Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

báo cáo thực trạng nợ công và vấn đề tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.47 KB, 12 trang )

THỰC TRẠNG NỢ CÔNG
VÀ VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Đỗ Thị Thúy Nga, K14-NHTMC
Bùi Hoàng Yến, K15-TCDNC
Mai Thị Nhì, K15-TCDND

1. NGUN NHÂN CỦA NỢ CƠNG Ở VIỆT NAM
Có nhiều ngun nhân dẫn đến nợ cơng. Tình trạng nợ cơng hiện nay ở nhiều
nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản như: (i) Sự kiểm soát chi tiêu và quản
lý nợ của Nhà nước kém chặt chẽ và hiệu quả, (ii) Tình trạng thất thốt, lãng phí trong
đầu tư và chi tiêu, (iii) Tệ tham nhũng gia tăng ở nhiều nước, (iv) Các nguồn thu (chủ
yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải
cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của
hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và
các thỏa thuận thương mại khác mà họ tham gia và (v) Vấn đề quản lý các nguồn thu,
nhất là thuế, gặp khơng ít khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham
nhũng, hối lộ, kiểm sốt khơng chặt và xử lý khơng nghiêm của các cơ quan chức
Đối với Việt Nam có thể khái quát những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến nợ
cơng bao gồm những lý do sau:
1.1. Mơ hình phát triển cịn dựa nhiều vào đầu tư cơng và nợ cơng
Ngun nhân chính gây ra nợ cơng Việt Nam ở mức cao được cho là mơ hình
tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển dựa quá nhiều vào tăng vốn đầu tư.
Trong những năm vừa qua, mơ hình tăng trưởng của Việt Nam còn dựa nhiều
vào đầu tư (đặc biệt là đầu tư công), bên cạnh các yếu tố khác. Kết quả là tỉ lệ đầu tư
luôn ở mức khá cao, khoảng 40 - 42% GDP, thậm chí cịn lên tới 46,5% GDP vào năm
2007. Trong khi đó, hiệu quả mang lại từ đầu tư ngày càng giảm sút. Hệ số ICOR của
Việt Nam cao hơn đáng kể so với các nước có cùng trình độ phát triển. Chính vì vậy,
lợi ích từ tăng trưởng và tăng thu ngân sách chưa bù đắp được các chi phí liên quan
đến gia tăng đầu tư cơng và nợ cơng, ít nhất là trong ngắn hạn.
1.2. Thâm hụt ngân sách Nhà nước
Nợ cơng phát sinh do các cấp chính quyền chi tiêu nhiều hơn thu, nên phải vay


nợ để bù đắp chênh lệch thu - chi, là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách.
18 | P a g e


Báo cáo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 "Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ
cấu" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố cho rằng thâm hụt ngân sách và nợ công
của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua. Theo báo cáo này, thâm hụt ngân sách
diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng.
Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình
trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi,
lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 - 2012. Năm 2009, con số thâm hụt ngân sách
không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo của Bộ Tài chính là 3,7% GDP, trong khi
đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP. Trung bình trong hai năm 20092010, con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam thuộc diện cao nhất so với các nước
trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con số này gấp khoảng 6 lần so với con số
tương ứng của Indonesia, gấp 2 lần so với Thái Lan.
Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do
số nợ vay được sủ dụng vào những mục đích khơng sinh lợi nên tồn bộ số chi trả nợ
gốc phải trơng v phát hành nợ mới, đặc biệt là vay trong nước và ngân sách Nhà
nước Việt Nam đang đứng trước vịng xốy nợ nần với quy mơ Chính phủ ngày càng
lớn.
1.3. Đầu tư cơng lớn, dàn trải và kém hiệu quả
Đầu tư công và đầu tư của DNNN có thể tác động trực tiếp đến nợ cơng thơng
qua kênh: (i) Chính phủ đi vay để đầu tư; (ii) Chính phủ vay về cho vay lại; (iii) Chính
phủ bảo lãnh cho DNNN đi vay để đầu tư; và (iv) chính quyền địa phương vay trực
tiếp hay gián tiếp để đầu tư tại địa phương. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam các thành
phần đầu tư cơng này khơng được bóc tách chi tiết và thống kê đầy đủ hàng năm.
Trong giai đoạn từ 2001-2010, tổng đầu tư toàn xã hội của Việt Nam thuộc vào diện
cao nhất thế giới, trung bình đạt 40,8% GDP và có tốc độ tăng 18,7% mỗi năm. Trong
đó, tỉ trọng đầu tư cơng, mặc dù có xu hướng giảm trong vài năm gần đây, nhưng vẫn

đứng ở mức xấp xỉ 40% trong tổng đầu tư toàn xã hội. Với việc tiết kiệm trong nước
và tiết kiệm quốc gia chỉ chiếm lần lượt khoảng 28,5 và 32,5% GDP, thì sự gia tăng
nhanh của tổng đầu tư tồn xã hội, trong đó có đầu tư cơng, đã tạo ra sự chênh lệch lớn
giữa tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế. Sự chênh lệch này dẫn đến sự gia tăng nhanh
của vay nợ nước ngoài nhằm bù đắp cho khoảng trống tiết kiệm - đầu tư trong những
năm vừa qua.
1.4. Rủi ro từ khối DNNN
Được định hướng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN đã nhận
được nhiều sự ưu đãi của Chính phủ ở mọi góc độ tiếp cận tín dụng, đất đai, khai thác
tài nguyên, tiếp cận thị trường, bảo hộ độc quyền, v.v… đến các hậu thuẫn về mặt
19 | P a g e


chính trị khác. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp này đã có những đóng góp nhất
định trong q trình cơng nghiệp hóa và tạo việc làm ở Việt Nam, đặc biệt là trong
những năm đầu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, sự mở rộng nhanh chóng về quy
mơ lẫn sự tham gia tràn lan trong mọi ngành nghề gần đây của các DNNN, kết hợp với
việc thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch đã khiến cho công tác quản lý
các DNNN bị buông lỏng, hiệu quả kinh tế của các doanh nhiệp này sa sút trầm trọng
gây rủi ro lớn cho nền kinh tế. Bên cạnh hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số
ICOR cao, DNNN còn thể hiện khả năng yếu kém trong quá trình tạo việc làm cho nền
kinh tế. Cụ thể, mặc dù chiếm xấp xỉ 40% tổng đầu tư cả nước nhưng khu vực nhà
nước chỉ tạo ra khoảng 10% việc làm cho toàn xã hội. Trong khi đó, khu vực kinh tế
ngồi nhà nước với 35% tổng đầu đầu tư nhưng lại tạo ra tới 87% việc làm cho toàn
nền kinh tế. Đặc biệt, trong số các DNNN thì các tập đồn kinh tế nhà nước đã nhận
được sự hậu thuẫn lớn của Chính phủ với kì vọng đưa chúng trở thành những mũi
nhọn của nền kinh tế. Tuy nhiên, thay vì tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt
lõi, nhiều tập đồn lại nhanh chóng phát triển thành mạng lưới chằng chịt hàng trăm
các tổng công ty, công ty con và công ty liên doanh, liên kết. Các tập đoàn này thực
hiện đầu tư dàn trải vào các ngành nghề kinh doanh không phải thế mạnh của mình,

bao gồm đầu tư tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, khai thác khoáng
sản, xây dựng, thương mại, khu nghỉ dưỡng, v.v… mà trong đó, Tập đồn Cơng
nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) là một ví dụ điển hình.
1.5. Khả năng quản lý bộc lộ nhiều điểm yếu kém
Việt Nam hiện chưa có một ủy ban chuyên trách quản lý về nợ công đã dẫn đến
việc thiếu tập trung, thậm chí thiếu minh bạch trong quản lý, sử dụng vốn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tham nhũng. Điều này làm gia tăng lo ngại về việc nợ cơng có
thể trở thành mối đe dọa thứ hai, sau lạm phát.
Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong vấn đề nợ cơng cịn chưa rõ
ràng. “Ở Việt Nam có cái rất đặc biệt, là đơi khi người đi vay không phải là người trả
nợ, và người trả nợ không phải là người đi vay” nên “ Các đầu mối về quản lý nợ cơng
khơng có, dẫn đến tình trạng trách nhiện trong quản lý nợ cơng vẫn chưa rõ” (Chủ tịch
Hội Kế tốn và Kiểm tốn Đặng Văn Thanh)
Khu vực Chính phủ chưa được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu
vực cơng và phần cịn lại của nền kinh tế. Chính sách và vai trị quản lý của khu vực
cơng chưa được công khai cụ thể. Do quản lý nợ công chưa chặt chẽ nên tỷ lệ thất
thốt của các cơng trình đầu tư nhà nước được thừa nhận khơng chính thức là từ 15%
đến 45%. Với số nợ nước ngoài thống kê chính thức là 29 tỷ USD, có thể thấy phần
thất thốt tài sản Nhà nước là khơng nhỏ, từ 4 tỷ USD đến khoảng 10 tỷ USD.
20 | P a g e


2. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ
CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.Thực trạng nợ công
Thực hiện chiến lược huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, trong
nhiều năm qua Chính phủ, một số Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các doanh nghiệp được
chính phủ bảo lãnh đã tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngồi nước thơng qua
hình thức vay nợ công. Các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới đã làm nóng lên
tình hình nợ cơng trong nước, trong đó có ba vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là quy

mơ, tính an tồn và tài trợ nợ cơng. Theo luật quản lí nợ cơng của Việt Nam, nợ cơng
bao gồm nợ của chính phủ, nợ của chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa
phương. Trên đồng hồ đo nợ toàn cầu của The economist, tính đến ngày 12/10/2013,
nợ cơng của Việt Nam là 76,5 tỷ USD tăng 11,8% so với cùng kì năm ngối. Trung
bình mỗi người dân Việt Nam đang gánh 849.41 USD nợ, chiếm 48,6% GDP (Năm
2003, nợ công Việt Nam là 14,4 tỷ USD, bình quân 177 USD mỗi người). Như vậy chỉ
trong một thập kỉ, tổng nợ đã tăng lên gấp 5 lần. Nợ trên GDP ở thời điểm đó cũng đã
gần 40%.
2.2. Đánh giá hiệu quả quản lý nợ cơng
2.2.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, thể chế chính sách về nợ đã có bước đột phá với việc Quốc hội đó
ban hành Luật quản lí nợ cơng và phê duyệt của Chính phủ về “Chiến lược nợ cơng và
nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030”.
Nhằm khắc phục những nhược điểm về khung pháp lí quản lí nợ cơng đang tồn
tại, Luật Quản lí nợ cơng ra đời đã tạo ra những thay đổi rõ rệt. Lần đầu tiên Việt Nam
có luật điều chỉnh chuyên biệt về lĩnh vực nợ công, ghi nhận một cách tổng thể các
công cụ quản lí nợ cơng. Luật Quản lí nợ cơng qui định nguyên tắc Chính phủ thống
nhất quản lí nhà nước về nợ công từ vay, giám sát sử dụng vốn vay đến trả nợ và đảm
bảo an toàn nợ theo Chiến lược nợ dài hạn và Chương trình quản lí nợ chung hạn.
Cùng với đó, trong “Chiến lược nợ cơng và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011
– 2020 và tầm nhìn năm 2030” đã đạt được bước tiến quan trọng khi quy định việc huy
động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an tồn về nợ cơng, nợ
Chính phủ, nợ nước ngồi của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; chuyển
đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần huy động vốn vay trong nước, giảm dần mức độ
vay nước ngồi và hạn chế bảo lãnh Chính phủ đồng thời Chính phủ thống nhất việc
quản lí huy động, phân bổ, trả nợ và quản lí nợ cơng, nợ nước ngồi an tồn hiệu quả.
Theo đó, nợ cơng (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương) đến năm 2020 khơng q 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ
khơng q 55% GDP và nợ nước ngồi của quốc gia khơng q 50% GDP. Luật Quản
21 | P a g e



lí nợ cơng và “Chiến lược nợ cơng và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 –
2020 và tầm nhìn năm 2030” đã cho thấy hướng đi đúng đắn của Quốc hội và Chính
phủ trong việc đề ra chính sách về nợ cơng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối
NSNN.
Nợ công giai đoạn 2006 - 2012 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng 5% GDP.
Ngoài ra, nhiều dự án cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện
môi trường, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, các dự án tăng trọng quốc gia... đều
được đầu tư bằng nguồn vốn vay công.
Thứ ba, các chỉ tiêu về nợ cơng và nợ nước ngồi của quốc gia vẫn nằm trong
giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Việc xử lí nợ quá hạn các khoản nợ cũ thông qua Câu lạc bộ Paris, Luân Đôn…
là một thành công lớn, đưa tỷ lệ tổng số nợ nước ngoài từ mức rất cao, gần 150% GDP
năm 1993 trở về mức an toàn 41,5% vào năm 2011; nghĩa vụ trả nợ tương ứng từ mức
195,8% xuống còn khoảng 4,5% so với tổng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời làm giảm
đáng kể nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam, tạo điều kiện khai thơng quan hệ tài chính – tín
dụng với các tổ chức quốc tế và các Chính phủ nước ngồi.
Thứ tư, các hình thức huy động vốn vay ngày càng đa dạng, linh hoạt, tạo tiền
đề cho sự hình thành và phát triển đồng bộ thị trường tài chính.
Bên cạnh việc huy động vốn ưu đãi ODA, vay thương mại nước ngoài, vay qua
phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước là cơng cụ huy động vốn có hiệu quả của
nhà nước. Mặt khác, trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành trái phiếu quốc tế đợt 1
với tổng trị giá 750 triêu USD dành cho các dự án đóng tàu, đây là hình thức tương đối
mới ở Việt Nam. Ngoài việc trực tiếp phát hành nợ, trong thời gian qua Chính phủ đã
thực hiện cấp bảo lãnh Chính phủ cho các doanh nghiệp vay vốn.
Thứ năm, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng; đặc biệt những năm gần đây tỷ giá
đồng Việt Nam và đồng đô la tương đối ổn định; Nhật Bản nới lỏng chính sách tiền tệ
nên đồng yên yếu đi, chúng ta sẽ có lợi rất nhiều trong chính sách tỷ giá, giảm thiểu rủi

ro.
2.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, chính sách sử dụng nợ công không hiệu quả.
Các khoản vốn vay chủ yếu được sử dụng trong khu vực đầu tư công, mặc dù
được đầu tư vốn rất lớn nhưng nó khơng mang lại hiệu quả biểu hiện bởi chỉ số ICOR
rất cao. Sự thiếu hiệu quả chủ yếu đến từ các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là khu
vực được Chính phủ bảo lãnh. Các doanh nghiệp Nhà nước thường đầu tư vào các lĩnh
vực rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khốn… mà khơng chú
22 | P a g e


trọng đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chính. Sự khơng hiệu quả này đang
đe dọa tính an tồn của tồn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế, bởi các doanh nghiệp
nhà nước đang chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng của các NHTM. Chưa kể, với sự
cạnh tranh khơng bình đẳng, các doanh nghiệp Nhà nước đã gây sức ép không nhỏ lên
các doanh nghiệp ngồi nhà nước, góp phần làm méo mó cơ chế thị trường và kìm
hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Sự phối hợp không chặt chẽ, nhiều thủ tục giữa các cơ quan liên quan khiến tiến
độ giải ngân vốn chậm cũng là nguyên nhân khiến hiệu quả đầu tư công thấp. Công tác
kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước không thường xuyên, chưa liên
tục nên không đánh giá được hết các sai phạm trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế,
đấu thầu, sử dụng vốn sai mục đích, quyết tốn sai gây thất thoát lớn lượng vốn đầu tư,
hiêu quả đầu tư thấp.
Thứ hai, chưa tận dụng tối đa nguồn lực từ thì trường chứng khốn.
Thị trường thứ cấp của trái phiếu Chính phủ dường như khơng phát triển, khối
lượng giao dich rất ít. Ngay cả khi TTCK sơi động thì khối lượng giao dịch cũng chỉ
chiếm khoảng 3 – 4% tổng giá trị giao dịch thị trường và chiếm khoảng 6 – 7% tổng
giá trị trái phiếu được niêm yết trên TTCK. Do đó tính thanh khoản của trái phiếu
Chính phủ trở nên kém đi, mặc dù đây là loại công cụ tài chính có độ an tồn cao nhất
nhưng nó chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch chứng khoán.

Việc hoạch định mục tiêu CSTT, CSTK và quản lí nợ cơng trong dài hạn chưa
có sự thống nhất. Các mục tiêu về tăng trưởng, lam phát thường dựa vào kết quả trong
năm hiện tại và các năm trước do vậy ít có sự dự báo về những biến động bất thường
trong tương lai. Thực tế cho thấy, Chính phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát trong
thời gian vừa qua nhưng mức vay nợ của Chính phủ chỉ làm rất ít, cùng với đó là tăng
lương, thâm hụt NSNN, thâm hụt cán cân thương mại. Khi thâm hụt tăng cao, thì mục
tiêu của CSTT và CSTK sẽ trở nên mâu thuẫn, hệ quả tất yếu dẫn tới nợ cơng tăng cao.
Trong khi đó, sự phối hợp giữa CSTT và quản lí nợ cơng trong ngắn hạn chưa
đem lại hiệu quả. Trong giai đoạn 2009 – 2011, sự bất ổn của tỉ giá dẫn đến áp lực
tăng gánh nặng nợ và chi phí dịch vụ nợ cho các khoản nợ nước ngoài.
Thứ ba, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán.
Chẳng hạn, đối với cấp Bộ, ngành: Theo Luật Quản lý nợ công thì Bộ Tài chính
giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả các khâu từ
xây dựng mục tiêu, định hướng huy dộng, quản lý và sử dụng vốn vay và quản lý nợ
công). Nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại được Chính phủ giao cho việc
huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên khâu huy động lại không gắn kết với
nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt khác, Bộ Tài chính là đơn vị chủ
trì xây dựng hạn mức vay nước ngồi, bao gồm cả hạn mức tự vay, tự trả của doanh
23 | P a g e


nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN. Như vậy, rõ ràng từ kênh huy động, trả
nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với nhau.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
3.1. Xuất khẩu giảm
Những số liệu tính tốn từ mơ hình ước lượng cho thấy, tình trạng nợ cơng sẽ
có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức
suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%)
và Anh (1,9%). Vì vậy, nếu khơng có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất
khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.

3.2. Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lại cao sẽ bất lợi về chi
phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung
ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự
phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản
tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh):
0,5%; Nhật Bản: 0,1%. Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay
vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm
với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.Nếu tính đến lạm
phát ước tính cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận
trên 24-27%, là mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các
ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).
3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm
Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ
hưởng lợi do nguồn vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà
đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc
gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hồn
tồn khơng được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự
chênh lệch q lớn về trình độ cơng nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu
Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.
3.4. Giá vàng bùng nổ
Các nhà đầu tư đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc
khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng. Cùng với đó, nợ cơng Việt Nam tăng cao,
làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều
này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá
nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc.
24 | P a g e


Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi

xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt
hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu
tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu
tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái
phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
3.5. Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên
Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triền miên đang bị các tổ chức
tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp
(321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng
vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
3.6. Biến động tỉ giá hối đối sẽ rất khó lường
Cuộc khủng hoảng nợ cơng thế giới đã tạo ra những biến động khó lường về tỉ
giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do
tính an tồn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm
trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD. Trong tháng 6, tỉ giá USD/Euro chỉ
còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro
nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như
cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Với cơ cấu nợ công của Việt
Nam nghiêng về nợ nước ngồi nhiều thì ảnh hưởng của tỉ giá tới khả năng hồn trả
vốn khi quản lý nợ cơng là cao, bởi lẽ :

Về thời hạn, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn
thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỉ giá là cao.

Rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị
trường. Nếu như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường
quốc tế để thực hiện cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đơla hố và tạo áp
lực lên tỉ giá;

Khả năng kiềm chế lạm phát, khi tính tốn tỉ giá thực và sức mua ngang

giá của tiền đồng vào từng thời kỳ. Vì vậy, giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo
hạn vốn vay nước ngoài sẽ chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý
vốn vay khơng có hiệu quả. Nếu chỉ nhìn vào các số liệu được cơng bố về nợ cơng thì
hiện nay sức ép về nợ công của Việt Nam chưa phải là đáng ngại với phần lớn là vốn
vay trung dài hạn, lãi suất thấp, vốn vay ODA nhiều, vốn vay có lãi suất cố định chiếm
phần lớn. Song, điều này cũng khơng nói lên rằng mức độ nợ cơng của chúng ta hiện
nay là vẫn ở ngưỡng an toàn trong điều kiện số liệu thống kê chưa sát thực và cơ sở
tính tốn chưa chuẩn mực. Vấn đề quan trọng trong quản lý nợ công là nguồn vốn
dùng để trả nợ thế nào và việc sử dụng nợ công ra sao.Điều đáng quan ngại hơn là vấn
25 | P a g e


đề sử dụng nợ công ở Việt Nam. Chúng ta đã từng biết bài học quản lý vốn ODA của
PMU 18 và hệ quả của nó. Mục tiêu sử dụng vốn ODA là đầu tư vào cơ sở hạ tầng với
thời hạn dài, hoàn vốn lâu, quản lý vốn qua nhiều cấp. Mặt khác, cơ chế quản lý nợ
công của Việt Nam còn chồng chéo giữa nhiều cơ quan chức năng, khả năng quản lý
nợ, nhất là của chính quyền địa phương và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, cịn
nhiều bất cập. Vì vậy, nếu khơng xem xét quản lý nợ cơng nghiêm túc thì tác động của
nó tới nền kinh tế mai sau sẽ không phải là nhỏ, nhất là kinh tế Việt Nam được đánh
giá là có độ mở cao trên thế giới.

4. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NỢ CƠNG,THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
4.1. Ổn định chính sách tài khóa, cân đối thu chi cơng, hạn chế vay nợ
nước ngoài và đảm bảo cho thâm hụt ngân sách ở mức hợp lý
4.1.1. Quản lý chặt chẽ chi tiêu công và thâm hụt ngân sách
Cần quan tâm thực hiện thắt chặt công khố, thực hành tiết kiệm và chi tiêu công
hợp lý, thận trọng trong những dự án đầu tư quy mô lớn tiêu tốn một lượng lớn vốn từ
những khoản nợ nước ngoài, bởi hiện nay, Việt Nam đang có q nhiều dự án quy mơ
lớn, như mở rộng đô thị, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, đường sắt cao tốc Bắc Nam…

4.1.2. Cân đối đầu tư cơng
Vai trị của Nhà nước trong đầu tư cần tập trung tạo động lực cho phát triển
kinh tế thị trường, xây dựng thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng. Tuy nhiên, trong phát
triển hạ tầng, xu thế của các nước là rút dần các doanh nghiệp công hữu trong các lĩnh
vực độc quyền tự nhiên như giao thông vận tải, bưu chính viễn thơng, năng lượng...
mà hướng đầu tư công sang phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, tạo đòn bẩy để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng tri thức, xanh, sạch, bền vững về môi trường và
xã hội.
4.1.3. Đảm bảo minh bạch các hoạt động thu chi
Mối quan hệ giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp công cũng cần
được minh bạch rõ ràng. Đặc biệt, cần có sự rõ ràng trong việc làm thế nào lợi nhuận
thu được từ các tổ chức sự nghiệp có thể đóng góp cho Chính phủ. Những báo cáo tài
chính hằng năm của các tổ chức này cần phải cơng khai về lợi nhuận và phần sẽ đóng
góp vào ngân sách nhà nước, thông tin này cũng cần được ghi lại trong báo cáo hằng
năm về ngân sách nhà nước. Tương tự, các nguồn chi tiêu của Chính phủ nhằm phục
vụ lợi ích của các tổ chức cơng cần phải được công khai trong báo cáo về ngân sách
nhà nước, cũng như báo cáo tài chính hằng năm của các tổ chức này.
26 | P a g e


4.1.4. Cân đối mơ hình phát triển kinh tế
Việt Nam là một nước đang phát triển, nên có tỷ lệ đầu tư cao, thường xấp xỉ
40% GDP trong khi chỉ có 27% - 30% GDP là nguồn vốn tiết kiệm trong nước, cịn lại
hơn 10% nguồn vốn bên ngồi (FDI, ODA, những khoản vay khác). Đây là một tỷ lệ
rất cao so với trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Mơ hình tăng trưởng
dựa q nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới
ngưng trệ. Do đó, giảm lượng vốn đầu tư từ bên ngoài trong cấu trúc vốn nhằm giảm
sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy phát triển dựa trên đầu tư có hiệu
quả là cần thiết trong mơ hình phát triển kinh tế của Việt Nam.
4.2. Khắc phục tình trạng quan liêu,tình trạng trốn lậu thuế

4.2.1. Thúc đẩy vai trị độc lập của các cơ quan phụ trách về quản lý an ninh
tài chính và tiền tệ
Các cơ quan đó phải được quản trị một cách minh bạch, không được phép phá
vỡ các tiêu chí, ngun tắc an tồn, và phải có tiếng nói với trọng lượng đáng kể để
khơng bị áp đặt bởi ý chí của người điều hành chính sách tài khóa, vốn ln chịu sức
ảnh hưởng đáng kể từ các sức ép chính trị, ví dụ như tư duy nhiệm kỳ, hay sự vận
động từ các nhóm lợi ích (dù có thể khơng nhất thiết gắn với ý nghĩa tiêu cực).
4.2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế,luật pháp
Cần tiếp tục xây dựng,hồn thiện chính sách pháp luật thuế và các văn bản pháp
luật có liên quan,sao cho đảm bảo tính rõ ràng,minh bạch,chặt chẽ,hạn chế tối đa các
“kẽ hở” có thể trốn thuế,đồng thời phải phù hợp với các yêu cầu hội nhập quốc tế.Hệ
thống thuế cần được cải cách bảo đảm các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả,
công bằng và minh bạch. Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp
lý. Tuy nhiên,mức độ hợp lý này phụ thuộc rất nhiều vào q trình cắt giảm chi tiêu
cơng. Gánh nặng thuế quá cao sẽ khiến cho hệ thống thuế kém hiệu quả do nó khuyến
khích việc trốn thuế và bóp méo sự phân bổ nguồn lực. Hệ thống thuế và phí cần được
rà soát tránh sự chồng lên nhau. Các sắc thuế cần được điều chỉnh nhằm bảo đảm an
sinh xã hội cho người thu nhập thấp, khuyến khích tiết kiệm và hạn chế tiêu dùng, đặc
biệt là hàng tiêu dùng xa xỉ nhập khẩu.
4.3. Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ
Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng. Phối hợp giữa CSTK và CSTT cần được hiểu là phải đảm
bảo giải quyết các tác động của hai chính sách tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế vĩ mô
trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, hai chính sách phải phối hợp nhằm đạt
được các mục tiêu của từng chính sách một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá.
27 | P a g e


Trong dài hạn, hai chính sách phải phối hợp để đảm bảo được lợi ích cân bằng giữa

mục tiêu của từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm
phát. Kinh nghiệm quốc tế và các nước Đông Âu cho thấy cần phải xác lập tính độc
lập của ngân hàng trung ương trong vận hành chính sách tiền tệ. Việc điều tiết tỷ giá,
lãi suất, lạm phát là những công cụ vĩ mô quan trọng cần ổn định và dự báo được.
Đồng thời, ngân hàng trung ương cần tăng cường các biện pháp, chế tài nhằm kiểm
soát, cảnh báo rủi ro của hệ thống ngân hàng, hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế trong
quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Chính sách tài khóa và ngân sách, ngồi
việc tăng cường hiệu quả thu chi, bớt gánh nặng cho doanh nghiệp, cũng cần minh
bạch, dự báo được để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.
4.4. Thực hiện tốt chính sách nợ cơng
Cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính sách là gì
và chính sách đó được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học nào. Cần bổ sung quy
định để định nghĩa chiến lược nợ theo những khuyến nghị của các chuyên gia WB và
IMF, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đồng thời, phải quản
lý chặt chẽ, công khai, minh bạch các khoản nợ của các ngân hàng thương mại, nhằm
khơng chỉ khai thơng tín dụng mà cịn tránh rủi ro làm gia tăng nợ cơng như những
diễn biến hiện nay ở EU.
4.5.Cân có cái nhìn đánh giá chính xác kịp thời về tính hình nợ cơng
Mức nợ cơng, nhất là nợ nước ngồi của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu
đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ, vì rõ rằng đã ở chấp chới dưới mức cảnh
báo an toàn của WB như trên đã nêu; vấn đề càng nhạy cảm hơn trong bối cảnh khủng
hoảng nợ cơng đang bao phủ tồn cầu và đe dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào
vịng xốy khủng hoảng tồi tệ mới vơ tiền khoáng hậu… Cần nhận thức rõ rằng, nếu
khủng hoảng nợ cơng xảy ra, Việt Nam sẽ phải tự mình vượt qua mà khó trơng cậy
vào sự cứu trợ từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế
như chuyện của EU hiện tại.
Cùng với đó, Việt Nam cần nhanh chóng chuẩn hóa hệ thống thống kê nợ công
theo thông lệ quốc tế để nắm bắt được thực chất vấn đề nợ công hiện nay và chiều
hướng sắp tới; tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ cơng, hình thành cơ quan
quản lý nợ công thống nhất; về trung và dài hạn, tăng cường tính bền vững của nợ

cơng phải gắn với q trình tái cơ cấu đầu tư cơng, tài chính cơng và tái cấu trúc khu
vực doanh nghiệp nhà nước để giảm bớt gánh nặng ngân sách; thay đổi quan điểm tiếp
cận tính bền vững nợ cơng theo hướng chất lượng chính sách và thể chế phát triển sẽ
quyết định năng lực trả nợ của một quốc gia; thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng bền
vững; phát triển nội lực nền kinh tế.
4.6. Thực hiện hiệu quả quản lý nợ công
28 | P a g e


Để đánh giá chính xác thực trạng và đề xuất được các chiến lược quản lý nợ
phù hợp, việc hạch tốn ngân sách và nợ cơng phải được thực hiện một cách minh
bạch theo chuẩn quốc tế. Các khoản chi để ngoại bảng phải được tuyệt đối tránh. Các
thước đo thâm hụt ngân sách loại trừ những khoản thu kém bền vững và thu từ bán tài
sản cũng cần được tính tốn thêm để có thể đánh giá được chính xác thực trạng tài
khóa hiện tại. Ngồi ra, các gánh nặng ngân sách phát sinh trong tương lai, ví dụ như
chi trả lương hưu hay bảo hiểm y tế, cũng cần được đưa vào các dự báo về thâm hụt
ngân sách nhằm có được bức tranh chính xác hơn về triển vọng nợ công trong trung và
dài hạn. Do rủi ro tiềm ẩn của nó đối với nợ cơng, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà
nước cũng cần phải được tính tốn, phân tích và báo cáo đầy đủ bên cạnh định nghĩa
nợ công hiện nay ở Việt Nam. Việc phân tích và đánh giá nợ của doanh nghiệp nhà
nước nên được coi là một phần không thể tách rời trong các báo cáo về nợ công của
Việt Nan.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo nghiên cứu RS-05-NXB Tri Thức, “Nợ cơng và tính bền vững ở Việt
Nam: Q khứ, hiện tại và tương lai”..
2. Website:
: Tiểu luận Nợ công - mối lo của kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây.
: Nguyên nhân nợ công - Phần đầu.

: Nợ công Việt Nam và những ẩn số

29 | P a g e



×