Tải bản đầy đủ (.ppt) (20 trang)

Viêm dạ dày - hình thái tổn thương, bệnh nguyên, bệnh sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.88 KB, 20 trang )

Viêm dạ dày
Thạc sĩ: Trần Ngọc Minh
Mục tiêu
1. Mô tả được các hình thái tổn thương của bệnh
viêm dạ dày.
2. Trình bày được những nét cơ bản bệnh nguyên,
bệnh sinh của viêm dạ dày.
Viêm dạ dày cấp
ĐỊNH NGHĨA:
Viêm dạ dày cấp là một quá trình viêm niêm mạc
cấp tính, thường là một trạng thái nhất thời, có
đặc tính khởi phát bất ngờ, diễn biến nhanh. Viêm
có thể phối hợp với chảy máu ở niêm mạc, trong
những trường hợp nặng hơn có sự long tróc biểu
mô bề mặt. Dạng trợt sướt này là một nguyên
nhân quan trọng của sự xuất huyết tiêu hoá.
Bệnh nguyên bệnh sinh

Dùng nhiều thuốc kháng viêm không steroid, đặc biệt là
aspirin.

Uống quá nhiều rượu, hút thuốc lá nhiều.

ăn chất nóng, lạnh, cay, rắn khó tiêu

Các strees mạnh (chấn thương, bỏng )

Tăng urê huyết

Điều trị ung thư bằng các thuốc hoá trị liệu.


Nhiễm khuẩn toàn thân (cúm, sởi, viêm phổi, thương
hàn )

Sau cắt đoạn dạ dày

Tự tử bằng acid, kiềm.
Hình thái học

Mức độ nhẹ: viêm thanh dịch, viêm tơ huyết. Niêm mạc
dạ dày, phù nề, sung huyết, bề mặt có phủ lớp chất nhầy
dày hoặc lớp tơ huyết màu xám hay nâu xám.

Mức độ nặng: viêm trợt, xuất huyết. Niêm mạc dạ dày,
các nếp thô to, rỉ tiết dịch mủ lẫn fibrin, có các vùng trợt
và xuất huyết. Vết trợt có thể nhỏ hoặc lớn, rải rác ở niêm
mạc. Xuất huyết có thể xảy ra riêng lẻ tạo nên những đám
đen nhỏ trên niêm mạc xung huyết hoặc phối hợp với
trợt.
Vi thể

Mức độ nhẹ:
- BM bề mặt còn nguyên vẹn, tế bào tăng chế nhầy, có thoái hoá
loạn dưỡng hoặc mất màng đỉnh.
- Các tuyến không có sự thay đổi, hoặc thay đổi ít.
- Lớp đệm phù vừa phải, sung huyết nhẹ/vừa, xâm nhập
BCĐNTT vừa.

Mức độ nặng:
- BM bề mặt thoái hoá trợt, long tạo nên sự khuyết lõm, BM
tuyến bị thoái hoá loạn dưỡng hoặc long vào trong lòng tuyến.

- Mô đệm phù nề, sung huyết nặng, chảy máu, xâm nhập viêm
nặng. Nhiều BCĐN phân tán hoặc thành đám, xâm nhập vào giữa
TBBM phủ, tuyến và trong lòng tuyến. TB viêm có thể xâm nhập
toàn bộ chiều dày của niêm mạc tới cơ niêm.
Viêm dạ dày mạn tính

Viêm dạ dày mạn là một chẩn đoán mô học không phải
là một thực thể lâm sàng có thể nhận biết.

Viêm dạ dày mạn là một bệnh tiến triển với biến đổi
biểu mô và sự mất dần các tuyến của niêm mạc ở thân
vị, hang vị. Sự biến đổi biểu mô có thể dẫn tới dị sản,
loạn sản.

Bệnh tiến triển qua những đợt tái phát nối tiếp nhau có
những giai đoạn kém hoạt động và những giai đoạn hoạt
động mạnh. Trong trường hợp như vậy người ta không
dùng danh từ viêm dạ dày bán cấp.
Bệnh nguyên bệnh sinh

Do nguyên nhân miễn dịch, kết hợp với thiếu máu ác tính
(KT chống tế bào thành kháng lại enzym sản xuất acid
HCl, H+, K+ - ATPase làm mất khả năng sản xuất HCl và
yếu tố nội sẽ dẫn tới thiếu máu ác tính)

Nhiễm khuẩn mạn tính đặc biệt là Helicobacter Pylori

Nhiễm độc như đối với người nghiện rượu, thuốc lá

Sau phẫu thuật nối dạ dày ruột với sự trào ngược của dich

mật từ tá tràng lên

Các trạng thái khác: giảm trương lực dạ dày, thiểu năng
tuần hoàn, giảm oxy, urê cao, rối loạn nội tiết tố
Hình thái học

Đại thể
1990 Hội nghị Quốc tế về tiêu hoá ở Sydney Australia
- Viêm phù nề, sung huyết : NM mất tính nhẵn bóng, hơi lần sần,
sung huyết, dễ chảy máu.
- Viêm trợt phẳng : NM nhiều điểm trợt nông, có giả mạc bám
hoặc trợt nông.
- Viêm trợt lồi: có những nốt nổi gồ lên trên bề mặt NM, đỉnh hơi
lõm xuống trông giống như nốt đậu mùa
- Viêm chảy máu : có chấm hoặc đám suất huyết trên bề mặt NM
hoặc bầm tím do chảy máu trong NM.
- Phì đại nếp niêm mạc : NM mất tính nhẵn bóng, nổi gồ lên và
không xẹp xuống khi bơm hơi.
- Teo niêm mạc : các nếp NM teo và mỏng, nhìn thấy các mạch
máu ở NM.
- Viêm trào ngược dịch mật : NM phù nề, sung huyết có nhiều
dịch mật trong dạ dày.
Phân loại mô bệnh học
Phân loại thành 4 giai đoạn của Whitehead R (1985)

Viêm mạn nông
TBBM bề mặt loạn dưỡng hoặc long từng chỗ, khe
tuyến kéo dài, các tuyến không có sự thay đổi. Tế bào
viêm xâm nhập ở 1/3 trên của niêm mạc không vượt quá
vùng khe.


Viêm mạn teo nhẹ
Giống viêm mạn nông + tổn thương tế bào tuyến,
giảm thể tích tuyến nhưng ít. Tế bào chính, tế bào thành
có thể bị hốc hoá, hoại tử hoặc bị tiêu. Mô đệm xâm nhập
lympho, tương bào.Khi phối hợp với xâm nhập viêm
dưới dạng những nang lympho lại có tên là viêm dạ dày
thể nang (gastrite folliculaire).

Viêm mạn teo vừa
Trung gian giữa viêm teo nhẹ và nặng. NM mỏng do
teo tuyến. Mô liên kết tăng sinh ở nơi tuyến bị teo làm
cho khoảng cách các tuyến còn lại trở nên xa nhau xâm
nhập nhiều lympho, tương bào, mô bào.

Viêm mạn teo nặng
Giảm nhiều hoặc mất hẳn tổ chức tuyến. Mô đệm
phát triển mạnh, các tuyến còn lại phân bố theo nhóm, có
nơi tế bào tuyến biệt hoá kém. Chiều dày niêm mạc
giảm. Xâm nhập tế bào viêm toàn bộ niêm mạc và đều
có BCĐN ở thể hoạt động. BCĐN phân tán trong mô
đệm, giữa các tế bào BM, các khe và trong lòng tuyến,
mô đệm phù nề, sung huyết.
Căn cứ vào nghiên cứu KT tới tế bào thành và mức
độ hoạt động của tế bào G chế gastrin người ta còn đưa
ra phân loại viêm dạ dày mạn typ A và typ B.
* Typ A: có KT chống tế bào thành, tổn thương biểu
hiện ở thân vị, nên còn gọi là viêm dạ dày teo thân vị lan
toả. Trong typ này sự chế tiết acid HCl giảm và tăng
gastrin máu. Niêm mạc vùng hang vị ít bị biến đổi.

* Typ B: là loại phổ biến hơn, tổn thương khu trú ở hang
vị, không có KT chống tế bào thành, không có gastrin
huyết cao, chế tiết HCl giảm nhẹ, thường liên quan tới
H.Pylori.
* Typ AB: Jerzy Glass và cộng sự (1975) bổ xung thêm
thể tổn thương ở cả thân vị và hang vị có hoặc không có
kháng thể chống tế bào thành (AB+ và AB-)
Tế bào b.m bề mặt thoái hóa trợt long, có t/b viêm
Cổ tuyến dài, số lượng tuyến giảm, khoảng cách tuyến xa nhau
Tế bào viêm nhiều gồm BC đơn nhân và đa nhân( viêm hoạt động )
Dị sản ruột( ,tế bào b/m d.d biến đổi sang tế bào b/m ruột với tế bào
cốc
Loạn sản: tuyến không đều tế bào b.m tuyến tăng sinh kiềm tính, tỉ lệ nhân /
bào tương tăng
Giai đoạn của viêm teo: Operative Link for
Gastritis Assessment (hệ OLGA)

Phân loại này dựa trên trên các típ mô bệnh học từ mức
độ có nguy cơ ung thư thấp nhất đến mức độ có nguy
cơ ung thưc cao nhất (Giai đoạn OLGA I đến giai đoạn
OLGA IV). GĐ của viêm teo là sự kết hợp của mức độ
teo (điểm mô học) với vị trí tổn thương.

Cũng giống như phân loại của Sydney trước đây, hệ
thống OLGA cũng bao gồm thông tin liên quan đến
nguyên nhân gây viêm dạ dày như do HP, viêm dạ dày
tự miễn

Hệ thống OLGA bao gồm ít nhất 5 mẫu sinh thiết
từ 5 vị trí khác nhau là: A1-A2 là bờ cong lớn và

nhỏ của vùng môn vị (biểu mô chế nhày-mucus
secreting mucosa), A3 là vùng góc bờ cong nhỏ
(nơi có biến đổi teo và dị sản vảy sớm nhất), C1-
C2 là thành trước và sau của vùng thân vị (vùng
tế bào tiết acid- oxyntic mucosa. Chữ C xuất phát
từ corpus-thân vị; A xuất phát từ antrum-môn vị).

×