Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Lý thuyết phát triển - Bối cảnh lịch sử potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.31 KB, 24 trang )

I. Bối cảnh lịch sử
Sự đổ vỡ của chương trình phát triển kinh tế các nước châu Mỹ
Latinh – ECLA của liên hợp quốc đã kéo theo khủng hoảng về kinh
tế, chính trị - xã hội ở các nước này trong những năm đầu của những
năm 1960. Điều này dẫn tới sự mất niềm tin vào các lý thuyết của
trường phái hiện đại hóa.
Trước những năm 1960, họ đã dặt ra kế hoạch bảo vệ sự phát triển của
chương trình ECLA ở các nước châu Mỹ Latinh và mở rộng thông qua sự
thay thế nhập khẩu vào năm 1950 mà rất nhiều người nghiên cứu châu
Mỹ Latinh có hy vọng lớn về hướng kinh tế thịnh vượng phát và công
bằng xã hội.
Tuy nhiên, sự mở rộng kinh tế vào những năm 1950 nhanh chóng trở
nên trì trệ và trước năm 1960 Châu Mỹ Latinh bị khủng hoảng bởi thất
nghiệp , lạm phát, sự giảm giá của đồng tiền và các vấn đề kinh tế khác.
Tuy nhiên vấn đề nghiêm trọng nhất là sự khủng hoảng về chính trị và
pháp luật hà khắc( do việc thiết lập chế độ độc tài quân đội). Rất nhiều
nhà nghiên cứu châu Mỹ Latinh đã vô cùng thất vọng về sự đổ vỡ không
thể giải thích được sự đi xuống của nền kinh tế sự yếu kém về chính trị
và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước. Điều này đòi hỏi cần có một
lý thuyết mới ra đời để thay thế lý thuyết cũ (quan điểm của trường phái
hiện đại hóa) để chỉ đạo hướng dẫn các nước châu Mỹ Latinh thoát khỏi
khủng hoảng.
=> trường phái sự phụ thuộc ra đời
Trường phái sự phụ thuộc đầu tiên được ra đời ở Mỹ Lating như giải
pháp cho các nước vỡ nợ từ chương trình vay vốn cho các nước Mỹ
Lating của ủy ban quốc tế các nước Mỹ Lating(ECLA) vào những năm
1960.
• Chịu ảnh hưởng từ mô hình phát triển ở Trung Quốc và Cuba:
Tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN.
Trường phái sự phụ thuộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác( chính
thống) đã đưa ra lời giải thích cho sự khủng hoảng ở các nước Latinh vào


những năm 1960 và đã được các nước này đón nhận. chủ nghĩa Mác chỉ
ra rằng các nước Mỹ Lainh đang bước vào giai đoạn cách mạng tư sản, là
tiên đề để tiến tới cách mạng vô sản. Tuy nhiên sự thành công của cách
mạng Trung Quốc(1949) và Cuba(1950) đã chỉ ra rằng các nước thế giới
thứ 3 có thể bỏ qua giai đoạn cách mạng tư sản. Bị hấp dẫn bởi sự hiện
đại hóa, phát triển của Cuba và Trung Quốc nhiều nhà nghiên cứu ở Mỹ
Latinh cho rằng họ cũng có thể tiến thẳng lên chế độ xã hội cộng sản.
Trường phái sự phụ thuộc ở Mỹ Latinh (bản địa) nhanh chóng truyền
từ các nước Mỹ Latinh đến Bắc Mỹ. Theo Andre Gunder Frank, một nhà
nghiên cứu Mỹ Latinh vào những năm đầu 1960, góp phần truyền bá
những học thuyết của trường phái sự phụ thuộc đến các nước phương
Tây thông qua cộng tác với một tạp chí ở Mỹ mang tên Monthy Review.
Trường phái sự phụ thuộc đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt tại Mỹ
cuối năm 1960 gây ra được tiếng vang lớn đối với các nhà nghiên cứu trẻ
tuổi cấp tiến, những người tham gia vào các cuộc nổi dậy, biểu tình
chống chiến tranh, các hoạt động giải phóng phụ nữ và cuộc nổi loạn khu
ổ chuột vào thời gian đó.
Theo cách nói của Chỉot: Sự thất bại của Mỹ tại Việt Nam và những
mâu thuẫn sắc tộc, bất bình đẳng giới, lạm phát kéo dài vào những năm
1960 gây ra sự mất giá đồng Đôla Mỹ, suy giảm niềm tin của nhân dân
Mỹ vào đầu năm 1970 và làm lung lay những giá trị nền tảng làm xây
dựng nên trường phái hiện đại hóa. Một lý thuyết mới trở nên phổ biến
trong các nhà xã hội học trẻ, một trong số đó đảo ngược tất cả lại với tiên
đề cũ. Mỹ đã trở thành một hình mẫu của cái ác và chủ nghĩa tư bản vốn
được xem là tiến bộ xã hội này trở thành một khai phá nham hiểm và tập
trung hầu hết đói nghèo trên thế giới. Chủ nghĩa đế quốc hiện đại trở
thành kẻ thù mới.
Nổi lên trong bối cảnh lịch sử năm 1960, trường phái sự phụ thuộc đã
trở thành câu trả lời cho tương lai của chương trình ECLA, cuộc khủng
hoảng của chủ nghĩa Mác chính thống, và sự suy giảm của trường phái

hiện đại hóa ở Mỹ. Phần sau đây cung cấp một đánh giá ngắn gọn vè
chương trình ECLA và lý thuyết Mác-xít như là nền tảng cho các cuộc
thảo luận về quan điểm sự phụ thuộc.
II. Thừa kế lý thuyết.
• Phê phán chính sách chuyên môn hóa lệch lạc của ECLA.
Việc xây dựng trường phái sự phụ thuộc phát triển tại châu Mỹ Latinh
liên quan mật thiết tới chương trình ECLA,Prebisch (1950)- người đứng
đầu ECLA, đã chỉ trích lược đồ phân công lao động quốc tế đã lỗi thời.
Dưới mô hình này, Mỹ Latinh đã xuất khẩu lương thực thực phẩm và
nguyên liệu thô cho các trung tâm công nghiệp thế giới, và Mỹ Latinh sẽ
nhập khẩu lại những sản phẩm công nghiệp khác từ các trung tâm này.
Theo Prebisch, kế hoạch này là gốc rễ của các vấn đề phát triển của Châu
Mỹ latinh. Việc xuất khẩu lương thực thực phẩm và nguyên liệu thô chắc
chắn sẽ dẫn tới giảm mậu dịch quốc tế của Mỹ Latinh, mà hơn nữa sẽ ảnh
hưởng đến tích lũy vốn trong nước.
Chiến lược phát triển Châu Mỹ Latinh mà Prebisch cho sự phát triển
của châu Mỹ Latinh là yêu cầu bộ phận quốc tế lao động dừng lại cho Mỹ
Latinh trải qua sự công nghiệp hóa.
Quá trình công nghiệp hòa tộc độ cao dần thay đổi phần lớn việc sản
xuất trong nước. Ban đầu, sản xuất trong nước sẽ được bảo vệ khỏi sự
cạnh tranh của nước ngoài bởi hàng rào thuế quan và các biện pháp hỗ
trợ khác, đến một thời điểm nào đó khi khả năng cạnh tranh của họ đã
được cải thiện, các công ty trong nước phải tự quản lý và duy trì bằng
chính sức mình.
Sản xuất nguyên liệu thô tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh tế
Mỹ Latinh. Thu nhập kiếm được từ sản xuất nguyên liệu dùng để chi trả
cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất nhằm giúp đỡ cải thiện tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Mặt khác chính phủ phải tích cực tham gia phối hợp trong
sự nghiệp công nghiệp hóa bằng việc chính phủ cần chủ động điều tiết
quá trình công nghiệp hóa. Sự tham gia của chính phủ là cần thiết để phá

vỡ tình trạng kém phát triển.
Ban đầu, chiến lược của ECLA nhận được phản ứng khá lạnh lùng từ
phía chính phủ Mỹ Latinh vào những năm 1950. Sự phản đối này giải
thích tại sao ECLA không thể thực hiện các biện pháp căn bản trước mắt
như cải cách ruộng đất. Tuy nhiên trong thực tế, thay đổi cơ cấu kinh tế
quá nhanh không phải là phương án tốt và trong một phạm vi nhất định
chiến lược ECLA được xem xét là quá lạc quan. Nó giả thuyết những vấn
đề của một xã hội các nước chưa phát triển sẽ tự động biến mất trong quá
trình công nghiệp hóa. Có nghĩa rằng công nghiệp hóa đặt dấu chấm hết
cho mọi khó khăn.
Tuy nhiên chương trình ECLA đã không thành công. Kinh tế trì trệ và
các vấn đề chính trị nảy sinh vào những năm 1960. Như Blomstrom và
Hannet giải thích rất rõ ràng những chính sách thay thế nhập khẩu:
Sức mua là nhân tố quan trọng chỉ ra nhu cầu xã hội và sức mua của các
tầng lớp xã hội chắc chằn bị hạn chế, thị trường trong nước cho thấy rõ
sẽ có xu hướng mở rộng thêm. Phụ thuộc vào nhập khẩu, sản xuất hàng
hóa bị xem nhẹ trong sự phát triển chung của quá trình công nghiệp hóa,
kết quả là cán cân thương mại của các quốc gia bị mất cân bằng nghiêm
trọng, nền kinh tế rơi vào đình đốn.
Tức là không có xu hướng để mở rộng thêm thị trường.
Để khắc phục thất bại của chương trình ECLA, trường phái sự phụ
thuộc đã nhanh chóng đưa ra những chiến lược căn bản và được xem như
bước phát triển kế tiếp.
Một trong những học thuyết góp phần vào xây dựng nên quan điểm về
sự phụ thuộc là học thuyết Mác cấp tiến(hay Tân chủ nghĩa Mác).
• Tư tưởng chủ nghĩa Tân Mác: Dựa vào thắng lợi của cách mạng
Trung Quốc và Cuba
Sự thành công của cách mạng Trung Quốc và Cuba đã góp phần
truyền bá học thuyết Mác tới các trường đại học ở Mỹ Latinh, tạo ra một
thế hệ cấp tiến, những người tự gọi là “tân chủ nghĩa Mác”. Theo Foster-

Carter(1973, Tân Mác khác với chủ nghĩa cổ điển Mác ở các thía cạnh
sau đây:
(1) Trong chủ nghĩa Mác cổ điển coi chủ nghĩa đế quốc là phát triển cao
hơn của chủ nghĩa tư bản độc quyền tại tây âu thì Tân Mác thì nhìn
nhận chủ nghĩa đế quốc theo quan điểm (ngoại vi), tập trung vào sự
liên quan của chủ nghĩa đế quốc với vấn đề phát triển ở các nước
thuộc thế giới thứ 3.
(2) Chủ nghĩa Mác cổ điển theo quan điểm 2 “bước tiến hành cách
mạng”. Họ tin tưởng rằng một cuộc cách mạng tư sản sẽ làm tiền đề
cho cuộc cách mạng XHCN diễn ra. Cho tới tận khi các nước thế giới
thứ 3 đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng thì chủ nghĩa
Mác cổ điển vẫn tin tưởng vào khả năng tiến hành cách mạng tư sản
trước khi tiến hành cách mạng XHCN.
Tân Mác lại theo một hướng khác. Họ tin rằng tình hình hiện tại ở các
nước thế giới thứ 3 đã chín muồi để tiến hành cách mạng XHCN. Họ
muốn tiến hành cách mạng ngay, họ nhận thức cách mạng tư sản như
một bước tạo thành chủ nghĩa đế quốc.
(3) Cuộc cách mạng xã hội diễn ra, chủ nghĩa Mác cổ điển vẫn muốn nó
được lãnh đạo bởi giai cấp vô sản. Trong khi chủ nghĩa Mác cấp tiến
được đánh giá cao qua việc lãnh đạo thành công cách mạng Cuba và
Trung Quốc, chủ nghĩa Mác cấp tiến là niềm hi vọng tốt hơn cho cuộc
cách mạng XHCN mà tiền đề là giai cấp công nhân, nông dân, những
người du kích…
 Chủ nghĩa tân Mác đã cung cấp những cơ sở lý luận được coi như là
chiếc chìa khóa cho quan điểm của trường phái sự phụ thuộc chọn để
nghiên cứu về chương trình ECLA và quan điểm trường phái hiện đại
hóa vào những năm 1960.
III. Một số nghiên cứu
điển hình
Frank: Sự phát triển của sự kém phát triển .

• Phê phán lý thuyết của trường phái hiện đại hóa.
Trước tiên đưa ra khái niệm về sự phát triển của sự kém phát triển và
sự bóc lột của các cường quốc với các nước kém hơn,
Frank(1967,1969) bắt đầu với việc phê phán các quan điểm của
trường phái hiện đại hóa. Theo Frank, hầu hết các phạm trù lý thuyết
và những chính sách phát triển của trường phái hiện đại hóa đều được
tích lũy từ những kinh nghiệm lâu năm của người Châu Âu và người
Bắc Mỹ các quốc gia tư bản tiến bộ. Tuy nhiên những lí thuyết của
người phương tây không thể giải thích được các vấn đề mà các nước
thế giới thứ 3 phải đối mặt.
Trường phái hiện đại hóa giả định rằng sự lạc hậu của các nước thế
giới thứ 3 là do yếu tố nội tại của các nước này.
Đầu tiên, trường phái HĐH đưa ra khái niệm “nội tại” để giải thích
cho các vấn đè phát triển của các nước thế giới thứ 3. Trường phái
HĐH giả định có một số sai lầm trong nội bộ các nước thế giới thứ 3
(VD: Như văn hóa truyền thống, sự bùng nổ dân số, thiếu đầu tư,
thiếu động lực thành tích…) đó là lí do tại sao các nước thứ 3 lạc hậu
và trì trệ. Trường phái HĐH bỏ qua lịch sử của các nước thế giới thứ 3
và giả định rằng những nước này sẽ sớm phát triển theo kinh nghiệm
được truyền lại từ các nước phương tây, do đó họ cần nhìn theo các
nước phương tây để học hỏi và đi theo con đường phát triển của các
nước phương tây để có thể bước vào thời kỳ HĐH.
Bác bỏ các giả định trên của trường phái HĐH Frank cho rằng các
nước thế giới thứ 3 sẽ không bao giờ đi theo con đường của các nước
phương tây bởi vì họ trải qua những giai đoạn lịch sử mà các nước
phương Tây chưa trải qua vì rõ ràng là các nước phương Tây chưa trải
qua tình trạng bị xâm chiếm trong khi hầu hết các nước thế giới thứ 3
đã từng là thuộc địa của các nước phương tây. Điều thật lạ là trường
phái HĐH hiếm khi nói đến quá trình xâm chiếm và biến mất của
nhiều nước thế giới thứ 3 trở thành thuộc địa trong hơn 1 thế kỉ. quá

trình thuộc địa đã giải thích cho các vấn đề về tái cơ cấu và thay đổi
đáng kể quá trình phát triển của họ.
• Giải thích sự kém phát triển của các nước thế giới thứ 3 là do cá
nước thế giới thứ 3 đã trải một quá trình lịch sử lâu dài bị thực
dân xâm lược.
Phản ứng với khái niệm “nội tại” của trường phái HĐH, Frank đưa ra
những giải thích “bên ngoài” về những vấn đề phát triển của các nước
thế giới thứ 3. Theo Frank, sự lạc hậu của các nước thế giới thứ 3
không thể giải thích bằng các lý thuyết truyền thống. Thực tế quá sai
lầm khi nói rằng nguyên nhân thất bại là do đặc điểm của các nước thế
giới thứ 3 như “phong kiến”, “lạc hậu” bởi vì rất nhiều nước như
Trung Quốc hay Ấn Độ đã khá ổn định trước khi họ bị chủ nghĩa thực
dân xâm chiếm vào thế kỉ 18. Thay vào đó, chủ nghĩa thực dân và sự
thông trị nước ngoài đã chi phối sự phát triển của nhiều nước thế giới
thứ 3, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nghèo nàn và lạc hậu vủa nền kinh
tế cũng như nỗ lực thoát khỏi suy thoái của những nước này. Frank
xây dựng khái niệm “ vấn đề phát triển ở các nước kém phát triển” để
biểu thị rằng sự kém phát triển không phải do tự nhiên mà được tạo từ
quá trình xâm chiếm kéo dài tại các nước thế giới thứ 3.
• Sử dụng mô “quốc mẫu – chư hầu” để giải thích cơ chế tạo nên sự
kém phát triển : Sự bóc lột của các nước phát triển chính là
nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển của các nước thế giới thứ
3.
Dựa theo quan điểm này Frank đã đề xuất nột số giả thuyết có liên
quan dến sự phát triển của các nước thế giới thứ 3.
Giả thuyết 1: Nói lên sự tương phản giữa các thành phố lớn trên
thế giới và những thành phố thuộc địa, giữa sự phát triển của các quốc
gia phương tây và sự lạc hậu ở các nước thuộc địa.
VD: Mặc dù Sao Paulo (Brazin) đã bắt đầu quá trình công nghiệp hóa
nhưng Frank vẫn không tin có thể thoát khỏi tình trạng kém phát triển

bởi nước này vẫn con nhiều đặc điẻm như: lạc hậu, kém hiện đại,
không thỏa mãn nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa.
Giả thuyết 2: Các nước Mỹ Latinh hoàn toàn phụ thuộc vào nền
kinh tế của các nước khác và khả năng tự phát triển là vô cùng yếu .
Frank quan sát thấy rằng các nước Mỹ Latinh và quá trình công
nghiệp hóa và phát triển tạm thời trong nhưng năm 1950 chẳng qua là
do đình đốn của các trung tâm công nghiệp trên thế giới, do chiến
tranh thế giới II gây ra.
Giả thuyết 3: Khi các trung tâm công nghiệp lấy lại vị thế của
mình sau khủng hoảng, khôi phục nền kinh tế và sát nhập lại hệ thống
thuộc địa, quá trình công nghiệp hóa của các nước thế giới thứ 3 bắt
đầu trùng xuống. Frank chỉ ra răng quá trình công nghiệp hóa ở
Brazin đã gặp phải nhưng hệ quả nghiêm trọng từ việc khôi phục của
nền kinh tế Mỹ sau chiến tranh thế giới I mà khởi đấu là vấn đề khủng
hoảng về tiền tệ, chính trị….
Giả thuyết 4: Những khu vực càng lạc hậu và kém phát triển thì
trong quá khứ càng là nước chịu lệ thuộc nặng nề vào các nước chính
quốc phương tây.
VD: Frank chỉ ra rằng khi giá mía đường ở tây Ấn xuống dốc
và các mỏ khoáng sản ở Brazin cạn kiệt thì các nước chính
quốc nhanh chóng ruồng bỏ các quốc gia này bởi giữ lại các
quốc gia này làm thuộc địa không còn có lợi mà còn trở thành
gánh nặng kinh tế cho các nước chính quốc. Việc đó đã đẩy các
quốc gia này đến tận cùng của sự suy thoái lúc bấy giờ. Frank
cũng lí lẽ: sự bòn rút thuộc địa đã tạo ra sự phát triển cho các
trung tâm thương mại Châu Âu.
Kết luận: Từ những lập luận và các giả thuyết trên Frank đã
đưa ra một quan điểm hoàn toàn khác so với quan điểm của
trường phái HĐH đưa ra về nguyên nhân sự kém phát triển của
các nước thế giới thứ 3, nó có phần hợp lí và sát thực hơn với

các giả định mà trường phái HĐH đưa ra. Theo Frank nguyên
nhân của sự kém phát triển ở các nước thế giới thứ 3 là do sự
bóc lột của các nước phát triển dẫn đến.
Dos Santos: Cấu trúc của sự thuộc
• Định nghĩa về sự phụ thuộc.
Khi nào mối quan hệ giữa 2 hay nhiều quốc gia được coi là ở dạng
phụ thuộc?
Lý thuyết của chủ nghĩa đế quốc tập trung vào việc mở rộng và sự
thống trị của đế quốc độc quyền, các khái niệm cơ bản về sự phụ
thuộc đã làm nổi bật các vấn đề cơ bản của một quốc gia.
Trong định nghĩa cổ điển về sự phụ thuộc, Dos Santos nói rằng: “Mối
quan hệ giữa 2 hay nhiều quốc gia “giả định phụ thuộc khi một số
quốc gia ( các nước tự chủ) có thể bắt đầu, trong khi các nước khác
(các nước phụ thuộc) chỉ làm điều này như một sự mở rộng”.
Ông lập luận rằng mối quan hệ giữa các nước tự chủ và các nước phụ
thuộc là khác nhau.
VD: thông qua kiểm soát đọc quyền các quan hệ thương mại,
thông qua các khoản vay và xuất khẩu các nguồn vốn trong
quan hệ tài chính, có chuyển giao thặng dư được tạo ra trong
các nước phụ thuộc vào các quốc gia tự chủ. Với các nước phụ
thuộc thì sự chuyển giao khoa học kỹ thuật, văn hóa cũng như
đạo đức, sứ khoe và thể chất của người dân của họ bị phụ thuộc
vào rất nhiều các nước khác.
Dos Santos đã phân biệt 3 hình thức lịch sử của sự phụ thuộc:
+ Đầu tiên 2 trong số này là phụ thuộc dạng thuộc địa và sự phụ thuộc
tài chính công nghiệp:
- Đến cuối thế kỉ thứ 19: Sự phụ thuộc dạng thuộc địa:
Các trung tâm thương mại và tài chính của các nước thuộc địa
giữ độc quyền kiểm soát đất đai, hầm mỏ và nguồn nhân lực
(nông dân và nô lệ), xuất khẩu vàng, bạc và các sản phẩm nhiệt

đới từ các quốc gia thuộc địa.
- Từ cuối thế kỷ 19: Sự phụ thuộc tài chính – công nghiệp:
Sự phụ thuộc về tài chính công xuất hiện. Mặc dù vẫn còn chịu
sự chi phối của các trung tâm lớn ở Châu Âu nhưng sau đó nền
kinh tế của các nước của sự phụ thuộc đã có sự thay đổi. Các
nước này có thể xuất khẩu nguyên liệu thô và các sản phẩm
nông nghiệp tới tiêu thụ ở các nước Châu Âu. Không giống như
ở các thời đại trước đó, cơ cấu sản xuất ở giai đoạn này được
đặc trưng bởi việc chuyên môn hóa xuất khẩu trong toàn khu
vực(VD: Caribe và phái đông bắc Brazin). Cùng với hoạt động
xuất khẩu, đã có thể bổ xung thêm các hoạt động kinh tế ( như
chăn nuôi bò và sản xuất một sô sản phẩm liên quan).
+ Đây có thể nói là đóng góp lớn nhất của Dos Santos đó là về lịch sử
nguyên nhân hình thành thứ 3 của sự phụ thuộc “Sự phụ thuộc công
nghệ - công nghiệp”
- Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 : Sự phụ thuộc công nghệ -
công nghiệp:
Khi sự phát triển công nghiệp bắt đầu diễn ra ở các nước kém
phát triển. Theo Dos Santos, có những hạn chế cơ bản về cấu
trúc phát triển công nghiệp của nền kinh tế ở các nước kém phát
triển.
* Các khó khăn cơ bản.
Phụ thuộc vào xuất khẩu:
Điều này nổi lên trong thời kì chiến tranh thế giới thứ 2 khi các quốc
gia kém phát triển bắt đầu quá trình công nghiệp và gặp phải những
khó khăn cơ bản. Họ cho rằng công nghiệp phát triển hiện tại phụ
thuộc vào sự tồn tại của xuất khẩuchỉ có xuất khẩu mới mang lại
ngoại tệ cần thiết để mua các trang thiết bị máy móc tiên tiến dùng
cho phát triển công nghiệp. Để giữ lại nghành xuất khẩu truyền thống,
một số quốc gia kém phát triển cần phải duy trì mối quan hệ giữa sản

xuất hiện đại và truyền thống . Ngoài ra các khu vực kinh tế xuất
khẩu( đặc biệt là mạng lưới tiếp thị) thường bị kiểm soát bởi vốn đầu
tư nước ngoài, phụ thuộc vào lợi ích kinh tế của các quốc gia phát
triển.
Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán: Phát triển công nghiệp chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những biến động của cán thanh toán dẫn đến
thâm hụt. Các nguyên nhân gây thiệt là ba nguyên nhân:
(1)Một thị trường quốc tế độc quyền có xu hướng giảm giá nguyên
liệu và nâng cao giá sản phẩm công nghiệp. Đó xu hướng mà
các sản phẩm chính được thay thế bằng các sản phẩm với vật
liệu tổng hợp. Như vậy, các nước phụ thuộc phải chịu thâm hụt
thương mại do sự phụ thuộc của họ vào việc xuất khẩu nguyên
liệu.
(2)Nguồn vốn nước ngoài giữ quyền kiểm soát nền kinh tế của các
nước thuộc địa, nó mang lại một khối lượng lớn lợi nhuận (từ
cước vận chuyển, thanh toán tiền bản quyền, trợ giúp kĩ thuật,
…v.v). Vì thế Dos santos chỉ ra rằng số tiền mà các nước phụ
thuộc được nhận lạo từ các nước phát triển ít hơn nhiều so với
số tiền họ đáng được nhận lại. Ví dụ: trong giai đoạn 1946 –
1967 cứ mỗi một đồng đôla được nhận về các nước phụ thuộc
thì sẽ có 2.73$ rời đi. Quá trình này tạo ra một mức thâm hụt
trong tài khoản vốn và hạn chế nhập khẩu đàu vạo của các nước
ngoài cho công nghiệp.
(3)Kết quả là “tài trợ nước ngoài” theo hình thức vốn nước ngoài
và viện trọ nước ngoài, là cần thiết để trang trại thâm hụt tài
chính hiện hành và để phát triển hơn nữa. Tuy vậy, Dos santos
cũng lập luận rằng mục đích của nguồn tài trợ nước ngoài này
là để đàu tư tài chính, trợ cấp cho việc nhập khẩu, giới thiệu
công nghệ không thích hợp với nhu cầu tới các nước phát triển
và ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực không cần thiết.

Sự độc quyền công nghệ của các nước đi trước.
Nền công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh mẽ về công nghệ độc
quyền được thực hiện bởi các trung tâm đế quốc. Các tập đoàn xuyên
quốc gia không bán máy míc và xử lý nguyên liệu là các hàng hóa đơn
giản. Thay vào đó họ yêu cầu bản quyền cho hình thức đầu tue của
riêng mình. Mặt khác các nước thuộc địa bị thiếu ngoại tệ để trả cho
việc sử dụng máy móc và nguyên liệu được cấp bằng sáng chế. Các
yếu tố này phụ buộc chính phủ của các nước thuộc địa tạo điều kiện
cho sự xâm nhập của vốn nước ngoài vào thị trường trong nước để có
được công nghệ cần thiết và nguyên liệu cấp bằng sáng chế. Trong
điều kiện như vậy, Dos santos nói rằng “vốn nước ngoài đem lại nhiều
lợi thế: trong nhiều trường hợp, việc miễn kiểm soát ngoại hối đối với
nhập khẩu các ngành công nghiệp được cung cấp; cơ quan chính phủ
dùng tài trợ sẵn có để tạo điều kiện cho công nghiệp; nhiều khách
hàng lựa chọn các khoản vay từ ngân hàng nước ngoài được sử dụng
để tăng cường công nghiệp hóa.”
=>Hệ quả của việc này là dẫn tới sự phụ thuộc về công nghệ - công
nghiệp ở các nước kém phát triển.
Sự phụ thuộc công nghệ - công nghiệp:
* Sự phụ thuộc công nghệ - công nghiệp có ảnh hưởng gì đến cấu trúc
nề kinh tế của các nước kém phát triển?
Đầu tiên, sự phát triển ở các nước thế giới thứ 3 là một hình thức sao
chép cấp tính và xung đột giữa một bên là cơ cấu sản xuất truyền thống
trong lĩnh vực xuất khẩu nông nghiệp với một bên là ngành xuất khẩu
hiện đại trong lĩnh vực tài chính, công nghệ và kinh tế tập trung.
Thứ hai, với việc sử dụng vốn để phát triển các ngành công nghiệp
chuyên sâu và đã khai thác triệt để nguồn lao động. Tạo nên sự phận
hóa giàu nghèo sâu sắc.
Thứ hai, trong bối cảnh của một thị trường lao động địa phương giá rẻ
thì việc sử dụng triệt để nguồn lao động sẵn có kết hợp với sử dụng một

công nghệ nghiều vốn dẫn đến việc phân chia các mức lương khác
nhau. Tao nên sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc. Từ quan điểm Mác-xít,
Dos Santos nhãn hiệu này tập trung cao thu nhập một “ tỷ lệ khai thác
cao” (hoặc siêu khai thác) của lao động điện.
Thứ ba, cơ cấu sản xuất bình đẳng này đã áp đặt những giới hạn về sự
tăng trưởng của thị trường trong quá trình phát triển. Khả năng tiêu thụ
hàng hóa của thị trường bị giới hạn bởi sức mua của người tiêu dùng
mà ở đây chủ yếu là người lao động – những người bị giới hạn về khả
năng thanh toán. Ngoài ra, sự tăng trưởng của thị trường hàng hóa còn
bị giới hạn bởi do một phần lớn lợi nhuận và thặng dư của nền kinh tế
bị chảy ra nước ngoài.
Dos Santos kết luận rằng sự lạc hậu kinh tế của các nước kém phát triển
không phải do thiếu tích hợp đầu tư nghiên cứu, mà là do sự kiểm soát
độc quyền của vốn nước ngoài, và công nghệ nước ngoài. Tài chính –
công nghệ nước ngoài đã tác động mạnh mẽ dến cấu trúc sản xuất. Cụ
thể các tác động đến cấu trúc sản xuất là:
* Sự mất cân đối trong cấu trúc sản xuất( nhị nguyên ): Khu vực sản
xuất nông nghiệp xuất khẩu lạc hậu>< Khu vực tập trung công nghệ,
kinh tế - tài chính hiện đại.
* Tạo ra sự phân hóa sâu sắc về tiền lương, dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo sâu sắc.
* Sự mất cân đối trong cấu trúc sản xuất dẫn đến sự hạn chế phát triển
thị trường trong nước.
Amin: Tiến đến CNTB của các nước
Ngoại vi.
Nghiên cứu của Amin(1976) là lý thuyết về sự chuyển đổi từ các nước
ngoại vi sang tư bản trung tâm. Nó gồm những khẳng định chính sau:
• Tiến lên CNTB của các nước ngoại vi có sự khác biệt cơ bản với
việc tiến đến CNTB của các nước trung tâm.
Quá trình chuyển sang tư bản từ các nước ngoại vi khác nhiều so với việc

tiến đến chủ nghĩa tư bản ở cá nước trung tâm. Do sự hình thành các nhà tiền
tư bản của Chủ nghĩa tư bản trung tâm chủ yếu là gây ra những thụt lùi. Ví
dụ như: Loại bỏ những hàng hóa thủ công địa phương nhưng lại không có sự
thay thế bởi các sản phẩm công nghiệp nội địa. Amin cũng lưu ý rằng sự
khủng hoảng về đất nông nghiệp trong chiến tranh thế giới tạm thời lần thứ
ba là kết quả rõ rang của những sự thoái trào này.
• CNTB ở ngoại vi đặc trưng bởi sự méo mó của các hoạt động xuất
khẩu.
Tư bản ngoại vi được đặc trưng bởi sự bóp méo các hoạt động xuất khẩu.
Amin cũng chỉ ra rằng: “sự bóp méo đó xảy ra không phải là kết quả của thị
trường trong nước thiếu hụt mà là do khả năng sản xuất các sản phẩm cao
cấp của trung tâm trong mọi lĩnh vực”, điều này đã buộc các ngoại vi trở
thành nhà cung cấp các sản phẩm bổ sung cho việc sản xuất, đặc biệt là các
sản phẩm có lợi thế từ tự nhiên như sản phẩm nông nghiệp giàu chất xơ hay
khoáng sản. Cùng với sự bóp méo này, mức lương ở các khu vực ngoại vi
thường thấp hơn so với trung tâm.
• Sự bành trướng của các hoạt động không tạo ra của cải: thất
nghiệp, di cư nông thôn - thành thị mù quang, …
Một hình thức khác là sự bùng nổ của các khu vực kinh tế tại các ngoại vi.
Tại trung tâm, sự bùng nổ của khu vực kinh tế đem tới những khó khăn
trong duy trì giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, do đó phải
tiêu tốn nhiều tiên cho việc tiếp thị hàng hóa. Tuy nhiên, ở ngoại vi, sự bùng
nổ của các khu vực kinh tế chủ yếu là hệ quả của quá trình tư bản hóa và kết
quả là nạn thất nghiệp, di cư từ nông thôn lên thành thị, ….Theo Amin, sự
bùng nổ này không phát sinh ra vốn tích lũy trong nội bộ các nước ngoại vi.
• Nền kinh tế không có hệ số nhân do lợi nhuận bị chảy vào các
nước phát triển.
Nền kinh tế tại các nước ngoại vi không tạo ra số dư cho bản thân nền kinh
tế trong nước. Tại trung tâm nền kinh tế không bị chi phối bởi tư bản độc
quyền. Nhưng ở ngoại vi này, xuất khẩu bị chi phối bởi các nước xuất khẩu

đặt ra hiệu lực thầu. Thay vì thu lợi xuất khẩu thì lợi nhuận của các nước
ngoại biên lại chuyển đến các nước trung tâm để phục vụ để đẩy nhanh sự
phát triển của nước trung tâm.
• Sự khác biệt giữa các nước ngoại vi và các nước trung tâm khi bắt
đầu quá trình phát triển.
Amin cảnh báo rằng các nhà nghiên cứu không nên nhầm lẫn giữa các quốc
gia phát triển vì họ đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Điều này là do
các nước kém phát triển có sự phân biệt tính năng kết cấu sau đây:
(1)Sự không đồng đều mà điển hình là sự phân phối sản lượng ở các
nước ngoại vi.
(2)Điều chỉnh sản lượng sản xuất theo hướng phù hợp với nhu cầu các
trung tâm
(3)Kinh tế đặt dưới sự thống trị của các nước trung tâm thể hiện dưới
hình thức thương mại và sự phụ thuộc về tài chính.
• CNTB ở các nước ngoại vi không thể đạt được sự phát triển kinh
tế nếu không thách thức sự chi phối của các nước trung tâm.
Sự chi phối của các nước phát triển đã gây trở ngại cho các nước ngoại vi.
Nói cách khác, các nước ngoại vi không thể đạt được tăng trưởng nếu không
thách thức sự chi phối và thống trị của độc quyền nước ngoài và trung tâm.
=> Cuối cùng, các nguyên nhân giả định gây ra tình trạng kém phát triển ở
các nước ngoại vi được đưa ra tùy thuộc vào:
(1) Bản chất của việc hình thành tư bản dựa trên việc hình thành các nước
tiền tư bản trước đó
(2) Giai đoạn mà các nước ngoại vi ra đời.
Tuy nhiên, Amin đã không bỏ qua sự khác biệt giữa các nước ngoại vi, ông
khẳng định rằng tất cả chúng đều có xu hướng phát triển theo một mô hình
điển hình, đặc trưng bởi sự thống trị vốn nông nghiệp, vốn thương mại và
vốn trung ương. Sự thống trị của các quốc gia trung tâm với toàn bộ các
nguồn vốn trên đã tạo ra giới hạn cho sự phát triển của quốc gia tư bản ngoại
vi.

IV. Các giả định cơ bản
của trường phái sự phụ
thuộc.
Giống như trường phái hiện đại hóa, trường phái sự phụ thuộc cũng có
khá nhiều điểm bất đồng. Các thành viên đến từ nhiều ngành khoa học xã
hội, tập trung vào nghiên cứu các quốc gia khác nhau tại Mỹ, và có những
định hướng tư tưởng, giả thuyết nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, các thành
viên của trường phái sự phụ thuộc có chung một số giả định sau:
 Sự phụ thuộc là một quá trình phổ biến, đúng với tất cả các nước
thế giới thứ 3.
Sự phụ thuộc là xem như một quá trình rất chung chung, áp dụng cho
tất cả các nước thế giới thứ 3. Mục tiêu của các trường phụ thuộc là để phác
thảo một khuôn mẫu chung về sự phụ thuộc cho tất cả các nước thế giới thứ
ba trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản từ thế kỷ thứ XVI đến nay. Do đó, sự
khác nhau và lịch sử phức tạp của quốc gia ít được quan tâm.
 Sự phụ thuộc là do các điều kiện từ bên ngoài mang lại.
Phụ thuộc được hiểu là một điều kiện bên ngoài, có nghĩa là áp đặt từ
bên ngoài. Những trở ngại quan trọng nhất để phát triển quốc gia, không
phải là thiếu thốn, kỹ năng kinh doanh, hoặc các tổ chức dân chủ, mà là từ
bên ngoài của nền kinh tế quốc gia. Lịch sử bị phụ thuộc và sự bất bình đẳng
trong phân chia lao động quốc tế là những vật cản lớn nhất đối với sự phát
triển quốc gia của các nước Thế giới thứ ba.
 Sự phụ thuộc được phân tích chủ yếu dựa trên các điều kiện kinh
tế.
Phụ thuộc chủ yếu được phân tích như là một điều kiện kinh tế. Nó
được xem như là kết quả của dòng chảy thặng dư kinh tế từ các nước thế
giới thứ ba sang các nước tư bản phương Tây. Do đó các nước thế giới thứ
ba thường bị từ chối điều khoản của thương mại với các nước phía Tây.
 Sự phụ thuộc được xem như một bộ phận của quá trình phân cực
của nền kinh tế toàn cầu.

Phụ thuộc được coi như là một thành phần của sự phân chia khu vực
cảu nền kinh tế toàn cầu. Trên một mặt, dòng chảy thặng dư từ các nước thế
giới thứ ba sang cac nước phát triển trung tâm dẫn đến hai hệ quả song song.
Đó là tình trạng kém phát triển của các nước thế giới thứ ba và sự phát triển
của các nước phương Tây. Do đó kém phát triển ở ngoại vi và phát triển ở
trung tâm là hai khía cạnh chủ yếu của một quá trình đơn tích lũy vốn, dẫn
tới phân chia khu vực trong nền kinh tế toàn cầu.
 Sự phụ thuộc được xem như là đối lập với sự phát triển.
Cuối cùng, phụ thuộc được xem như không tương ứng với sự phát
triển. Liệu phát triển có thể xảy ra với các nước ngoại vi trong điều kiện vẫn
phụ thuộc hay không? Câu trả lời thường không có. Mặc dù phát triển nhỏ
có thể xảy ra trong quá trình chiến tranh thế giới, nhưng sự phát triển thực sự
ở ngoài vi thường không ổn định và kéo dài lâu.
V. Hàm ý chính sách của
trường phái Sự phụ thuộc.
• Định nghĩa lại thuật ngữ “Phát triển”: Phát triển là gì?
Triết học đã cho rằng: Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về
hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém đến hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, … Nhưng nếu hiểu sự vận động phát triển một cách biện
chứng toàn diện, sâu sắc thì trong tự bản thân sự vận động phát triển đã bao
hàm sự vận động thụt lùi, đi xuống với nghĩa là tiền đề, điều kiện cho sự vận
động đi lên, hoàn thiện.
Liệu có thể hiểu một cách đơn giản hơn phát triển phải chăng chỉ là tăng
trưởng Công nghiệp, tăng tổng sản lượng nền kinh tế, tăng năng suất?
Hay, phát triển là cải thiện điều kiện sống của mọi người dân ở các nước
ngoại vi(các nước Thế giới thứ ba)?
Vậy, các chương trình phát triển nên nhắm vào đối tượng nào?
Những người ủng hộ chính sách của trường phụ thuộc cảm thấy rằng có một
cần phải định nghĩa sự phát triển lâu dài. Nó nên có ý nghĩa nhiều hơn, phát
triển các ngành công nghiệp, tăng sản lượng, và năng suất. Thêm vào đó,

phát triển phải đi liền với việc cải thiện đời sống cho tất cả mọi người ở
ngoại vi. Vì vậy, không nên phát triển các chương trình phụ thuộc vào tầng
lớp và cư dân đô thị, cần cố gắng để đáp ứng nhu cầu nhân lực nông dân
nông thôn, những người thất nghiệp, và người nghèo. Bất cứ chương trình
phát triển có lợi cho chỉ một khu vực nhỏ tại đa số các vùng khổ cực đều là
không tốt.
• Càng có nhiều quan hệ với các nước trung tâm (các nước phát
triển Phương Tây) thì các nước ngoại vi (các nước TGT3) càng
không có lợi cho sự phát triển của mình.
Có vẻ như trường phái sự phụ thuộc xuất hiên được coi là đối lập với trường
phái hiện đại hóa. Trường hiện đại hóa đã đề xuất rằng các ngoại vi sẽ nhận
được nhiều hỗ trợ hơn( thêm viện trợ, công nghệ nhiều hơn, hiện đại hơn giá
trị) từ các nước phương Tây, trường phái sự phụ thuộc lập luộn rằng nó là có
hại cho một số nước ngoại vi có lien hệ nhiều hơn với các nước cốt lõi.
Trong thực tế, trường phái sự phụ thuộc khẳng định rằng ngoại vi càng có
nhiều liên hệ với các nước phát triển lại càng có hại. Kể từ kỷ nguyên của
chủ nghĩa thực dân, nên kinh tế chính trị của ngoại vi đã được hoàn toàn cơ
cấu lại cho phù hợp với nhu cầu của các nước đế quốc, từ đó dẫn đến sự kém
phát triển.
• Các nước TGT3 cần tự lực phát triển: Dựa vào tài nguyên của
mình, tự tìm ra con đường phát triển phù hợp, hướng tới sự độc
lập và tụ chủ tring phát triển đất nước.
Trường phái sự phụ thuộc cho rằng các nước ngoại vi nên cắt đứt quan hệ
với các nước trung tâm. Thay vì dựa vào viện trợ và công nghệ nước ngoài,
các nước ngoại vi nên áp dụng một mô hình tự chủ - dựa vào nguồn lực của
riêng mình và lập ra đường đi riêng của họ phát triển để đạt được độc lập và
phát triển quốc gia tự trị.
=> Liệu như vậy cắt bỏ mọi quan hệ với các nước khác trong quá trình phát
triển đất nước hay không?
Tự chủ tất nhiên không có nghĩa là cô lập hoàn toàn với các nước khác, tiểu

bang khác. Nó chỉ có nghĩa rằng một số nước ngoại vi nên không bị chi phối
bởi các nước trung tâm. Họ nên có quan hệ thương mại với các nước ngoại
vi khác một cách bình đẳng và cùng có lợi.
Từ quan điểm trường phụ thuộc, các tầng lớp cũ trong mỗi quốc gia rất có
thể không chịu chấp nhận như vậy. Lợi ích của các tầng lớp cũ quá chặt chẽ,
rang buộc với các nước ngoài nên họ sẽ không dễ dàng chấp nhận như vậy.
Kết quả là, các nhà nghiên cứu phụ thuộc có rất nhiều ý kiến rằng một cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể cần thiết cho một quốc gia để thoát khỏi
những tầng lớp cầm quyền cũ.
Từ quan điểm của trường phái phụ thuộc các tầng lớp cũ của một số nước
ngoại vi có nhiều khả năng sẽ không chấp nhận như vậy. Lợi ích của các
tầng lớp cũ quã chặt chẽ, rang buộc với nước ngoài nên họ sẽ không dễ dàng
chấp nhận như một lựa chọn. Kết quả là, các nhà nghiên cứu của trường phái
sự phụ thuộc đề xuất rất nhiều rằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có
thể cần thiết cho một quốc gia để thoát khỏi tầng lớp cầm quyền cũ. Theo lời
của Chilcote và Edelstein, “Phát triển đòi hỏi sự thay đổi sâu sắc về mối
quan hệ kinh tế, xã hội về chính trị trong việc lật đổ của thị trường và huy
động của dân cư trong nước trong một nỗ lực quốc gia theo định hướng. Vì
vậy, phát triển đòi hỏi phải xóa bỏ sự xâm nhập của nước ngoài, hỗ trợ hiện
trạng, và tạo ra một bối cảnh xã hội chủ nghĩa để phát triển”. Chỉ khi có một
nhóm quyền lực mới với nhiệm vù là để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nông
dân và người lao động thì các chính sách cấp tiến hòng cơ cấu lại sẽ được
thực hiện, điều này được thể hiện thông qua những kinh nghiệm của cuộc
cách mạng Trung Quốc và Cuba.
VI. So sánh Trường phái
Sự phụ thuộc với trường
phái HĐH.
Sự giống và khác nhau giữa Trường phái Sự phụ thuộc và Trường phái HĐH
như thế nào theo các khía cạnh sau?
• Sự giống nhau

Quan điểm hiện đại hóa
cổ điển
Quan điểm của sự phụ
thuộc cổ điển
Mục tiêu nghiên cứu Sự phát triển của thế giới thứ 3
Phương pháp luận Trừu tượng cấp cao, tập trung vào tiến trình chung
của sự phát triển
Khung lý thuyết( cấu
trúc học thuyết cực)
Truyền thống so với
hiện đại
Bên trong so với bên
ngoài
Đầu tiên, hai quan điểm cổ điển đều có sự giống nhau về sự nghiên cứu
mục tiêu: nó đều liên quan đến sự phát triển của thế giới thứ 3, và muốn
tìm ra những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thế giới thứ 3.
Thứ hai, hai quan điểm đều có sự giống nhau về phương pháp luận. Họ
bám chặt lý luận trừu tượng cấp cao, với hướng nhìn về tiến trình chung
của sự áp dụng phát triển đối với tất cả các quốc gia.
Thứ ba, hai quan điểm đều phát triển khuôn khổ hoc thuyết cực, mặc dù
quan điểm hiện đại hóa cổ điển có xu hướng“ truyền thống và hiện đại ”
trong khi đó quan điểm sự phụ thuộc cổ điển là” bên trong( mẫu quốc)
và bên ngoài( các nước phụ thuộc)”.
Mặc dù có sự giống nhau ở trên, hai quan điểm cổ điển này trong thực
tế vẫn có những điểm khác nhau về cơ bản.
• Sự khác nhau:
Quan điểm hiện đại
hóa cổ điển
Quan điển sự phụ thuộc
cổ điển

Nguồn gốc lý thuyển Lý thuyết tiến hóa và
chức năng luận
Chương trình ECLA về
tân học thuyết Mac
Nguyên nhân của vấn đề
thế giới thứ 3
Chủ yếu là nội bộ Chủ yếu là bên ngoài
Bản chất của những mối
liên kết các quốc gia
Nói chung là có lợi Nói chung là có hại
Dự báo hướng phát triển Lạc quan Bi quan
Giải pháp cho sự phát
triển
Thêm nhiều liên kết
với phương Tây
Giảm bớt những liên
kết, làm cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Đầu tiên. Chúng có nguồn gốc khác nhau. Quan điểm hiện đại hóa cổ
điển bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi thuyến tiến hóa của người châu Âu và
chức năng luận của người Mĩ, trong khi đó quan điểm sự phụ thuộc cổ
điển bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chương trình ELCA và tân học thuyết
Mác.
Thứ 2, với mối quan hệ với nguyên nhân của vấn đề thế giới thứ 3,
quan điểm hiện đại hóa cổ điển cung cấp sự giải thích nội bộ, chỉ ra
những đặc điểm như văn hóa truyền thống, thiếu đầu tư sản xuất, và sự
vắng mặt của động lực để tạo ra thành tích của những đất nước “ thế
giới thứ 3”. Quan điểm sự phụ thuộc cổ điển thì ngược lại, cung cấp sự
giải thích bên ngoài, nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa thực dân mới trên
những đất nước kém phát triển.

Thu 3, theo quan điểm hiện đại hóa cổ điển sự giao lưu giữa các nước “
thế giới thứ 3” và các nước phương Tây là có lợi. Từ quan điểm này,
các nước phương tây hỗ trợ các nước”thế giới thứ 3” phát triển. Mặt
khác, theo quan điểm sự phụ thuộc cổ điển, nhìn vào sự liên kết như là
một việc không tốt – các nước phương Tây khai thác những lợi ích từ
những nước” thế giới thứ 3”.
Thứ 4, dự đoán trong tương lai hướng phát triển, quan điểm hiện đại
hóa cổ điển nói chung là lạc quan. Với sự kiên nhẫn, các nước Thế giới
thứ 3 cuối cùng cũng bắt kịp với cá nước phương tây và từng bước hiện
đại hóa.Quan điểm của sự phu thuộc cổ điển liên quan đến tương lai của
các nước thế giới thứ 3 là bi quan. Nếu trong thực tại sự bóc lột không
dừng lại, các nước thế giới thứ 3 sẽ trở nên ngày càng phụ thuộc vào
các nước phương Tây, đứng đầu trong danh sách các nước kém phát
triển và phá sản.
Và cuối cùng, giải pháp cho sự lạc hậu của các nước thế giới thứ ba,
quan điểm hiện đại hóa cổ điển ủng hộ sự liên kết với các nước phương
Tây, chẳng hạn như viện trợ nước ngoài, thêm nhiều sự trao đổi văn
hóa, và nhiều chuyển giao công nghệ. Quan điểm sự phụ thuộc cổ điển
hoàn toàn khác về phương pháp tiếp cận. Họ ủng hộ giảm đi sự liên kết
để các nước thế giới thứ 3 có thể đạt được cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa có thể yêu cầu để đạt được mục tiêu.

×