Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng của những bậc tiền bối.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.51 KB, 22 trang )

TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN”
MỞ BÀI:
Tư tưởng “Thân dân” là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát
triển xuyên suốt chiều dài lịch sử của nước ta. Trước hết chúng ta cần hiểu rõ
tư tưởng ”Thân dân” là gì? “Thân dân” có nghĩa là gần gũi, gắn bó với nhân
dân, Nhà nước lấy dân làm gốc, phải biết tin tưởng vào dân, dựa vào dân để
xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời cũng phải biết quan tâm đến đời
sống nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân thì nhân dân mới tin
tưởng và ủng hộ.
NỘI DUNG:
1) Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng
của những bậc tiền bối:
Tư tưởng “Thân dân” đã được hình thành từ các triều đại phong kiến,
tiêu biểu nhất là tư tưởng của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi- những bậc danh
nhân đại tài của dân tộc. Trần Hưng Đạo đã thể hiện tư tưởng này qua câu nói
của ông vào tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm,
hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì
kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức
Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã,
đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản
binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng
người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy
yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được
quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa
giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em
hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái,
nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là
sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì
thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì
phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo


thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.". Ông
đã biết coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước,
đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người có thể nhận
ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là cỏ dại: “thảo dân”.
Tư tưởng “Thân dân” còn được Nguyễn Trãi thể hiện rõ nét hơn nữa
qua tư tưởng nhân nghĩa của mình. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là
một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Nhân nghĩa là
thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân
1
nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở
rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương
pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà
chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ
“nghĩa” là 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến
140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ
thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn
mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng
nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với
tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao
hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt
với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân
nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát,
đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa
chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi
đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là
phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức

lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời,
thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại
nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần
phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa
giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã
mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang
đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây,
có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng
nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết
biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão
lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn
năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử…
đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc
sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào
thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ
dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý –
Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp
thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An
dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối
với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên
bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an
dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân
2
nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước.
Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước
phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có
tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi,
đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc

tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã
giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận
thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân;
rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của
nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của
quân dân”(4). Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong
triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân
dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông
viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi
đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó,
ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được
nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân
dân trong sáng tạo lịch sử.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa,
đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền,
bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: “thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn
trị chung tu chí thái bình” (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn,
nước trị bình) (5); “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà
phỉ sở nguyền”(6). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là
đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên
vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn
Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao
nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của
Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp
nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp
xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy
hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh
của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra,

đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở
đời vốn không ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách
như học hành thi cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam
phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã,
bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì…
tùy tài trao chức”; hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng
quân nhỏ”, “người hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự
3
mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn
Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân
tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn
Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm
vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ
khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ
chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia. Không chỉ có ý
nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tạo
nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
2) “Thân dân” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh:
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ
dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân
dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người
có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng
lên trên hết, là thân dân.

Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc
của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên,
do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã
cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn
mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng
là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá.
Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là
lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu
không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính
phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Nước lấy dân làm gốc;
Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất
tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn
lần dân liệu cũng xong.”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”. Sự đoàn kết của nhân dân là lực lượng vô địch, dân khí mạnh
thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi. “Sự đồng tâm của
đồng bào đúc thành một bức tượng đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung
tàn xảo quyệt đến mức nào đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải
thất bại.”.
4
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải
tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức
mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên
“phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt

phải có nhiệt thành, có quyết tâm”.
Hồ Chí Minh cho rằng phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh
thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa
vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của Người là: “Nếu Chính phủ
sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”. Và người yêu cầu:
“Người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân
theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung;
nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo
việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại,
không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn
ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải
thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân.
Người thường nhắc tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”,
“dân dĩ thực vi thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân
không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Đến khi Người qua đời, trong Di
chúc Người để lại cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trước khi về cõi vĩnh
hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Ðảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân". Một câu ngắn gọn, nhưng đã khái quát rất rõ mục đích cao nhất của sự
nghiệp cách mạng là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân,
đồng thời đó cũng là lời căn dặn tâm huyết của Người đối với toàn Ðảng và
cũng là một trong những nội dung quan trọng nhất.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn luôn
nhằm một mục đích: Giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, phấn
đấu mang lại ấm no, hạnh phúc cho mỗi con người, trước hết là nhân dân lao

động. Ðó cũng chính là quan điểm nhất quán trong tư tưởng và hành động của
Người. Quan điểm nói trên của Người thể hiện những nội dung sau:
a) Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng:
5
Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước giành được độc lập.
Nhưng những hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề.
Ðất nước bị tàn phá, nhân dân sống trong cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi
sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới như một
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới là phải chăm lo đời sống của
nhân dân.
Theo Người, độc lập, thống nhất của Tổ quốc không thể tách rời tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Người nói: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy, ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đề
ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước
mắt của nhân dân là chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác;
xóa bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo
đoàn kết... Ðể thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, Người viết Thư gửi đồng bào
toàn quốc ra sức cứu đói, Hô hào nhân dân chống nạn đói, "coi cuộc chống
nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm". Trong thư Gửi nông gia Việt Nam,
Người khẩn thiết kêu gọi: "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng
gia sản xuất nữa!... Ðó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự
do, độc lập". Ðể cứu nhân dân khỏi nạn đói đang trầm trọng Người đề nghị
đồng bào cả nước và bản thân Người đã gương mẫu thực hiện trước: "Cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ)
để cứu dân nghèo". Nhờ những biện pháp tích cực nói trên, chỉ trong một thời
gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói.
Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu
tăng lên, nhờ đó, nạn đói đã sớm được khắc phục.

Cùng với chiến dịch diệt giặc đói, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được
phát động. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những người
đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng
bảo,... cha mẹ không biết thì con bảo", một phong trào thanh toán nạn mù chữ
đã dâng cao trong cả nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn hai triệu người
đã biết đọc, biết viết. Công tác văn hóa, giáo dục, y tế cũng được chính quyền
mới quan tâm đẩy mạnh. Tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được khẳng
định và phát huy.
Ðể thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến,
thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do,
dân chủ khác của nhân dân. Ðồng thời, Người cũng bắt tay ngay vào việc
chấn chỉnh bộ máy chính quyền các cấp, làm cho nó thể hiện được bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội mới. Người viết Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng, nhắc nhở "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho
đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của
Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta
6
phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta".
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Bộ trưởng Bộ Tài chính của Chính phủ lâm thời đã ra Nghị quyết giảm
25% thuế điền cho nông dân, các địa phương bị lụt được miễn thuế điền.
Ngày 20-11-1945, Chính phủ lâm thời ra thông cáo cho các điền chủ, tá điền
và nông dân quy định các điền chủ phải giảm tô 25% cho tá điền, cho tá điền
hoãn nợ và bỏ những địa tô phụ. Trong những năm kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, khi chưa có điều kiện giải quyết ruộng đất cho nông dân,
Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời ban hành nhiều chính sách nhằm
từng bước mang lại quyền lợi dân chủ cho nhân dân trước hết là nông dân.

Khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện đất
nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc
chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng
của đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước ta. Ðiều đó được thể hiện
ngay trong quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội. Người nói: "Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (ví dụ: lấy vợ, lấy chồng
sớm quá, cúng bái, liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội".
b) Mọi chính sách của Ðảng và Nhà nước đều phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân:
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng các chính sách kinh tế. Các chính sách kinh tế phải luôn
luôn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con
người. Theo Người, việc đề ra các chính sách xã hội đúng đắn và thực thi
chúng có hiệu quả sẽ trở thành một động lực to lớn, đoàn kết được toàn dân
tộc, ổn định vững chắc xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần, tài
năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân. Kết quả của những chính sách xã
hội đó cũng sẽ là cơ sở vững chắc ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và
thủ đoạn chống phá của bọn đế quốc và phản động.
Người xác định trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Ngay từ những ngày đầu
tiên sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ rõ, "Chính phủ ta đã hứa với
dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết
nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một
năm mà làm được hết. Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng
phương châm... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân,
ta phải hết sức tránh".
Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là

người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác
lợi ích của nhân dân. Vì vậy cán bộ Ðảng và chính quyền từ trên xuống dưới,
7
đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức,
giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những
chính sách của Ðảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói,
rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được.
c) Ðảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã
hội dễ bị tổn thương nhất:
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc các tầng
lớp nhân dân. Nhưng đối tượng mà Người dành sự quan tâm đặc biệt là:
"những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ,
binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong)...". Trong Di chúc, Người
căn dặn Ðảng, Chính phủ phải chăm lo đến những quyền lợi thiết thực nhất
của những người ấy, phải tạo điều kiện cho họ "có nơi ăn chốn ở yên ổn đồng
thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người...".
Ðối với những liệt sĩ đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc, Người căn dặn
chúng ta phải xây vườn hoa và bia tưởng niệm để đời đời biết ơn và giáo dục
lòng yêu nước cho các thế hệ sau. "Ðối với cha mẹ, vợ con (của thương binh
và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương
(nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp
đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các lực lượng trẻ đi đầu
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người căn
dặn: "Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học
thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ
thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Ðó là đội quân chủ
lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Ðánh giá rất cao sự đóng góp của phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc và luôn quan tâm đến quyền bình đẳng thực sự của phụ nữ,

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo...".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu rất rõ sự hy sinh,
chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân
đàn áp, bóc lột, hàng mấy chục năm chiến tranh nên Người không chỉ căn dặn
phải chăm lo nâng cao đời sống chung chung mà Bác còn muốn một điều thật
cụ thể và thiết thực là "miễn thuế nông nghiệp một năm". Người hiểu rất rõ
rằng, đối với nông dân, một năm thuế nông nghiệp là quá nhỏ bé so với tất cả
những gì mà họ đã đóng góp mấy chục năm qua cho kháng chiến nhưng nếu
được miễn chắc chắn sẽ là niềm vui lớn nhất của mỗi gia đình. Người muốn
đem đến cho nông dân những hạt thóc, củ khoai để họ có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc thật sự - chứ không phải là những lời động viên, ca ngợi hoa mỹ.
Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào
thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm liên tục đã ra sức
8

×