Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bài giảng : An toàn môi trường part 8 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.79 KB, 10 trang )


71
Trường hợp chung có thể biểu diễn điện áp tiếp xúc như sau:
dtx
UU .
α
=

Ở đây
α
là hệ số tiếp xúc, với
α
< 1.

β
- Điện áp bước.
Có thể tính điện áp bước theo biểu thức sau:
)(2
11
.
2
.
2
2
axx
aI
axx
I
x
dx
I


UUU
dd
ax
x
d
axxb
+
=






+
−==−=

+
+
π
ρ
π
ρ
π
ρ

Trong đó : a- là độ dài của bước ( khoảng 0,8m )
x- là khoảng cách đến chỗ chạm đất .
Như vậy càng đứng xa chỗ chạm đất trò số điện áp bước càng bé. Nếu
cách xa từ 20m trở lên điện áp bước bằng không.

Điện áp bước có thể bằng không mặc dù người đứng gần chỗ chạm đất
nếu hai chân người đều đặt trên vòng tròn đẳng thế.
Như vậy sự phụ thuộc đối với khoảng cách đến chỗ chạm đất của điện áp
bước hoàn toàn trái hẳn với điện áp tiếp xúc.
Qua thực nghiệm người ta nhận thấy dòng điện đi qua hai chân người ít
nguy hiểm hơn vì nó không đi qua cơ quan hô hấp, tuần hoàn. Nhưng với trò số
điện áp bước khoảng 100-250V các cơ bắp của người có thể bò co rút làm người
ngã xuống và lúc ấy sơ đồ điện sẽ thay đổi, (dòng điện đi từ chân sang tay).
2- Các dạng tai nạn điện.
Tai nạn điện được phân làm hai dạng: chấn thương do điên và điện giật.
a- Các chấn thương do điện.
Chấn thương do điện là sự phá huỷ cục bộ các mô của cơ thể do dòng điện hoặc
hồ quang điện. Chấn thương do điện sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng
lao động, một số trường hợp có thể dẫn đến tử vong. Các dạng chấn thương
điện :
- Bỗng điện : Bỗng điện gây nên do dòng điện qua cơ thể người hoặc do
tác động của hồ quang điện. Bỗng do hồ quang một phần do tác động đốt nóng
của tia lửa hồ quang có nhiệt độ rất cao (từ 3500
0
C÷15.000
0
C), một phần do bột
kim loại nóng bắn vào gây bỗng.
-Dấu vết điện : Khi dòng điện chạy qua sẽ tạo nên các dấu vết trên bề
mặt da tại điểm tiếp xúc với điện cực.
- Kim loại hoá mặt gia : Do các kim loại nhỏ bắn vào với tốc độ lớn thấm
sâu vào trong gia, gây bỗng.
- Co giật cơ : Khi có dòng điện qua người, các cơ bò co giật.
- Viêm mắt : Do tác dụng của tia cực tím.
b- Điện giật.

Dòng điện qua cơ thể sẽ gây kích thích các mô kèm theo co giật cơ ở các
mức độ khác nhau:
- Cơ bò co giật nhưng người không bò ngạt.

72
- Cơ bò co giật, người bò ngất nhưng vẫn duy trì được hô hấp và tuần hoàn.
- Người bò ngất, hoạt động của tim và hệ hô hấp bò rối loạn.
- Chết lâm sàng.
Điện giật chiếm một tỉ lệ rất lớn, khoảng 80% trong tổng số tai nạn điện,
và 85%÷87% số vụ tai nạn điện chết người là do điện giật.
c-Phân loại nơi đặt thiết bò điện theo mức nguy hiểm
Mức nguy hiểm đối với người làm việc ở thiết bò điện do dòng điện gây
nên phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Do đo,ù để đánh gía, xác đònh điều
kiện môi trường khi lắp đặt thiết bò điện, lựa chọn loại thiết bò, đường dây,
đường cáp vv phải theo quy đònh về phân loại nơi đặt thiết bò điện theo mức
nguy hiểm :
- Nơi nguy hiểm là nơi có một trong các yếu tố sau :
+ Độ ẩm của không khí vượt quá 75% trong thời gian dài hoặc có bụi dẫn
điện.
+ Nền nhà dẫn điện (bằng kim loại, bê tông cốt thép, gạch).
+ Nhiệt dộ cao (vượt quá 35
o
C trong thời gian dài).
+ Những nơi người có thể đồng thời tiếp xúc một bên của các kết cấu kim
loại của nhà, các thiết bò công nghệ, máy móc đã nối đất và một bên với vỏ kim
loại của thiết bò điện.
- Nơi đặc biệt nguy hiểm là nơi có một trong các yếu tố sau :
+ Độ ẩm tương đối của không khí xấp xỉ 100%.
+ Môi trường có hoạt tính hoá học (có chứa hơi, khí, chất lỏng trong thời
gian dài, có thể phá huỷ chất cách điện và các bộ phận mang điện).

- Nơi ít nguy hiểm là nơi không thuộc hai loại trên.
§12-2 . Các biện pháp an toàn khi sử dụng điện
1-Các biện pháp tổ chức.
a- Yêu cầu đối với nhân viên phục vụ.
- Công nhân vận hành điện phải có đủ sức khoẻ và tuổi đời không nhỏ
hơn 18.
- Công nhân vận hành điện phải hiểu biết về kó thuật điện, nắm vững tính
năng của thiết bò, nắm vững những bộ phận có khả năng gây ra nguy hiểm.
- Công nhân phải nắm vững và có khả năng vận dụng các quy phạm về kó
thuật an toàn điện, biết cách cấp cứu người bò điện giật.
- Đối với các thợ bậc cao, phải giải thích được lí do để ra các yêu cầu quy
tắc an toàn điện của ngành mình phục vụ.
b- Tổ chức làm việc.
- Công nhân sữa chữa thiết bò điện hoặc các phần có mang điện đều phải
có phiếu giao nhiện vụ.
- Phiếu giao nhiệm vụ làm việc ở các thiết bò điện phải ghi rõ loại và đặc
tính công việc, đòa điểm, thời gian, bậc thợ được phép làm việc, điều kiện an

73
toàn mà tổ phải hoàn thành trách nhiệm của công nhân (kể cả người chỉ huy và
người theo dõi).
- Phiếu giao nhiệm vụ phải lập thành hai bản, một bạn lưu tại bộ phận
giao việc, một bản giao cho tổ công nhân thi hành.
- Phiếu giao nhiệm vụ phải được các cán bộ chuyên môn kiểm tra.
- Chỉ có người chỉ huy mới có quyền ra lệnh làm việc.
- Trước khi làm việc, người chỉ huy phải hướng dẫn trực tiếp tại chỗ: nơi
làm việc, nội dung công việc, những chỗ có điện nguy hiểm, những quy đònh về
an toàn, chỗ cần nối đất, cần che chắn v.v Sau khi hướng dẫn xong, tất cả các
thành viên của tổ phải kí vào phiếu giao nhiệm vụ.
c- Kiểm tra tong thời gian làm việc.

- Tất cả những công việc cần tiếp xúc với điện bất kì ở vò trí nào cần có ít
nhất hai người. Một người thực hiện công việc, một người theo dõi và kiểm tra.
- Thông thường người kiểm tra là người lãnh đạo công việc.
- Trong thời gian làm việc, người theo dõi được giải phóng hoàn toàn
khỏi các công việc khác mà chuyên trách đảm bảo các nguyên tắc kó thuật an
toàn cho tổ.
2- Các biện pháp kó thuật.

α
- Đề phòng tiếp xúc vào các bộ phận mang điện.
- Đảm bảo cách điện tốt các thiết bò điện.
- Đảm bảo khoảng cách an toàn, bao che, rào chắn các bộ phận mang
điện.
- Sử dụng điện áp thấp, máy biến áp cách li.
- Sử dụng tín hiệu, biển báo, khoá liên động.

β
- Các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế tai nạn điện khi xuất hiện tình
trạng nguy hiểm.
- Thực hiện nối không bảo vệ.
- Thực hiện nối đất bảo vệ, cân bằng thế.
- Sử dụng thiết bò cắt điện an toàn.
- Sử dụng các phương tiện bảo vệ, dụng cụ phòng hộ.
3- Cấp cứu người bò điện giật.
Nguyên nhân chính làm chết người vì điện giật là do hiện tượng kích
thích chứ không phải do bò chấn thương.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, hầu hết các trường hợp bò điện giật, nếu
kòp thời cứu chữa thì khả năng cứu sống rất cao.
Khi sơ cứu người bò nạn cần thực hiện hai bước cơ bản sau :
- Tách ngay nạn nhân ra khỏi nguồn điện.

- Làm hô hấp nhân tạo và xoa bóp tim ngoài lồng ngực.



74
a- Tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện.
Nếu nạn nhân chạm vào điện hạ áp cần nhanh chóng cắt nguồn điện; nếu
không thể cắt nhanh nguồn điện thì phải dùng các vật cách điện khô như sào,
gậy tre, gỗ khô để gạt dây điện ra khỏi nạn nhân, nếu nạn nhân nắm chặt vào
dây điện cần phải đứng trên các vật cách điện khô để kéo nạn nhân ra hoặc
hoặc đi ung hay dùng găng tay cách điện để gở nạn nhân ra; hoặc dùng các
dụng cụ cách điện để cắt đứt dây điện.
Nếu nạn nhân bò chạm hoặc bò phóng điện từ thiết bò có điện áp cao thì
không thể đến cứu ngay trực tiếp mà cần phải đi ủng, dùng gậy, sào cách điện
để tách người bò nạn ra khỏi phạm vi có điện, đồng thời báo cho người quản lí
đến cắt điện trên đường dây.
Nếu người bò nạn đang làm việc ở đường dây trên cao, dùng dây dẫn nối
đất, làm ngắn mạch đường dây. Khi làm ngắn mạch đường dây và nối đất cần
tiến hành nối đất trước, sau đó ném dây lên làm ngắn mạch đường dây. Dùng
các biện pháp đỡ để chống rơi, ngã nếu người bò nạn trên cao.
b- Làm hô hấp nhân tạo.
Thực hiện ngay sau khi tách người bò nạn ra khỏi bộ phận mang điện. Đặt
nạn nhân ở chỗ thoáng khí, cởi các phần quần áo bó thân (cúc cổ, thắt lưng ),
lau sạch máu, nước bọt và các chất bẩn, sau đó thực hiện theo trình tự:
- Đặt nạn nhân nằm ngửa, kê gáy bằng gạch mềm để đầu ngửa về phía
sau. Kiểm tra khí quản có thông suốt không và lấy các dò vật ra. Nếu hàm bò co
cứng phải mở miệng bằng cách để tay áp vào phía dưới của góchàm dưới, tì
ngón tay cái vào mép để đẩy hàm dưới ra.
- Kéo ngửa mặt nạn nhân về phía sau sao cho cằm và cổ trên một đường
thẳng đảm bảo cho không khí vào được dễ dàng. Đẩy hàm dưới về phía trước

đề phòng lưỡi rơi xuống đóng thanh quản.
- Mở miệng và bòt mũi nạn nhân. Người cấp cứu hít hơi và thổi mạnh vào
miệng nạn nhân (đặt khẩu trang hoặc khăn sạch lên miệng nạn nhân). Nếu
không thể thổi vào miệng được thì có thể bòt kín miệng nạn nhân và thổi vào
mũi.
- Lặp lại các thao tác như trên nhiều lần. Việc thổi khí cần làm nhòp
nhàng và liên tục 10 412 lần trong một phút với người lớn, 20 lần trong một
phút đối với trẻ em.
c- Xoa bóp tim ngoài lòng ngực.
Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt còn một người xoa bóp
tim. Người xoa bóp tim chồng hai tay lên nhau và đặt ở 1/3 phần dưới xương ức
của nạn nhân, ấn khoảng 446 lần thì dừng lại hai giây để người thổi ngạt thổi
không khí vào phổi nạn nhân. Khi ấn ép mạnh lồng ngực xuống khoảng 4÷6
cm, sau đó giữ tay lại 1/3 giây rồi mới rời tay khỏi lồng ngực cho trở về vò trí
cũ.

75
Nếu có một người cấp cứu thì cứ sau hai ba lần thổi ngạt, ấn vào lồng
ngực nạn nhân như trên từ 4÷6 lần.
Các thao tác phải được làm liên tục cho đến khi nạn nhân xuất hiện dấu
hiệu sống trở lại, hệ hô hấp có thể tự hoạt động ổn đònh. Để kiểm tra nhòp tim
nên ngừng xoa bóp khoảng 2÷3 giây . Sau khi thấy sắc mặt trở lại hồng hào,
đồng tử co dãn, tim phổi bắt đầu hoạt động nhẹ, cần tiếp tục cấp cứu từ 5÷10
phút nữa để tiếp sức thêm cho nạn nhân. Sau đó cần kòp thời chuyển ngay nạn
nhân tới bệnh viện. Trong quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục công việc cấp
cứu liên tục.

































76
Chương 13

KĨ THUẬT PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

§13-1 Những vấn đề cơ bản về cháy và nổ.
1- khái niệm chung.
Cháy là một hiện tượng hoá lí phức tạp. Theo đònh nghóa cổ điển, cháy là
quá trình phân huỷ hoàn toàn vật chất khi có oxi.
Vì vậy, cháy là một quá trình oxi hoá, là sự hoá hợp giữa tác nhân oxi hoá
(như không khí, oxi ) với chất cháy (tức là chất bò oxi hoá như dầu, khí,
than, ). Tuy nhiên có trường hợp cháy không cần oxi như kim loại cháy trong
môi trường clo ; bari oxit, natri oxit cháy trong môi trường khí cacbônic; thuốc
súng cháy không cần trong môi trường khí ; axêtilen nén, clorua nitơ nén và vài
hợp chất khác trong những điều kiện nhất đònh có thể nổ mà không cần không
khí. Như vậy, cháy có thể là kết quả của phản ứng kết hợp hoặc phản ứng phân
huỷ.
Theo quan niệm mới, cháy là phản ứng hoá học xẩy ra nhanh chóng, phát
nhiệt và phát quang. Nghóa là có phản ứng cháy không cần oxi và mọi vật chất
ít nhiều đều có thể cháy. Oxi hoá chậm có thể xem như quá trình cháy chậm,
nó chỉ khác về tốc độ phản ứng và cường độ phát nhiệt.
Quá trình cháy có kèm theo phát nhiệt. Nhưng không phải mọi quá trình
phát nhiệt đều là quá trình cháy. Ví dụ như sự oxi hoá chậm rượu êtilic thành
anđêhit axêtic, SO
2
thành SO
3
, vv thì không thể xếp vào quá trình cháy.
Trong thực tế thường gặp các đám cháy xẩy ra trong môi trường không
khí. Vì vậy ở đây khi xét đến các vấn đề về cháy chủ yếu là xét đến quá trình
cháy có oxi. Người ta chia ra làm hai loại cháy : đồng thể và dò thể. Cháy đồng
thể là cháy chỉ của các chất khí, còn cháy dò thể là cháy của hỗn hợp chất cháy
và chất oxi hoá có trạng thái vật lí khác nhau.

Tuỳ lượng oxi đưa vào để đốt cháy nhiên liệu mà ta chia ra cháy hoàn
toàn và không hoàn toàn. Khi có thừa hay đủ không khí, quá trình cháy xẩy ra
hoàn toàn, sản phẩm của quá trình cháy hoàn toàn là cacbônic, hơi nước, nitơ
và một ít các khí khác như anhiđrit sunfurơ, Khi không đủ không khí thì quá
trình cháy xẩy ra không hoàn toàn. Trong sản phẩm cháy không hoàn toàn
thường chứa nhiều khí cháy, nổ và độc như cacbon oxit, rượu, axit, xêtôn và
anđêhit.
Tuỳ tốc độ của quá trình cháy người ta chia thành cháy, nổ và cháy nén
áp.
Khi cháy hoàn toàn lượng nhiệt toả ra là cực đại. Một phần nhỏ lượng
nhiệt đó sẽ tiêu hao cho việc gia nhiệt, nóng chảy, phân huỷ và bốc hơi chất
cháy. Lượng nhiệt chủ yếu sẽ tiêu hao cho việc nung nóng môi trường xung

77
quanh vùng cháy. Khi cháy trong phòng kín lượng nhiệt đó sẽ tiêu hao cho việc
nung nóng những kết cấu, những vật liệu có trong khu vực đó.
Quá trình cháy của các chất thể rắn, lỏng và khí đều có những điểm
tương tự nhau và đều bao gồm các giai đoạn sau đây : oxi hoá, tự bắt cháy,
cháy. Nhiệt trong quá trình oxi hoá sẽ làm cho tốc độ phản ứng tăng lên, hỗn
hợp cháy nhanh chóng tự bắt cháy và ngọn lửa xuất hiện.
2- Cơ chế quá trình cháy.
a- Lí thuyết tự bắt cháy nhiệt.
Theo lí thuyết này, điều kiện quyết đònh để xuất hiện quá trình cháy là
tốc độ toả nhiệt của phản ứng hoá học phải vượt quá hoặc bằng tốc độ truyền
nhiệt từ vùng phản ứng ra môi trường xung quanh khi đó quá trình cháy mới
xuất hiện. Do lượng nhiệt sinh ra lớn hơn lượng nhiệt mất đi nên một phần nhiệt
lượng sẽ tồn tại trong vật chất đang tham gia vào quá trình cháy làm nhiệt độ
của nó tăng dần. Nhiệt độ tăng dẫn đến tốc độ phản ứng cháy tăng và lượng
nhiệt sinh ra do phản ứng cháy càng tăng. Quá trình này cứ tiếp tục mãi cho
đến khi đạt được một nhiệt độ tối thiểu thì quá trình tự bóc cháy sẽ xẩy ra. Vậy

nguyên nhân dẫn đến quá trình tự bốc cháy là sự tích luỹ nhiệt lượng trong khối
vật chất tham gia vào quá trình cháy. Thời gian cảm ứng chính là thời gian cần
thiết để tích luỹ nhiệt lượng. Kết thúc thời gian cảm ứng thì quá trình tự bốc
cháy xẩy ra.
Lí thuyết nhiệt giúp ta giải thích được nhiều hiện tượng cháy xẩy ra trong
thực tế. Những ứng dụng chính có thể tóm tắt như sau :
- Nhiệt độ tự bôc cháy của hỗn hợp chất cháy và chất oxi hoá không phải
là một hằng số hoá lí cố đònh mà phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cụ thể của quá
trình cháy. Các yếu tố chính là: bản chất của chất cháy và chất oxi hoá, các yếu
tố về tốc độ phản ứng cháy, các yếu tố về truyền nhiệt giữa phản ứng cháy với
môi trường xung quanh, các yếu tố về khuyếch tán khí, nhiệt độ nung nóng ban
đầu, áp suất, tỉ lệ pha trộn giữa các chất cháy và chất oxi hoá
Đây là kết luận quan trọng về mặt lí luận vì cùng một hỗn hợp chất cháy
và chất oxi hoá nhưng được tiến hành trong những điều kiện khác nhau thì nhiệt
độ tự bốc cháy cũng khac nhau.
Tuy nhiệt độ tự bốc cháy không phải là một hàng số hoá lí cố đònh, nhưng
để so sánh khả năng bắt cháy của các chất khác nhau người ta tiến hành đo
nhiệt độ tự bốc cháy trong một điều kiện nhiệt độ nhất đònh, khi đó gia trò nhiệt
độ đo được cũng phản ánh khả năng cháy, nổ dễ hay khó.
- Nhiệt độ tự bôc cháy tỉ lệ nghòch với áp suất tự bốc cháy. Điều đó thể
hiện qua đồ thò sau :
Đường cong chia quá trình ra làm hai lónh vực : A là lónh vực tự bốc cháy,
B là lónh vực không tự bốc cháy. Giả thiết áp suất ban đầu là p
1
. Từ giá trò p
1
kẻ
một đường song song với trục tung cho giao điểm với đường cong, tìm được

78

Nhiệt độ tự bốc cháy
p suất tự bốc cháy
B
A
T
0
P
1
Mối quan hệ nhiệt độ

áp suất tự bốc cháy
nhiệt độ T
0
. Do đó trong trường hợp này để quá trình tự bốc cháy xẩy ra được
thì cần nung nóng hỗn hợp chất cháy và
chất oxi hoá tối thiểu là T
0
độ vì chỉ khi
đó điểm đang nghiên cứu mới thuộc vào
lónh vực tự bốc cháy . Nếu nhiệt độ nung
nóng ban đầu T<T
0
thì không xẩy ra tự
bốc cháy.
b-Lí thuyết tự bắt cháy dây chuyền.
Lí thuyết tự bắt cháy nhiệt giúp ta
hưng trong nhiều trường hợp tự bắt cháy
và bắt cháy và bắt cháy không thể dùng
lí thuết này giải thích được, ví dụ như tác
dụng xúc tác và ức chế đối với quá trình

cháy, sự phụ thuộc của giới hạn bắt cháy
vào áp suất, v.v Để giải thích những hiện tượng đó phải dùng lí thuyết phản
ứng dây chuyền. Muốn cho phản ứng hoá học xẩy ra phải có va chạm giữa các
phân tử phản ứng. Nhưng tác dụng hoá học giữa hai phân tử va chạm vào nhau
chỉ có thể có được khi tổng dự trử năng lượng của chúng không nhỏ hơn một đại
lượng tối thiểu gọi là năng lượng hoạt hóa. Năng lượng dự trử đó là năng lượng
cần thiết để làm đứt hoặc làm yếu liên kết tồn tại giữa các nguyên tử trong
phân tử chất phản ứng ban đầu và tạo khả năng làm xuất hiện những liên kết
mới hoặc phân bố lại các liên kết, nghóa là gây ra phản ứng hoá học. Sản phẩm
của phản ứng có dự trử năng lượng khá lớn. Năng lượng đó lại truyền trực tiếp
cho một hoặc vài phần tử trong số các phần tử phản ứng, kích động chúng đến
trạng thái hoạt động, nghóa là tạo ra các phần tử hoạt động mới.
Thực nghiệm đã xác đònh, các phản ứng cháy thường xẩy ra theo hướng
sao cho lúc đầu trong hệ thống tạo ra những phần tử hoạt động, thường là những
gốc và các nguyên tử tự do. Do có mang hoá trò tự do các phần tử đó rất hoạt
động, có khả năng phản ứng cao, chúng tham gia vào phản ứng tiếp theo và tái
tạo những gốc, nguyên tử tự do mới. Việc sản sinh ra các phần tử hoạt động đó
làm chuyển hóa một lượng lớn sản phẩm ban đầu. Quá trình đó thực hiện một
cách chu kì. Phần tử hoạt động được tạo ra ở chu kì này tạo điều kiện bắt đầu
một chu kì mới. Cuối chu kì mới này lại tạo ra những phần tử mới Vì phản
ứng cứ được kéo dài, phát triển do lặp lại một cách chu kì các phản ứng như vậy
nên gọi là phản ứng dây chuyền.
Theo lí thuyết phản ứng dây chuyền, quá trình cháy trải qua các giai đoạn
sau :


- Giai đoạn sinh mạch: các phần tử chất cháy và chất oxi hoá được hoạt
hoá nhờ năng lượng tự thân, năng lượng nhiệt, năng lượng của ánh sáng hay do
va chạm với phân tử thứ ba nào đó. Kết quả là tạo ra các phần tử hoạt động


79
(gọi là tâm hoạt động). Những tâm hoạt động này có khả năng tham gia vào các
phản ứng ở giai đoạn tiếp theo.
Đặc điểm quan trọng nhất của giai đoạn sinh mạch là thu nhiệt, nếu
lượng nhiệt cấp vào phản ứng bằng hoặc nhỏ hơn năng lượng liên kết trong
phân tử, thì tốc độ sinh mạch nhỏ và tiến hành khó khăn.


- Giai đoạn phát triển mạch: nhờ những tâm hoạt động ban đầu mà
phản ứng tiếp tục phát triển và tái tạo các tâm hoạt động mới. Phản ứng được
phát triển một cách dây chuyền, các tâm hoạt động cứ được tái tạo nếu không
có gì cản trở.
Nếu từ một tâm ban đầu khi phản ứng chỉ tái tạo một tâm mới thì phản
ứng là dây chuyền không phân nhánh. Nếu từ một tâm ban đầu tái tạo được hai
hay nhiều tâm mới thì phản ứng là dây chuyền phân nhánh. Các phản ứng cháy
hầu hết là dây chuyền phân nhánh, nên tốc độ cháy phát triển rất nhanh.

(
- Giai đoạn triệt mạch (hay đứt mạch): do va chạm với các phần tử trơ,
do các phản ứng phụ các tâm hoạt động dần dần bò triệt đi, nghóa là chúng
chuyển thành các phân tử kém hoạt tính hoặc những phân tử ổn đònh mất khả
năng phản ứng tiếp theo. Do đó phản ứng cháy không thể phát triển tiếp tục.
Nếu cường độ triệt mạch đủ lớn thì phản ứng cháy sẽ ngừng hẳn.
Đặc điểm chính của quá trình triệt mạch là phản ứng toả nhiệt và tiến
hành dễ dàng.
Biểu hiện bên ngoài của phản ứng trong quá trình tự bắt cháy nhiệt và tự
bắt cháy dây chuyền đều giống nhau. Điểm khác nhau chủ yếu là theo cơ chế
nhiệt thì trong hệ thống phản ứng sẽ tích luỹ nhiệt, mà theo cơ chế dây chuyền
thì tích luỹ tâm hoạt động. Cả hai yếu tố ấy đều làm xúc tiến phản ứng. Sự bắt
cháy dây chuyền về nguyên tắc có thể thực hiện ở nhiệt độ không đổi mà

không cần gia nhiệt cho hỗn hợp.
§13-2 Điều kiện xẩy ra quá trình cháy.
Thời gian cảm ứng
1- Điều kiện xẩy ra quá trình cháy.
Để quá trình cháy xuất hiện và phát triển cần có chất cháy, chất oxi hoá
và mồi bắt cháy. Thiếu một trong ba điều kiện đó thì sự cháy sẽ ngừng. Ví dụ,
khi ta phun bọt vào vào đám cháy của chất lỏng là làm cho hơi của chất cháy
ngừng đi vào vùng cháy ; khi phun nước vào gỗ đang cháy nhiệt độ của gỗ sẽ
hạ xuống dưới nhiệt độ bắt lửa, làm cho chúng không tiếp tục cháy nữa.
Thành phần hoá học của chất cháy và tỉ lệ của các thành phần trong hỗn
hợp cháy có ý nghóa quan trọng đối với quá trình cháy. Cháy trong oxi nguyên
chất sẽ đạt tốc độ lớn nhất, khi hàm lượng oxi trong không khí là 14-15% thì tốc
độ cháy sẽ là cực tiểu. Đối với H
2
, C
2
H
4
, C
2
H
2
và vài chất cháy khác hàm lượng
tối thiểu của oxi trong không khí có thể duy trì sự cháy là 10% hoặc thấp hơn.
Tiếp tục giảm hàm lượng oxi xuống nữa sự cháy sẽ ngừng.

80
Bề mặt riêng của chất cháy càng rộng, sự khuấy trộn giữa chất cháy chất
oxi hoá càng tốt thì tốc độ cháy càng tăng.
Chất cháy là những chất khi bò oxi hoá sẽ toả nhiệt và phát quang. Chúng

có thể ở dạng rắn, lỏng, khí. Chất oxi hoá có thể là không khí, oxi nguyên chất,
clo, flo, lưu huỳnh, các hợp chất mang oxi như kali pecmanganat (KMnO
4
),
amôn nitrat (NH
4
NO
3
), Kali nitrat (KNO
3
), natri nitrit (NaNO
2
), Kali clorat
(KclO
2
), axit nitrit (HNO
3
) Đó là những chất trong điều kiện nung nóng sẽ bò
phân huỷ thoát ra oxi, Ví dụ:
2KClO
3
2KCl + 3O
2

Mồi bắt lữa có thể là ngọn lữa trần, tia lữa điện, hồ quang điện, tia lữa
sinh ra do ma sát hay va đập, những hạt than cháy dở, Chúng là những mồi
lửa phát quang. Ngoài ra còn có loại mồi bắt lửa không phát quang hay còn gọi
là mồi ẩn. Mồi bắt lửa ẩn có thể là nhiệt toả ra do các quá trình hoá học, quá
trình sinh hoá, quá trình nén đoạn nhiệt, do ma sát hoặc do tiếp xúc với bề mặt
nóng của thiết bò.

Sự bắt cháy hỗn hợp cháy chỉ có khả năng xảy ra khi lượng nhiệt cung
cấp cho hỗn hợp cháy đủ để làm cho phản ứng cháy bắt đầu, tiếp tục và lan
rộng ra. Như vậy không phải bất cứ một mồi bắt lửa nào củng có thể gây cháy
được. Muốn gây cháy đòi hỏi mồi lửa phải có đủ dự trữ năng lượng tối thiểu.
Những mồi lửa khác nhau có nhiệt độ ngọn lửa khác nhau và thường từ 750-
1300
o
C. Nhiệt độ trên vượt quá nhiệt độ tự bốc cháy của đại đa số các hỗn hợp
khí cháy (200 – 700
o
C) và nhiệt lượng toả ra của ngọn lửa đủ để gia nhiệt cho
1mm
3
hỗn hợp khí đến nhiệt độ tự bốc cháy. Ngọn lửa trần thường xuyên là mối
nguy hiểm về cháy, nổ, nhất là đối với các hỗn hợp khí cháy.
Tia lửa điện là một loại mồi bắt lửa phổ biến trong các ngành công
nghiệp và đời sống. Trong kênh phóng điện nhiệt độ có thể lên tới 10.000
o
C
vượt quá rất nhiều so với nhiệt độ bắt cháy. Vì vậy các nhà máy có sử dụng
chất cháy thì tia lửa điện luôn luôn là nguy cơ cháy, nổ thường xuyên.
Tia lửa tạo ra do ma sát và va đập ít nguy hiểm hơn so với tia lửa điện vì
năng lượng của những tia lửa này nhỏ hơn so với tia lửa điện, tuy nhiên nhiệt độ
do các tia lửa này tạo ra ở phạm vi 600 ÷ 700
o
C nên vẩn có khả năng bắt cháy
một số hỗn hợp khí.
Để làm bắt lửa những chất cháy thể rắn, đặc biệt là thuốc nổ, thuốc súng
cần có mồi bắt lửa lớn hơn đối với khí và hơi, vì nó đòi hỏi nhiều năng lượng để
nung chảy, phân hủy và cháy những chất đó.

Để làm bắt lửa những chất cháy thể rắn có thể dùng những mồi bắt lửa
như ngọn lửa trần, hạt nhiên liệu cháy dở, hồ quang điện Mồi bắt cháy củng
có thể là vỏ các thiết bò, lò nung có nhiệt độ cao và có thể gây ra cháy hỗn hợp
gần đó. Vì vậy cần quy đònh nhiệt độ tối đa mặt ngoài của thiết bò nhiệt.

×