguồn máy xây dựng
cho thuê và sẵn nhân công thì người nhận thầu xây dựng trường hợp này có
nhiều cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn.
- Tốc độ phát triển kỹ thuật xây dựng thường chậm hơn nhiều ngành khác.
Tất cả các điều kiện trên đã ảnh hưởng đến sản xuất xây dựng, ảnh
hưởng đến phương pháp tính toán các chi phí thống kê xây dựng. Ngoài ra,
đặc điểm riêng của ngành xâydựng Việt Nam cũng ảnh hưởng rất lớn đến
phương pháp tính toán các chỉ tiêu.
2. Đặc điểm xuất phát từ những điều kiện tự nhiên và kinh tế của
Việt Nam
- Về điều kiện tự nhiên: sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, đất nước dài và hẹp, điều kiện địa chất thuỷ
văn phức tạp, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó, các giải
pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của nhân tố này.
- Về trình độ xây dựng theo các mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất, quản lý
kinh tế còn thấp kém so với nhiều nước. Quá trình sản xuất xây dựng ở Việt
Nam hiện nay đang diễn ra như một quá trình phát triển tổng hợp, kết hợp
bước đi tuần tự và bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa hợp tác hoá lao động giản
đơn, công trường thủ công, nửa cơ giới, cơ giới hoá và một phần tự động hoá.
Trong bối cảnh hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, trình độ xây dựng của
nhà nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển nhanh.
- Đường lối chung phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước, đang quyết định phương hướng và tốc độ phát triển ngành xây
dựng của Việt Nam.
CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT
(GO), CHI PHÍ TRUNG GIAN (IC), GIÁ TRỊ TĂNG THÊM (VA)

NGÀNH XÂY DỰNG
A. CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, CHI PHÍ TRUNG GIAN, GIÁ TRỊ TĂNG
THÊM THEO HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA
Hệ thống tài khoản quốc gia SNA là một hệ thống các tài khoản có liên
hệ hữu cơ với nhau, bao gồm các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, trình bày dưới
dạng tài khoản nhằm phản ánh quá trình tái sản xuất sản phẩm xã hội và GDP
trong một thời kỳ nhất định. Hệ thống tài khoản quốc gia do cơ quan thống kê
nhà nước lập, mô tả quá trình tái sản xuất đã được thực hiện, hoàn thành, xây
dựng từ các nguồn số liệu đầu tra về quá trình sản xuất đã xảy ra, xác định
quy mô, trình độ và hiệu quả của sản xuất, là kiểu tổ chức hạch toán nền kinh
tế quốc dân dựa trên lý luận về toàn bộ quá trình sản xuất bao gồm cả sản xuất
vật chất và sản xuất dịch vụ, là công cụ để tổ chức quản lý nền kinh tế quốc
dân.
Vì vậy, ngày 25/12/1992, thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 183/Tgg
về việc chính thức áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia SNA vào Việt Nam
thay cho hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân MPS.
Chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị gia tăng là 3 chỉ tiêu
rất quan trọng trong hệ thống SNA.
I. Giá trị sản xuất (Gros out put - GO)
1. Khái niệm
Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị của sản phẩm do lao động trong
các ngành của nền kinh tế quốc dân tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường
là 1 năm.
2. Nội dung kinh tế
Tổng giá trĩ là chỉ tiêu phản ánh kết qua sản xuất của toàn bộ nền kinh tế
theo từng thời kỳ: tháng, quý; 6 tháng, năm. Chỉ tiêu này được xác định bằng
tổng cộng giá trị sản xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế.
Tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ các yếu tố: chi phí trung gian và
giá trị tăng thêm, mặt khác tổng giá trị sản xuất đã sản xuất ra trong kỳ được
sử dụng cho nhu cầu sản xuất, cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và xã

hội (nhà nước), cho tích luỹ tài sản và xuất khẩu ra nước ngoài.
Như vậy GO bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ
3. Các nguyên tắc xác định chỉ tiêu GO
- GO được xác định theo lãnh thổ kinh tế (đơn vị thường trú
- Tính theo thời điểm sản xuất: sản phẩm được sản xuất ra trong thời kỳ
nào thì tính vào kết quả sản xuất của thời kỳ đó. Theo nguyên tắc này, chỉ tính
vào GO chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ, nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang,
tức là phải loại trừ tồn kho đầu kỳ hai loại kể trên vì nó là kết quả sản xuất
của kỳ trước.
- GO được tính theo giá thị trường (giá thực tế)
- Tính toàn bộ giá trị sản phẩm. Theo nguyên tắc này, cần tính vào GO
cả nguyên vật liệu của khách hàng.
- Tính toàn bộ kết quả sản xuất: theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị
sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả bán thành phẩm và sản phẩm dở dang.
4. Các phương pháp xác định GO
Để xác định GO cho nền kinh tế, SNA dùng 3 phương pháp:
- Phương pháp doanh nghiệp
Chỉ tiêu GO theo phương pháp doanh nghiệp lấy doanh nghiệp làm đơn
vị tính, thực chất của phương pháp này là tổng cộng giá trị sản xuất của các xí
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
GOxn = ∑ GOxni
Đây là phương pháp cơ bản để xác định GO của nền kinh tế quốc dân
nhưng có nhược điểm là xác định chưa chính xác kết quả sản xuất của nền
kinh tế quốc dân vì nó đã tính trùng giữa các nghành phần chi phí trung gian
giữa các xí nghiệp cùng một nghành và giữa các nghành của nền kinh tế.
Chỉ tiêu GO tính ra có chất lượng hay không phụ thụôc vào trình độ tổ
chức và trình độ chuyên môn hóa các xí nghiệp.
- phương pháp nghành.
GO theo phương pháp này là lấy nghành kinh tế làm đơn vị tính bằng

cách tổng cộng giá trị sản xuất của tất cả các nghành trong nền kinh tế.
GO
nghành
= ∑ GO
nghành i

phương pháp này đã loại trừ được phần bị tính trùng trong một nghành
nhưng chưa loại trừ được phần tính trùng giữa các nghành.
GO
nghành
= GO
xn
- giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các xí nghiệp cùng
một nghành để loại trừ nốt phần tính trùng trên ta có phương hướng thứ 3
- phương pháp kinh tế quốc dân ( KTQD )
lấy nền kinh tế quốc dân làm đơn vị tính, để áp dụng phưong pháp này
phải xác định được giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các nghành của nền kinh
tế quốc dân.
GO
KTQD
= GO
nghành
- giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các nghành. Như
vậy, GO tính theo 3 phương pháp khác nhau sẽ cho 3 kết quả khác nhau. Thực
chất 3 phương pháp tính GO trên là loại bỏ dần phần bị tính trùng.
Tuỳ vào từng đặc điểm của từng nghành mà nôi dung, phương pháp,
nguồn thông tin để tính GO của từng nghành khác nhau.
II. Chi phí trung gian ( IC - Iuermediak cosumption )
1. Khái niệm
Chi phí trung gian là một bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất bao

gồm những chi phí về vật chất và dịch vụ cho sản xuất ( không bao gồm khấu
hao ), đó là chi phí sản phẩm các nghành khác nhau để sản xuất của một
nghành vào đó.
2.Nội dung .
Chi phí trung gian bao gồm :
* cdhi phí sản phẩm vật chất.
+ nguyên liệu, vật liệu chính, phụ
+ nhiên liệu
+ điện nước, khí đốt
+ chi phí công cụ sản xuất nhỏ, vat rẻ tiền mau hỏng.
* Chio phí về dịch vụ.
+ Vận tải
+ Thương nghiệp
+ Bảo hiểm
+ Dịch vụ ngân hàng
+ Pháp lý
+ Quản cáo
+ v.v…
3.Các nguyên tắc tính
Ngoài các nguyên tắc chung của tính các chỉ tiêu trong SNA như tính
theo đơn vị thường trú, tính theo giá trị thường, tính theo thời điểm sản xuất,
thì khi tính chi phí trrung gian cần chú ý các nguyên tắc sau :
- Những sản phẩm vật chất và dịch vụ được tính vào chi phí trung gian
phải là chi phí sản xuất, được hạch toán vào giá thành sản phẩm.
Đối với thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình, quá trình hoạt
động sản xuất thường gắn liền với quả trình tiêu dùng sinh hoạt. Nhiều khoản
chi tiêu không thể phân biệt chính xác bao nhiêu cho sản xuất, bao nhiêu cho
tiêu dùng cuối cùng; đặc biệt số chỉ tiêu về dịch vụ: Vận tải, bưu điện, điện
nước, y tế, giáo dục đào tạo, dịch vụ pháp lý, vệ sinh môi trường … Vì vậy,
phải tiến hành điều tra để tính toán chính xác đầy đủ chi phí trung gian cho

hoạt động sản xuất của thành phần kinh tế này.
- Những sản phẩm vật chất và dịch vụ tính vào chi phí trung gian phải là
kết quả sản xuất, do các ngành sản xuất trong năm hoặc sản xuất năm trước
chuyển qua sử dụng hoặc nhập khẩu từ nước ngoài. Những sản phẩm không
phải là kết quả sảnũút mà sử dụng tự nhiên như ánh sáng mặt trời, nước tự
nhiên không tính vào chi phí trung gian.
4. Phương pháp tính IC
Chi phí trung gian cũng được tính cho từng ngành kinh tế, thành phần
kinh tế tổng hợp cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
III. Giá trị tăng thêm (VA)
1. Khái niệm
Giá trị tăng thêm của toàn bộ hoạt động kinh tế của một quốc gia là toàn
bộ giá trị các sản phẩm vật chất và dịch vụ được các ngành sản xuất sáng tạo
thêm trên lãnh thổ kinh tế trong thời kỳ sản xuất.
2. Nội dung
Theo khái niệm thì giá trị tăng thêm sẽ bao gồm: khấu hao tài sản cố
định (C1), thù lao lao động (V), thặng dư sản xuất (M) của một ngành kinh tế.
3. Nguyên tắc tính
- Tính theo lãnh thổ kinh tế (đơn vị thường trú)
- Tính theo giá trị sản xuất
4. Phương pháp tính
Có 2 phương pháp tính VA
* Phương pháp sản xuất
Giá trị tăng thêm = Tổng giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
VA = GO - IC
* Phương pháp phân phối
= + + +
Tổng thu nhập lần đầu (∑TW1)
- Thu nhập lần đầu của người lao động gồm:
+ Tiền lương và các khoản có tín chất lương

+ Trả công lao động (bằng tiền và bằng hiện vật) trong kinh tế tập thể.
+ Trích bảo hiểm xã hội
+ Thu nhập khác (ăn trưa, ca ba, phụ cấp độc hại, phụ cấp đi đường, lưu
trú trong công tác phí, phong bao hội nghị, trang bị bảo hộ lao động…)
+ Thu nhập hỗn hợp trong kinh tế phụ và kinh tế cá thể.
- Thu nhập lần đầu của các đơn vị kinh tế (thặng dư sản xuất)
+ Lợi tức với sản xuất đóng góp
+ Lợi tức về thuê đất đai, vùng trời, vùng biển phục vụ sản xuất
+ Lợi tức kinh doanh
+ Khấu hao TSCĐ để lại doanh nghiệp
+ Trả lãi đi vay
- Thu nhập lần đầu của nhà nước gồm:
+ Thuế gián thu
+ Khấu hao TSCĐ nộp ngân sách
Thuế gián thu bao gồm: thuế sản xuất và hàng hoá gồm thuế doanh thu,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhà đất, thuế tài nguyên, thuế vốn…
B. Phương pháp luận tính toán, các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí
trung gian, giá trị tăng thêm ngành xây dựng
I. Giá trị sản xuất xây dựng
1. Khái niệm
- Giá trị sản xuất xây dựng là kết quả sản xuất, kinh doanh về hoạt động
xây dựng tính bằng tiền mà các đơn vị xây dựng thu được trong một thời kỳ
nhất định.
Giá trị sản xuất xây dựng là giá trị các sản phẩm xây dựng bao gồm giá
trị công tác xây dựng các công trình, giá trị sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến
trúc, lắp đặt thiết bị máy móc vào công trình, cho thuê phương tiện xe máy thì
cũng có người điều khiển đi kèm.
Giá trị sản xuất xây dựng được tính cả phần giá trị nguyên vật liệu do
bên giao thầu (bên A) đưa tới sử dụng vào công trình nhưng không tính phần
giá trị bản thân thiết bị máy móc lắp đặt vào công trình.

Ngoài ra, giá trị sản xuất xây dựng còn được tính cả phần tiền chênh lệch
do tổng thầu thu được của các đơn vị chưa chia thầu khác và những khoản thu
được của các đơn vị chia thầu khác và những khoản thu được do bán phế liệu,
phế thải trong sản xuất xây dựng đã loại ra.
+ Giá trị sản xuất xây lắp: là bộ phận chính chủ yếu trong giá trị sản xuất
xây dựng. Giá trị sản xuất xây lắp khác với giá trị sản xuất xây dựng là không
tính phần giá trị chênh lệch do làm tổng thầu và giá trị thu được do bán phế
liệu, phế thải của công trình xây dựng tạo ra.
2. Ý nghĩa của chỉ tiêu giá trị sản xuất xây dựng
Chỉ tiêu giá trị sản xuất xây dựng xác định toàn bộ kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh xây dựng của một thời kỳ, không phụ thuộc vào mức độ
hoàn thành của sản phẩm.
Nó là cơ sở để lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch lao động, vật tư, đồng
thời để kiểm tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất của đơn vị qua các thời kỳ.
Nó còn được sử dụng để tính các chỉ tiêu tiến độ sản xuất, hiệu quả sản
xuất (năng suất lao động), hiệu quả sử dụng vốn…
3. Các nguyên tắc tính chỉ tiêu giá trị sản xuất xây dựng
3.1. Những sản phẩm để tính giá trị sản xuất xây dựng phải do lao động
của chính đơn vị tạo ra tại hiện trường, những vật tư mua về chưa sử dụng vào
sản xuất, vật tư mua về đem bán cho đơn vị khác, giá trị thiết bị máy móc do
bên A đưa tới để lắp đặt vào công trình đều không được tính vào giá trị sản
xuất xây dựng.
3.2. Phải là kết quả trực tiếp của hoạt động sản xuất xây lắp bao gồm
thành quả của công tác xây dựng, công tác lắp đặt thiết bị máy móc, công tác
sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc, bao gồm cả công tác khảo sát thiết kế
phát sinh trong quá trình thi công.
3.3. Phải là kết quả hoạt động sản xuất theo đúng thiết kế, đúng quy
trình công nghệ xây lắp trong hợp đồng giao nhận thầu, có nghĩa là không
được tính khối lượng công việc làm ngoài thiết kế quy định hoặc không có
trong hợp đồng.

3.4. Phải là kết quả hữu ích của sản xuất xây lắp, có nghĩa là không tính
vào giá trị sản xuất xây dựng những khối lượng công trình phải phá đi, những
chi phí sửa chữa lại các công trình hưu hỏng do không đảm bảo lượng theo
yêu cầu thiết kế của bên thi công gây ra.
3.5. Chi tích kết quả xây lắp đã thực hiện trong báo cáo, không tính
khối lượng thi công kỳ trước chuyển sang hoặc không chuyển khối lượng thi
công kỳ này sang kỳ sau. Đối với những khối lượng thi công dở dang thì tính
vào giá trị sản xuất xây dựng phần giá trị chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ.
3.6. Được tính toàn bộ giá trị của sản phẩm xây dựng vào giá trị sản
xuất xây dựng, gồm cả C + V + m, có nghĩa là nhân khối lượng liệu với đơn
giá dự toán hợp đồng và cộng thêm phụ phí và lãi định mức.
Công thức tính giá trị sản xuất xây dựng phần xây lắp.
Q = Σqp + F + L.
Trong đó:
Q - Giá trị sản xuất xây dựng.
q - Khối lượng sản phẩm, công việc thi công thực hiện
p - đơn giá dự toán hợp đồng từng sản phẩm, công việc.
F - Tổng phụ phí.
L - Tổng lãi định mức.
4. Nội dung công tác tính giá trị sản xuất xây dựng
Nội dung chỉ tiêu giá trị sản xuất xây dựng băng hình các giá trị công
tác cao:
- Giá trị công tác xây dựng.
- Giá trị công tác lắp đặt thiết bị máy móc.
- Giá trị công tác sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc.
- Giá trị công tác thăm dò, khảo sát, thiết kế phát sinh trong quá trình
thi công.
- Giá trị công tác xây dựng cơ bản khác và các khoản thu khác được
tính vào giá trị xây dựng.
Cộng giá trị tất cả các loại công tác này lại ta được giá trị sản xuất xây

dựng của đơn vị.
4.1. Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác xây dựng.
Công tác xây dựng gồm xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo, mở rộng,
hiện đại hoá công trình xây dựng.
Giá trị sản xuất công tác xây dựng được tính là chi phí trực tiếp và giá
tiếp theo đơn giá dự toán hợp đồng, cho từng công trình, hạng mục công trình
đã hoàn thành (thành phẩm) và giá trị khối lượng sản phẩm xây dựng dở
dang.
Công thức tính
Q = Σ pq + F + L.
Khi tính giá trị khối lượng sản phẩm xây dựng dở dang (gồm khối
lượng thi công xong và khối lượng thi công dở dang) cần chú ý:
+ Đối với khối lượng thi công xong đến phần cuối cùng của đơn giá dự
toán, đến điểm dừng kỹ thuật hoặc đến giai đoạn quy ước (như đổ bê tông
xong, trát tường xong, xây tường xong ) thì chỉ canà lấy khối lượng từng
phần việc nhân với giá dự toán, sau đó cộng thêm phụ phí (chi phí chung) và
lãi định mức theo quy định.
+ Đối với khối lượng thi công dở dang chưa tới phần việc cuối cùng
của đơn giá dự toán, chưa tới giai đoạn quy ước, thì lấy khối lượng liệu vật
tựhc hiện được nhân với đơn giá dự toán phân đoạn (như đơn giá buộc 1 kg
cốt thép, ghiép 1m
2
cốp pha ). Nếu không có đơn giá dự toán phân đoạn thì
lấy khối lượng thi công dở dang ở từng giai đoạn công việc nhân với tỷ trọng
(%) thời gian lao động hao phí của từng giai đoạn (động tác) chiếm trong tổng
số thời gian hao phí của toàn bộ các giai đoạn (động tác) của khối lượng công
việc đó (tính theo thời gian hao phí định mức của công việc) để quy về khối
lượng thi công xong phương pháp này là quy đổi khối lượng thi công dở dang
về khối lượng thủ công xong theo định mức thời gian lao động hao phí. Công
thức tính là:

Qdd = Σ qp’ hoặc Qdd = (Σqh) p.
Trong đó:
Qdd - giá trị sản xuất xây dựng của khối lượng thi công dở dang
q - khối lượng công tác thi công dở dang theo từng giai đoạn công
việc.
h - tỷ trọng thời gian lao động hao phí của từng giai đoạn so với cả
công việc.
p - đơn giá dự toán công việc.
P’ - đơn giá phân đoạn của từng giai đoạn công việc.
Như vậy số chênh lệch cuối kỳ với đầu kỳ của giá trị khối lượng sản
phẩm xây dựng dở dang (gồm khối lương thi công sau tới giai đoạn qui ước
và tính khối lượng thi công dở dang) cộng với giá trị sản xuất các công trình
hoàn thành (thành phẩm) đựoc giá trị sản xuất công tác xây dựng.
Chú ý: Đối với công trình, hạng mục công trình hoàn thành do bên A
cấp một phần hay toàn bộ nguyên vật liệu, đơn vị xây lắp vẫn được tính toàn
bộ giá tị sản phẩm theo đơn giá dự toán vào giá trị sản xuất xây dựng, không
phải loại trừ giá trị nguyên liệu đó.
4.2. Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác lắp đặt thiết bị máy
móc.
Công tác lắp đặt thiết bị máy móc là quá trình lắp đặt thiết bị máy móc
trên nền hoặc bệ máy cố định để máy và thiết bị có thể hoạt động được,
nhưng không bao gồm công tác lắp đặt các thiết bị là một bộ phận kết cấu cảu
nhà cửa, vật kiến trúc như lắp hệ thống thông gió, hệ thống lò hơi, hệ thống
thắp sáng sinh hoạt Vì đã tính phần giá trị công tác xây dựng rồi.
Khác với sản xuất xây dựng, công tác lắp đặt máy không làm thay đổi
tượng cầu lắp và không tạo ra sản phẩm mới mà chỉ làm tăng giá tị sản phẩm
đã có, tạo điều kiện cho máy móc thiết bị phát huy tác dụng, công dùng sử
dụng theo đúng chức năng của nó.
Nội dung công tác lắp đặt thiết bị máy móc bao gồm từ việc chuẩn hệ
lắp đến việc chạy thử máy để xác định chất lượng lắp đặt và các công việc

khác có liên quan.
Trong thực tế thì theo tính chất công việc thì công việc lắp máy có tính
chất công nghiệp cho nên người ta quy định nếu công tác lắp đặt máy do công
nhân công nghiệp thực hiện thì tính là sản phẩm ngành công nghiệp. Nếu do
công nhân xây lắp thực hiện thì tính công việc là của ngành xây dựng.
Khối lượng công tác lắp máy kỳ báo cáo gồm khối lượng công tác lắp
đặt máy xong và khối lượng lắp máy dở dang cách tính giá trị sản xuất công
tác lắp máy cũng gần giống như cách tính ở phần xây dựng, chỉ khác nhau cơ
bản ở chỗ giá trị sản xuất lắp đặt máy không được tính giá trị bán khâu thiết bị
máy móc cần lắp.
+ Đối với khối lượng lắp máy xong, giá trị sản xuất công tác lắp máy là
khối lượng của các đối tượng đã được thi công hoàn chỉnh theo đúng hợp
đồng thiết kế quy đinh, đã lắp đặt tới giai đoạn nhất định hoặc điểm dừng kỹ
thuật, được bên A nghiệm thu chấp nhận thanh toán.
Công thức tính .
MP = (MxP + F + L.
Trong đó:
MP - giá trị dự toán công tác lắp máy xong.
M - số tấn máy lắp xong từng bước quy đổi thành tấn máy lắp xong
toàn bộ và được tính toán như sau:
M = Σ (m x tm)
m - số tấn máy lắp trong từng động tác.
tm - tỷ trọng thời gian lắp xong từng động tác co một tấn máy trong
tổng số thời gian lắp xong một tấn máy theo định mức.
p - đơn giá dự toán lắp.
F - tổng phụ phí (chi phí chung) được tính.
L - tổng số lãi định mức tính.
+ Đối với khối lượng lắp máy dở dang.
Giá trị sản xuất công tác lắp máy là những khối lượng công tác lắp máy
chưa xong ở từng động tác, bên A chưa nghiệm thu và chưa chấp nhận thanh

toán, thì phải đổi về tấn máy lắp xong; căn cứ vào định mức thời gian lắp
xong từng động tác cho một tấn máy, định mức thời gian lắp xong cho toàn
bộ một tấn máy và tỉ lệ hoàn thành trong từng động tác theo định mức kỹ
thuật để tính đổi.
Công thức tính đổi.
Mdc = Σ (m
dc
x t
m
x t
h
)
Trong đó:
M
dc
: số tấn máy lắp dở dang từng động tác quy đổi vế số tấn máy lắp
xong toàn bộ.
m
dc
- số tấn máy lắp dở dang từng động tác.
thương mại tỷ trọng thời gian lắp xong từng động tác cho một tấn máy
chiếm trong tổng số thời gian lắp xong toàn bộ theho định mức.
t
n
- tỷ lệ % hoàn thành trong từng động tác.
4.3. Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác sửa chữa lớn nhà cửa,
vật kiến thức.
Sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến thức là dùng cấu kiện phụ tùng để thay
thế nhữgn bộ phận cũ đã bị hao mòn hư hỏng; có nghĩa là phục hồi lại hình
thái ban đầu của nhà cửa, vật kiến trúc, đảm bảo cho nó phát huy tác dụng

một caách bình thường.
Khi tính giá trị sản xuất công tác sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc
phải tính theo đơn giá dự toán, áp dụng công thức chung như đã nói trên.
Q = Σpq + F + L.
Những công việc nào chưa có đơn giá dự toán thì tính theo phương
pháp thực chi, thực thanh, nhưng phải được bên A giám sát chặt chẽ và xác
nhận để thanh toán và tránh chi tiêu lãnh phí.
4.4. Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác thăm dò khảo sát thiết
kế phát sinh trong quá trình thi công.
Đây là công tác có liên quan đến đối tượng xâyd ựng xảy ra trong quá
trình thi công do công nhân của đơn vị xây lắp tiến hành, được sự thoả thuận
theo hợp đồng ký kết giữa hai bên A và B và theo thủ tục nghiệm thu thanh
toán.
Khi tính giá trị công tác thăm dò khảo sát phát sinh trong quá trình thi
công, chỉ được tính khối lượng công việc đã hoàn thành, không tính khối
lượng dở dang và tính theo giá đã thoả thuận tỏng hợp đồng ký kết giữa bên A
và bên B.
4.5. Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác xây dựng cơ bản khác
và các khoản chi khác được tính vào giá trị sản xuất xây dựng.
Đây là khối lượng công tác xây lắp khác và những khoản thu khác, theo
quy định được tính vào giá trị sản xuất xây dựng nhưng chưa đề cập tới các
phương pháp nói trên.
Những khoản nào đã có giá dự toán, đã có ghi trong các văn bản hợp
đồng, biên bản xác nhận bổ sung, thì lấy theo giá đã ghi; những khoản chưa
có giá dự toán, thì tính theo giá thực tế chi phí, những phải có xác nhận của
bên A. Đặc biệt các khoản thu được như chênh lệhc do làm tổng thầu, thu do
cho thuê phương tiện máy móc và người điều khiển đi kèm, thu do bán phế
liệu, phế phẩm của sản xuất xây dựng thải ra, đều tính theo các chứng từ
thanh toán thực tế và đã thu tiền vừ đơn vị.
5. Phương pháp tính giá trị sản xuất xây dựng có 2 phương pháp để tính

giá trị sản xuất ngành xây dựng
* Phương pháp 1
Giá trị sản xuất ngành xây dựng bằng tổng các yếu tố sau.
- Doanh thu thuần về sản xuất chính.
- Cộng (+) thuế doanh thu phải nộp
- Cộng (+) số dư cuối kỳ về sản phẩm dở dang, chi phí xây lắp và swar
chữa dở dang.
- Trừ (-) số dư đầu kỳ về sản phẩm dở dang và chi phí về xây lắp và sửa
chữa lớn dở dang.
- Cộng (+) doanh thu về bán phế liệu thu hồi được trong quá trình sản
xuất.
- Công (+) doanh thu các hoạt động sản xuất phụ khác của đơn vị
không có đủ cơ sở thông tin để tach riêng đưa về các ngành thích hợp.
* Phương pháp hai.
Giá trị sản xuất ngnàh xây dựng bằng:
- Chi phí sản xuất theo yếu tố thực hiện trong năm về hoạt động xây
dựng, lắp đặt và sửa chữa lớn nhà cửa, mặt kiến trúc.
- Cộng (+) thuế doanh thu phải nộp.
- Cộng (+) lợi tức từ hoạt động kinh doanh của các hoạt động trên.
- Cộng (+) doanh thu về cho thuê máy móc, thiết bị có người điều khiển
kèm theo dùng cho xây lắp và sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc.
- Cộng (+) doanh thu về bán phế liệu, phế phẩm thu được trong quá
trình sản xuất.
- Cộng (+) doanh thu từ hoạt động sản xuất phụ khác đơn vị không có
đủ cơ sở thông tin để tách riêng đưa về các ngành thích hợp.
6. Nguồn thông tin và phương pháp tính
Trên cơ sở hai phương pháp trên, căn cứ vào nguồn thông tin thực tế ta
có thể vận dụng để tính giá trị sản xuất cho các hình thức xây dựng và lắp đặt
của các thành phần kinh tế như sau.
a. Đối với các dn xây lắp và sửa chữa lớn nhận thầu và các dn chuyên

thi công cơ giới phục vụ.
Cho xây dựng, chủ yếu áp dụng phương pháp thứ nhất trong đó cần chú
ý.
- Doanh thu sản xuất chính là doanh thu về xây dựng lắp đặt, sửa chữa
nhà cửa, vật kiến trúc, tuỳ theo nhiệm vụ chính của từng đơn vị.
Số liệu lắp trong biểu “kết quả sản xuất - kinh doanh” trong hệ thống
báo cáo quyết toán ban hành theo quyết định số 114/TC - CĐKT của Bộ Tài
chính.
- Cố một số đơn vị (chủ yếu thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh) t hực hiện thi công mang tính chất gia công, trong đó toàn bộ hoặc
một phần nguyên, vật liệudo chủ đầu tư bảo đảm đưa đến chân công trình,
đơn vị nhận thành chủ thi công theo yêu cầu của chủ đầu tư. Doanh thu của
đơn vị chưa bao gồm giá trị nguyên vật liệu. Trong trường hợp này cần phải
thông qua chủ đầu tư hoặc qua định mức được thoả thuận tính bổ sung phần
giá trị nguyên vật liệu trên vào doanh thu cho đủ giá trị của công trình.
- Chỉ tiêu số dư đầu kỳ và cuối kỳ về sản phẩm dở dang, chi phí về xây
lắp và sửa chữa lớn dở dang bao gồm cả giá trị các công trình đã hoàn thành

×