Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tập thở và đánh thức bệnh nhân mỗi ngày giúp đẩy nhanh tốc độ cai máy pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.72 KB, 4 trang )

Tập thở và đánh thức bệnh nhân mỗi ngày giúp
đẩy nhanh tốc độ cai máy
Các nghiên cứu trước đây cho thấy tập tự thở mỗi ngày làm giảm đáng
kể thời gian bệnh nhân thở máy. Tương tự, nhiều nghiên cứu từ trước cũng đã
chứng minh ngưng các thuốc an thần một lần mỗi ngày để bệnh nhân tự thức dậy
cũng làm tăng tốc độ cai máy thở. Hiện nay, theo các dữ liệu báo cáo tại Hội Nghị
Quốc Tế lần 103 của Hiệp Hội Lồng Ngực Hoa Kỳ (ATS), một thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên đa trung tâm cho thấy các bệnh nhân nằm tại ICU được tập tự
thức dậy và tự thở thường qui mỗi ngày sẽ giảm thời gian thở máy trung bình sớm
hơn 4 ngày so với bệnh nhân điều trị bằng phương pháp cho tự thở kèm an thần
theo phác đồ chuẩn.
Theo trưởng nhóm nghiên cứu, giáo sư tiến sĩ Wes Ely - khoa nội trường
đại học Vanderbilt đồng thời là phó giám đốc Trung Tâm Lâm Sàng - Đào Tạo
Nghiên Cứu và Di truyền học ở Nashville, Tennessee – quá trình 2 bước – gồm
đánh thức và sau đó tự thở - cho những kết quả cải thiện ngoạn mục.
Để xác định xem việc kết hợp giữa tự thở và tự thức dậy có làm cải thiện
kết cục lâm sàng so với phương pháp tập thở đơn thuần, bác sĩ Ely cùng đồng sự
lấy ra 335 bệnh nhân trưởng thành nằm tại ICU đang thở máy hơn 12 giờ tại 1
trong 4 bệnh viện. Tiêu chuẩn loại trừ là bệnh nhân đã thở máy nhiều hơn 2 tuần,
đã từng bị ngưng tim phổi, có khiếm khuyết thần kinh nặng hoặc đã tử vong.
Bệnh nhân trong nhóm chứng được cho tập tự thở mỗi ngày. Bệnh nhân
tập tự thở thành công khi độ bão hòa oxy ≥ 88%, FiO2 ≤ 50%, và áp lực dương
cuối kỳ thở ra ≤ 7.5 cm H2O được tiến hành cai máy thở. Các bệnh nhân trong
nhóm thử nghiệm tập tự thức và tự thở được ngưng thuốc an thần và giảm đau mỗi
ngày để họ tỉnh dậy. Nếu bệnh nhân ổn và thấy dễ chịu, tiếp tục ngưng an thần và
cho tập tự thở. Nếu có biểu hiện lo lắng, kích động, suy hô hấp hoặc có stress sinh
lý như loạn nhịp tim cấp, bệnh nhân được dùng an thần lại với liều giảm một nửa
so với trước.
Trong 28 ngày thử nghiệm, 167 bệnh nhân trong nhóm thử nghiệm tập
tự thức- tự thở sống sót và ngưng thở máy với thời gian trung bình là 14.7 ngày
(độ lệch chuẩn SD = 0.9) so với 11.6 (SD=0.9) ngày của nhóm bệnh nhân tập thở


đơn thuần (P=.02). Bệnh nhân trong nhóm tập tự thức- tự thở cũng có nằm trong
ICU ngắn hơn với thời gian trung bình 9.1 ngày (khoảng tứ phân vị IR, 5.1-17.8)
so với nhóm chứng là 12.9 ngày (IR, 6.0 – 24.2; P=.01).
Thời gian nằm viện trung bình cũng ngắn hơn là 14.8 ngày (IR, 8.9-
26.8) trong nhóm tập tự thức và tự thở so với 19.2 ngày của nhóm chứng (P=.04).
Giới hạn trên của IR trong nhóm chứng không rõ do hơn 25% bệnh nhân vẫn còn
nằm viện sau kết thúc 28 ngày thử nghiệm. Giới hạn dưới IR của nhóm chứng là
10.2 ngày.
Có khuynh hướng cải thiện tử suất 28 ngày trong nhóm thử nghiệm, với
28% bệnh nhân tử vong so với 35% của nhóm chứng (P=0.21).
Bệnh nhân trong nhóm thử nghiệm bị hôn mê với thời gian trung bình 2
ngày so với 3 ngày của nhóm chứng (P=.002). Thời gian bệnh nhân mê sảng giữa
hai nhóm không có khác biệt đáng kể với trung bình là 2 ngày (dao động 0-5 ngày
ở nhóm tự thức và tự thở, 0-6 ngày ở nhóm tự thở, P=.50).
“Tôi nghĩ có thể nói chắc chắn rằng bệnh nhân ngày nay được cho an
thần quá mức,” – bác sĩ Ely đã phát biểu tại cuộc họp báo.
Trong số 896 thử nhiệm về phương pháp tập tự thức, 731 bệnh nhân
(81.6%) mở mắt, 106 (11.8%) người dung nạp với phương pháp này trong hơn 4
giờ, và 58 trường hợp (6.5%) thất bại. Lý do chính của thất bại là trạng thái kích
động (4.7%), kế đến là suy hô hấp (2.8%), thở nhanh (2.2%), hạ oxy máu (1.4%),
và loạn nhịp (0.1%).
Bệnh nhân trong nhóm tự thức và tự thở hay tự rút ống nội khí quản hơn
nhóm chứng (10% vs 4%, P=.03), nhưng không có khác biệt trong tỷ lệ đặt lại nội
khí quản (22% vs 23%; P=.72).
“Tôi nghĩ đây là những kết quả hết sức quan trọng và sẽ ảnh hưởng đến
thái độ điều trị trong lĩnh vực này” – một đồng nghiệp không tham gia công trình
nghiên cứu trên, bác sĩ Nicholas Hill, trưởng khoa phổi, hồi sức cấp cứu và gây mê
của trung tâm y khoa Tufts-New England, Boston phát biểu. “Không chắc là mọi
người có quen sử dụng phác đồ an thần dùng trong nghiên cứu này hay không vì
vẫn còn nhiều phản ứng sau khi ngưng thuốc an thần trên bệnh nhân. Tôi nghĩ

trong thực hành cần giảm liều và cho an thần ở mức độ nhất định để giúp bệnh
nhân ổn định nhưng vẫn dễ dàng thức tỉnh”.
Tiến sĩ Ely đồng ý rằng vẫn còn cần thời gian để các bác sĩ ICU có thể
từ bỏ phương pháp an thần truyền thống, không phải là vì vấn đề hoài nghi mà là
do sự bảo thủ. Tuy nhiên , tiến sĩ nói rằng, những dữ liệu này cho thấy quá trình 2
bước tự thức và tự thở có làm cải thiện kết cục bệnh nhân.
Thử nghiệm được trợ giúp bởi Học Viện Sức Khỏe Quốc Gia và Học
Viện Nghiên Cứu St.Thosmas tại Nashville

×