Nghề làm giấy dó truyền
thống ở Việt Nam – phần 1
Theo một thư tịch cổ nước ngoài, nước ta đã có nghề làm
giấy từ thế kỉ III (sau CN). Người Giao Chỉ thời đó đã biết
dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt,
gọi là giấy mật hương. Một tài liệu khác nói rằng: Khoảng
năm 284 các lái buôn La Mã đã mua được hàng vạn tờ giấy
mật hương của ta. Theo sách “Thập dị kí” của Vương Gia
người Trung Quốc (thế kỉ IV) cũng cho biết: người Giao
Chỉ đã biết làm giấy từ rong rêu lấy từ lòng biển, gọi tên là
giấy Trắc Lí
Tranh dân gian Đông Hồ sử dụng giấy dó
1. Lịch sử ra đời và phát triển
Theo một thư tịch cổ nước ngoài, nước ta đã có nghề làm
giấy từ thế kỉ III (sau CN). Người Giao Chỉ thời đó đã biết
dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt,
gọi là giấy mật hương. Một tài liệu khác nói rằng: Khoảng
năm 284 các lái buôn La Mã đã mua được hàng vạn tờ giấy
mật hương của ta. Theo sách “Thập dị kí” của Vương Gia
người Trung Quốc (thế kỉ IV) cũng cho biết: người Giao
Chỉ đã biết làm giấy từ rong rêu lấy từ lòng biển, gọi tên là
giấy Trắc Lí
Khác với phương Tây công nghệ thường phát triển ở các đô
thị sầm uất thì ở Việt Nam các nghề phát triển ở các làng,
sự hình thành của nghề gắn liền với sự tích về ông tổ nghề
và tên tuổi của một làng.
Theo thư tịch cổ, vào thế kỉ XIII ở phía Tây kinh đô Thăng
Long, có một xóm thợ chuyên nghề làm giấy; theo thần phả
còn được lưu giữ tại các đình ở vùng này cho biết, từ thời
Lý, làng Dịch Vọng đã có nhiều gia đình chuyên nghề làm
giấy. Thời đó dòng Tô Lịch còn chảy qua làng, có chiếc
cầu gỗ bắc qua sông, dân làng đặt tên cầu là Cầu Giấy - cầu
của làng có nghề làm giấy, để ghi nhớ nghề nghiệp của quê
hương. Ngày nay cầu cũ không còn, nhưng dấu tích của
nghề làm giấy ở cố đô Thăng Long vẫn gắn mãi với địa
danh này.
Đến thế kỉ XV, do nhu cầu của xã hội, việc học hành, giao
dịch thi cử phát triển nên đã xuất hiện thêm làng nghề làm
giấy ở phường Yên Thái, cũng nằm trong vùng Bưởi ven
Hồ Tây, tiếng chày giã dó đã đi vào tâm thức của người
Kinh kì, cho tới nay vẫn còn đọng lại trong kí ức của nhiều
người:
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Vậy ai là người đã khởi xướng truyền dạy cho dân nghề
làm giấy? Cổ sử Trung Hoa nói rõ ông tổ của nghề làm
giấy là Thái Luân - một viên quan nhỏ sống vào thời Đông
Hán (năm 105 sau CN). Nhưng thực ra, giấy đã ra đời trước
Thái Luân chừng hai thế kỉ, Thái Luân có lẽ chỉ là người đã
đúc kết kinh nghiệm trong dân gian để làm ra giấy một
cách quy mô, bài bản hơn. Ở làng An Cốc, xã Hồng Minh,
huyện Phú Xuyên - Hà Tây, một trong những làng có nghề
làm giấy lâu đời hiện vẫn giữ được một quyển sách viết
bằng chữ Nôm nói về cụ tổ nghề, có đoạn như sau:
Mừng công nghĩa hiệp khéo tay
Khuôn phép ngày rày học được Thái Luân
Chữ rằng nghệ tinh thân vinh
Nhờ ơn ngày trước Thái Luân học cùng.
Ngoài cụ tổ nghề giấy Thái Luân mà làng tôn thờ, dân làng
nơi đây còn kể lại: Có cụ tổ nghề giấy người Việt (không rõ
họ tên) người làng An Cốc đã học nghề từ Trung Quốc đem
về truyền dạy cho ba làng: An Cốc, Yên Thái, Yên Hòa.
Người vùng Bưởi thì kể rằng, không rõ cụ từ đâu tới, chỉ
biết đầu tiên cụ đến làng Yên Quyết Thượng (tức Yên Hòa)
dạy cho dân cách làm giấy, nên gọi là làng Giấy, nhưng vì
không hài lòng với cách cư xử ở đây, nên cụ chỉ dạy cho
dân làng này làm ra loại giấy thô. Cụ bỏ sang làng Hà Khẩu
dạy cho dân biết cách làm giấy quỳ vừa mỏng lại vừa dai.
Đến làng Yên Thái, cụ dạy dân ba xóm: Đông, Thọ, Đoài
cách làm giấy lệnh, cuối cùng sang Nghĩa Đô cụ dạy cho
gia đình họ Lại cách làm giấy sắc, loại giấy này phải
“nghè”, tức là dùng vồ gỗ nện vào những tờ giấy đặt trên
mặt tảng đá, làm cho giấy thêm nhẵn và dai, bền. Vì thế,
Nghĩa Đô còn có tên gọi là làng Nghè.
Hàng năm dân làng An Cốc làm lễ tế cụ tổ nghề Thái Luân
và cụ tổ nghề người Việt vào ngày mồng 9 và mồng 10
tháng Giêng, để nhớ ngày cụ tổ bỏ làng ra đi đến làng Yên
Thái và không bao giờ trở về nữa. Còn dân làng vùng Yên
Thái, Yên Hòa thì lấy ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm
làm ngày giỗ tổ, đó là ngày cụ tổ từ biệt làng Nghĩa Đô ra
đi.