Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Động vật có xương sống ( phần 6 ) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.16 KB, 6 trang )

Động vật có xương sống ( phần 6 )
Da và các sản phẩm của da ở lớp Chim (Aves)
Cấu tạo da
Có hai lớp điển hình, phân hoá theo lối sống:
- Lớp biểu bì mỏng, tầng sừng ở ngoài cùng, có bề dày thay đổi tuỳ theo
vị trí của cơ thể (nơi có cọ xát nhiều thì dày hơn). Trong cùng của
biểu bì là tầng manpighi có sắc tố, chủ yếu là sắc tố đen và vàng nên da
thú có màu.
- Lớp bì dày hơn biểu bì, gồm mô liên kết có nhiều mạch máu và các vi
thể cảm giác.

Cấu tạo da thú (theo Raven)
A. Lớp biểu bì; B. Lớp bì; C. Hạ bì (đệm)
1. Lông; 2. Thụ cảm xúc giác; 3. Cơ lông; 4. Thể Pacini (áp lực); 5. Gốc
lông; 6. Đầu mút thần kinh tự do; 7. Mỡ; 8. Mô liên kết; 9. Động mạch;
10. Tĩnh mạch; 11. Tuyến mồ hôi; 12. Thần kinh;
Trong tầng bì sâu có lớp hạ bì chứa nhiều tế bào mỡ, tập hợp thành đám
hay thành lớp mỡ dưới da. Lớp mỡ này có khi rất dày như ở cá voi, hải
cẩu, lợn… là nơi dự trữ năng lượng, chống rét, làm cho cơ thể nhẹ (hình
10.1). Về chức năng thì lớp biểu bì là lớp bảo vệ còn lớp bì là nơi nuôi
dưỡng và làm chỗ dựa cho lớp biểu bì.
2. Sản phẩm của da
- Lông mao là sản phẩm sừng rất đặc trưng của thú có nguồn gốc từ biểu
bì, chỉ có một số ít loài gần như không có lông mao. Cấu tạo gồm 2 phần:
Thân lông ở ngoài da và chân lông cắm ở trong da. Giữa thân lông có tủy,
chứa sắc tố vàng và đen. Chân lông có nhiều tế bào sống có nhiều mạch
máu. Lông mao có 2 loại chính: Lông phủ dài, ở ngoài và lông nệm
ngắn ở phía trong, có nhiệm vụ giữ nhiệt và không thấm nước.
Lông có thể thay thế theo chu kỳ 2 lần trong 1 năm. Lông có thể biến đổi
theo chức năng như thành ria mép (mèo, hổ ), lông cứng (gậm nhấm ),
trâm cứng và dài (nhím, đơn ). Màu sắc lông thú ít sặc sỡ như lông


chim, thường màu sẫm, vằn hay trắng
- Tuyến da có 4 loại:
+ Tuyến mồ hôi có hình ống, xoắn ở gốc thành quản cầu, mồ hôi được lọc
từ máu, thành phần giống nước tiểu nhưng lượng nước nhiều. Tuyến mồ
hôi có vai trò bài tiết chất cặn bã và điều hòa thân nhiệt.
+ Tuyến xạ (tuyến thơm) có cấu tạo phức tạp, chất tiết có mùi đặc biệt, là
chất đánh dấu và liên quan đến hoạt động sinh dục và bảo vệ lãnh thổ.
Tuyến này ở các vị trí khác nhau: Gần hậu môn (cầy, cáo ), trước ổ mắt
(hươu, nai, trâu, bò…), giữa 2 ngón chân (thú có sừng).
+ Tuyến sữa vừa là nội vừa là ngoại tiết, có nguồn gốc từ tuyến mồ hôi.
Có hình ống (ở các loài thú thấp) hay hình chùm (ở các loài thú cao). Có
thể tập trung thành vú, số lượng vú thay đổi từ 2 - 14 cái. Chất tiết là sữa
có thành phần bao gồm protein, đường lactoza, muối khoáng ).
+ Tuyến bã có hình chùm, phát triển mạnh ở thai nhi.
- Vuốt là sản phẩm sừng của vỏ da, có chức năng bảo vệ các ngón chân
hay là bộ phận để tấn công kẻ thù của nhiều loài thú (họ mèo). Móng là
phần phụ đặc trưng của bộ khỉ hầu. Guốc phát triển ở các loài di chuyển
bằng đầu ngón chân trên đất cứng, đó là các tấm sừng cuốn thành ống hay
phần nệm hoá sừng.
- Vảy chỉ có ở một số loài thú như ở tê tê, ta tu có vảy phủ toàn thân, hải
ly và chuột chỉ có phần đuôi.
- Sừng và gạc: Thú có 3 loại sừng:

Sự sinh trưởng hàng năm của sừng hươu, nai (theo Hickman)
A. Sừng bắt đầu mọc vào cuối mùa xuân; B. Xương phát triển mạnh; C.
Da màng ngoài (màng nhung) bị chết và bong ra; D. Sừng phát triển cực
đại bắt đầu mùa sinh sản
+ Sừng trâu, bò (còn được gọi là sừng thật) là lớp sừng hình ống, ôm lấy
lõi xương mọc lên từ sọ, không rụng và không phân nhánh, gắn với sọ rất
cứng.

+ Sừng hươu nai (hay được gọi là gạc) thường đặc, phân nhánh, khi già
toàn bộ hoá xương, thay thế và phân nhánh hằng năm. Cấu tạo gồm một
trụ xương đặc từ trung bì, có da và lông bọc ngoài, chứa nhiều chất dinh
dưỡng. Thuộc loại này còn có sừng hươu cao cổ, nhưng không rụng hàng
năm.
+ Sừng tê giác có nguồn gốc hoàn toàn từ biểu bì, không có trục xương,
do các sợi sừng kết lại rất chặt, có thể thay thế khi bị gãy.
Đặc điểm chung của lớp Thú (Mammalia)
Lớp thú (Mamalia) là nhóm động vật có tổ chức cao nhất trong động
vật Có xương sống. Chúng da dạng về hình thái, cấu tạo cơ thể cũng như
các đặc điểm sinh học, sinh thái nhưng lại có những nét chung sau:

- Hình dạng rất khác nhau, cơ thể phủ lông mao (một số ít loài không có
lông). Vỏ da có nhiều loại tuyến, nhưng nổi bật là có tuyến sữa.
- Bộ xương có sự tiến hoá cao như: Sọ có 2 lồi cầu chẩm, xương màng
nhĩ và xương xoăn mũi do có liên quan đến sự phát triển của thính giác và
khứu giác mà phân hoá phức tạp, cổ có 7 đốt, chi có cấu tạo 5 ngón điển
hình nhưng có biến đổi để thích nghi với các lối vận chuyển khác nhau.
- Có cơ hoành đặc trưng, ngăn cách và hình thành xoang ngực và xoang
bụng.
- Răng phân hoá, mọc trên xương hàm.
- Hệ thần kinh phát triển rất cao, bán cầu não trước có vỏ não
lớn và hình thành vòm não mới, có nhiều khe rãnh trên bán cầu não,
tiểu não hình thành bán cầu tiểu não. Có đủ 12 đôi dây thần kinh não.
- Giác quan phát triển mạnh.
- Tim có 4 ngăn, chỉ có chủ động mạch trái, hồng cầu không nhân, lõm 2
mặt.
- Phổi có buồng thanh, nhiều phế nang, khả năng trao đổi khí với
cường độ cao.
- Là động vật đẳng nhiệt, khả năng điều hoà thân nhiệt cao.

- Hậu thận, ống dẫn niệu mở vào bóng đái, ống dẫn niệu - sinh dục và ống
tiêu hoá đổ vào hai lỗ khác nhau. Huyệt chỉ tồn tại ở thú Có huyệt.
- Phân tính, có cơ quan giao phối, dịch hoàn nằm lọt xuống bìu ngoài
xoang bụng. Có 2 buồng trứng, 2 ống dẫn và 1 tử cung, 1 âm đạo.
- Trứng nhỏ, thụ tinh trong và phát triển trong tử cung. Đối với thú cao thì
phôi có liên hệ mật thiết với cơ thể mẹ qua màng phôi là màng ối, màng
đệm, túi niệu tạo thành nhau thai. Nuôi con bằng sữa.
Tổ tiên của loài chim - Chim thủy tổ
(Archaeopteryx)

Loài chim tiến hóa ra sao? Đây là một đề tài khó của khoa học. Chim có
bộ xương mềm yếu lại bay ở trên không, ít có dịp hóa thạch, nên tài liệu
hóa thạch về gốc gác loài chim rất hiếm, cả thế giới chỉ mới phát hiện
được 5 trường hợp hóa thạch của loài chim nguyên thủy.

Cả 5 trường hợp này đều được phát hiện ở vùng Bavaria (Bayern) của
Đức, hóa thạch này có cách đây khoảng 150 triệu năm, và đã chứng minh
được rằng đó là tổ tiên của loài chim. Những vết lông vũ rất rõ nét trên
hóa thạch, phân biệt rõ ràng lông cánh sơ cấp và thứ cấp, còn có cả
lông đuôi. Chi trước biến thành cánh, chi sau: bàn chân có 4 ngón (3
ngón trước, 1 ngón sau). Xương quai xanh liền lại thành xương chạc.
Xương hông vươn về phía sau. Những đặc trưng này đều là của loài chim
hiện đại.
Nhưng điều kỳ lạ là, trong miệng có răng, đầu cánh lại có 3 móng. Xương
bàn tay và bàn chân đều tách rời. Có một cái đuôi dài, gồm những đốt
xương đuôi tách rời. Những đặc điểm này lại là của loài động vật bò sát.
Qua nghiên cứu thấy rằng, đó là đại biểu trung gian quá độ từ loài bò sát
sang loài chim, vì vậy được gọi là chim thủy tổ.
Qua giám định, tốc độ bay nhỏ nhất của chim thủy tổ là 7,6m/giây. Nó có
thể đập cánh bay, nhưng không được lâu.

Chim thủy tổ đã chuyển sinh hoạt động dưới đất sang sinh hoạt trên
không như thế nào?
Có 2 quan điểm:
- Một là, chim nguyên thủy leo trèo trên cây, rồi chuyển dần sang bay
đoạn ngắn tiến tới bay lượn.
- Hai là, chim nguyên thủy chạy trên 2 chân, còn 2 chi trước dùng để vồ
bắt mồi, dần dần chi trên phát triển thành cánh bay.
Chim nguyên thủy tuy chỉ tìm thấy trên hóa thạch, nhưng đã cung cấp
chứng cớ cho gốc gác của loài chim, được coi là tổ tiên của loài chim.

Bộ xương của chim thủy tổ (Ảnh: fsteeman)

×