LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, sù giao lưu, luân
chuyển các dòng vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng
quan trọng đối với đầu tư và phát triển đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của Việt Nam thời kì 2006-2010 đã xác định mục tiêu tổng quát là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự
phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức nhằm
sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020; mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 7,5-8%/năm. Để đạt được
mục tiêu đó, chính phủ dự kiến phải huy động khoảng 140-150 tỉ USD cho
đầu tư phát triển, trong đó, nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm trên 35%.
Có thể nói, hiện nay, Việt Nam đang rất chú trọng tới thu hót ngoại lực, trong
mối liên kết với phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước.
Mặt khác, kinh nghiệm cho thấy, là mét trong những quốc gia phát triển
nhất trên thế giới với tiền lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Nhật Bản đóng vai trò quan trọng
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt ở các quốc
gia đang phát triển. Hơn nữa, với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp
tác suốt hơn 30 năm trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong
nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt
Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong
nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là
thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai.
Do đó, việc thu hót nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
bền vững của Việt Nam nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Đặc biệt, có lẽ chưa có thời điểm nào nh hiện nay, Việt Nam đang được
các công ty Nhật Bản hết sức quan tâm chú ý, được đánh giá cao có thể trở
thành điểm đến trong chiến lược dài hạn “Trung Quốc+1” của họ. Trong bối
cảnh này, nếu Việt Nam không tích cực căn cứ vào những biến động của dòng
vốn này trong quá khứ, kết hợp với những điều kiện hiện tại, nghiên cứu giải
pháp chủ động đón làn sóng đầu tư từ Nhật Bản thì tương lai gần, một mặt, có
thể làn sóng này sẽ chuyển hướng khác, mặt khác, khi các nhà đầu tư Nhật
Bản ồ ạt kéo sang Việt Nam mà môi trường đầu tư vẫn chưa có khả năng đáp
ứng sẽ rất dễ gây hỗn loạn, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu về: “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: thực trạng và
giải pháp hướng tới chiến lược “Trung Quốc+1”” trở nên cấp thiết và có ý
nghĩa thực tiễn cao.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận này là vận dụng những kiến thức đã
tích luỹ được để phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản
vào Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là chiến lược “Trung Quốc+1”
trong bối cảnh sôi động của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay;
xem xét thời cơ và thách thức, những yếu tố thuận lợi và những mặt còn tồn
tại, từ đó, đề ra các giải pháp cho Việt Nam hướng tới chiến lược “Trung
Quốc+1” một cách kịp thời và hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận chủ yếu là quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian qua và trong
chiến lược “Trung Quốc+1” của các công ty Nhật Bản hiện nay. Trong khuôn
khổ một bài khoá luận, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu thực trạng thu hót đầu tư
Nhật Bản của Việt Nam và đề xuất một sè giải pháp nhằm hướng tới chiến
lược “Trung Quốc+1”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó
chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, khoá luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp,
nh: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải…
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài lời nói đầu, kết luận, phần tài liệu tham khảo, phần phụ lục, khoá luận
bao gồm:
Chương 1: Mét số lí luận cơ bản về FDI và thu hót FDI
Chương 2: Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam và chiến lược
“Trung Quốc +1”
Chương 3: Thời cơ, thách thức và giải pháp cho Việt Nam hướng tới
chiến lược “Trung Quốc +1”
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ FDI VÀ THU HÓT FDI
I. Giới thiệu chung về FDI
1. Khái quát chung về đầu tư nước ngoài
1.1. Đầu tư
Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục
vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Nguồn vốn đầu tư có thể là những tài sản
hữu hình như tiÒn vốn, đất đai, nhà cửa, nhà máy, thiÕt bị, hàng hoá hoặc tài
sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kĩ
thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại… Nguồn vốn đầu tư còn bao
gồm các tài sản tài chính, như: cổ phần, trái phiÕu, các quyền về sở hữu tài
sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh tế
như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên…[22,5]
1.2. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là sù di chuyển của các nhân tố sản xuất (tài chính, công
nghệ, nhân lực, vật liệu) ra khái biên giíi quốc gia, là những hoạt động đầu tư
vốn, tài sản ở nước ngoài để tiÕn hành sản xuất, kinh doanh víi mục đích tìm
kiÕm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất, đầu
tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản [22,9]. Đây là hình thức cao
hơn của xuất khẩu hàng hoá bởi xuất khẩu tư bản chỉ có thể diễn ra trên cơ sở
những tiến bộ về công nghệ, nguồn tư bản được tích tụ và tập trung lớn, thị
trường mở rộng và khả năng quản lý trên phạm vi quốc tế của các công ty
được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, theo khía cạnh khác, hai hình thức xuất khẩu
này luôn bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Ngày nay cùng với hoạt động thương
mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triÓn mạnh mẽ, hợp
thành những dòng chính trong trào lưu liên kết kinh tế toàn cầu [22,9]. Mặt
khác, các dòng tư bản này thường không lưu chuyển đơn độc một mình mà
kèm theo mét loạt các tác động dây chuyền khác: có vốn là có công nghệ mới,
có bí quyết kĩ thuật, đầu tư, việc làm và thị trường. Do đó, vai trò của dòng
vốn quốc tế giống nh dòng máu chảy trong cơ thể nền kinh tế thế giíi, nơi nào
luồng vốn chạy tới thường xuyên và tăng cường, nơi đó nền kinh tế có điều
kiện tăng tốc và cất cánh.
1.3. Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là đầu tư quốc tế xét trên khía cạnh của một
quốc gia cụ thể, là dòng dịch chuyển vốn (các nhân tố sản xuất) vào hay ra
khỏi biên giới một quốc gia.
Có nhiÒu cách để phân loại vốn ĐTNN tuỳ theo từng khía cạnh tiÕp cận.
Xét theo hướng chuyển dịch vốn, trên quan điÓm của một quốc gia, vốn đầu
tư nước ngoài được chia thành dòng vốn vào và dòng vốn ra. Phân loại theo
chủ đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài gồm hai kênh chính: Đầu tư của tư nhân và
hỗ trợ phát triÓn chính thức của các chính phủ, các tổ chức quốc tế (ODA)
[22,13]. Theo phương thức quản lí vốn, đầu tư nước ngoài được thực hiện
dưới hai hình thức: đầu tư gián tiÕp nước ngoài (FII) và đầu tư trực tiÕp nước
ngoài (FDI). Khoá luận đi sâu vào cách phân loại thứ ba.
Đầu tư gián tiÕp nước ngoài (FII) là hoạt động đầu tư trong đó chủ đầu tư
không trực tiÕp quản lí việc sử dụng vốn mà hưởng lợi Ých theo một tỉ lệ cho
trước của số vốn đầu tư thông qua cá nhân hoặc tổ chức ở nước nhận đầu tư,
bao gồm: hỗ trợ phát triÓn chính thức (ODA), tín dụng thương mại quốc tế và
huy động từ bán tín phiÕu, trái phiÕu, cổ phiÕu…cho nước ngoài. Hỗ trợ
phát triÓn chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và có
hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ
chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế.
Đặc điÓm chủ yếu của dòng vốn quốc tế này là tính ưu đãi, tuy nhiên, thông
thường các nước nhận ODA phải héi đủ một số điÒu kiện nhất định tuỳ thuộc
quy định của từng nhà tài trợ [22,18]. Tín dụng thương mại quốc tế là hoạt
động đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiÒn vay trên
thị trường vốn quốc tế với lãi suất thị trường và thường là ngắn hạn. Theo
hình thức này, nhà đầu tư trước khi cho vay đều nghiên cứu tính khả thi của
dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế chấp các khoản vay để giảm rủi
ro. Thủ tục vay khắt khe, thêi gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là
những trở ngại không nhỏ đối víi các nước nghèo. Cuối cùng, đầu tư chứng
khoán nước ngoài hay huy động từ bán tín phiÕu, trái phiÕu, cổ phiÕu và
giÊy tờ có giá khác cho người nước ngoài là hoạt động đầu tư theo đó, nhà
đầu tư mua các loại chứng khoán của nước nhận đầu tư và hưởng lợi từ cổ
tức, trái tức… và chênh lệch giá tín phiÕu, trái phiÕu, cổ phiÕu, giÊy tờ có
giá khác…trên thị trường trong từng thời điÓm.
Đầu tư trực tiÕp nước ngoài (FDI) là việc nhà nước (thường là rất Ýt), các
công ty xuyên quốc gia (TNC) hay tư nhân nước ngoài (là chủ yếu) tiÕn hành
tự đầu tư và trực tiÕp tham gia điÒu hành sử dụng vốn của mình ở nước nhận
đầu tư theo các dự án đầu tư cam kết. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ có vốn
đầu tư ban đầu dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động mà
còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án
và vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. Chủ đầu tư nước ngoài quản lý,
điÒu hành doanh nghiệp theo nguyên tắc “lãi được hưởng, lỗ tự chịu”.
Tóm lại, các hình thức ĐTNN rất đa dạng và phong phó, trong đó, FDI là
một trong các kênh thu hót nguồn vốn này.
2. Đầu tư trực tiÕp nước ngoài (FDI)
2.1. Các khái niệm về FDI
Tuỳ góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế, khái niệm về FDI được diÔn giải
theo nhiÒu cách khác nhau.
- Quỹ tiÒn tệ thế giíi (IMF) năm 1997 đưa ra khái niệm: “FDI là vốn đầu
tư thực hiện để thu được lợi Ých lâu dài trong mét doanh nghiệp hoạt động ở
một nền kinh tế khác víi nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư
là dành được tiÕng nãi có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó”. Khái
niệm này nhấn mạnh một số đặc trưng của FDI, đó là tính lâu dài của hoạt
động đầu tư, yếu tố nước ngoài của chủ thể đầu tư và động cơ đầu tư là dành
quyền kiÓm soát trực tiÕp hoạt động quản lý doanh nghiệp.
- OECD lại quan niệm: “FDI là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm
thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là
những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý
doanh nghiệp đó bằng cách: thành lập, mở rộng mét doanh nghiệp hay mét chi
nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ doanh nghiệp
đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới hay cấp tín dụng dài hạn (trên 5
năm)”.
- Nhà nước Trung Quốc định nghĩa: “Việc người sở hữu tư bản tại nước
này mua hoặc kiÓm soát một thực thể kinh tế ở nước khác, theo đó, nếu
khoản tiÒn mà nhà đầu tư trả có ảnh hưởng quyết định hoặc tăng thêm
“quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế đó thì được gọi là FDI”. Cách hiÓu
này của Trung Quốc rất chú trọng đến khía cạnh sở hữu hay sù kiÓm soát
trực tiÕp của chủ đầu tư đối víi các hoạt động bằng vốn đầu tư của họ.
- Luật đầu tư 2005 của Việt Nam không đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về
hoạt động FDI nhưng khái niệm này có thể được tổng hợp trong các quy định
của luật như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiÒn và các tài sản hợp pháp khác để tiÕn hành hoạt động
đầu tư” (mục 12, điÒu 3) và “Đầu tư trực tiÕp là hình thức đầu tư do nhà đầu
tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (mục 2, điÒu 3) [23].
Nhìn chung, có thể khái quát các đặc trưng cơ bản của FDI nh sau:
• Chủ thể của FDI có thể là chính phủ, cá nhân, tổ chức hay hỗn hợp từ
một nền kinh tế khác, nghĩa là chủ sở hữu vốn FDI phải có yÕu tố nước ngoài
được thể hiện ở sự khác nhau về quốc tịch, chủ quyền, lãnh thổ giữa bên đi
đầu tư và bên nhận đầu tư, vốn đầu tư có sự di chuyển qua biên giíi quốc gia.
• Mục đích các nhà đầu tư nước ngoài tiÕn hành các hoạt động đầu tư
trực tiÕp chủ yếu là nhằm thiÕt lập các mèi quan hệ kinh tế lâu dài víi mét
doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại
khả năng tạo ảnh hưởng đối víi việc quản lý doanh nghiệp đó. Hoạt động đầu
tư này thường gắn liÒn víi việc xây dựng cơ sở, chi nhánh sản xuất, kinh
doanh tại nước tiÕp nhận đầu tư. Đây là vốn có tính chất “bén rễ” ở nước sở
tại nên không dễ rút đi trong một thời gian ngắn, do đó, với tư cách là một
dòng vốn quốc tế, FDI là dòng chu chuyển vốn thời hạn tương đối dài.
• Dòng vốn này gắn víi quá trình tự do hoá đầu tư, khác với dòng tiÒn
quốc tế ngắn hạn thường gắn với qui trình tự do hoá thương mại hoặc kinh
doanh, đầu cơ tiÒn tệ, ngoại hèi và cũng khác biệt víi các hoạt động đầu tư
gián tiÕp (mua bán chứng khoán) hay các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia,
doanh nghiệp trên thế giíi thường gắn với quá trình tự do hoá tài chính.
• Do đi liÒn víi công trình, dự án đầu tư ở một địa điÓm cụ thể trong
một thời gian tương đối dài, FDI có tính ổn định tương đối cao, dễ theo dõi,
kiÓm soát hơn và không biÕn động quá bất thường như các dòng tiÒn ngắn
hạn hay các khoản đầu tư gián tiÕp.
• Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động FDI là tính tự chủ của chủ sở hữu
vốn đầu tư. Theo hình thức này, chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay
phần đủ lớn vốn đầu tư, tuỳ qui định của mỗi nước nhằm dành quyền kiÓm
soát hoặc tham gia kiÓm soát dự án. Chủ sở hữu vốn đầu tư nước ngoài chính
là người trực tiÕp quản lý, điÒu hành việc sử dụng vốn, chịu trách nhiệm và
hưởng lợi Ých từ kết quả sản xuất kinh doanh căn cứ vào mức độ góp vốn.
• Ngoài ra, FDI còn có các đặc điÓm khác nh thường kèm theo chuyển
giao công nghệ, kĩ thuật tiên tiÕn, kinh nghiệm điÒu hành, quản lý…cho các
nước tiÕp nhận đầu tư. Hơn nữa, hình thức này thường mang lại tính khả thi
và hiệu quả kinh tế cao hơn, không có những ràng buộc chính trị, không để lại
gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Đây là những mục tiêu mà các hình thức
đầu tư khác khó giải quyết được.
Trong khuôn khổ khoá luận này, “nhà đầu tư”, “nước chủ đầu tư”, “nước
đầu tư” được hiểu là các chủ thể nước ngoài tiến hành hoạt động FDI; “nước
nhận đầu tư”, “nước chủ nhà”, “nước sở tại”, “nước tiếp nhận” được hiểu là
nước tiếp nhận vốn FDI.
2.2. Phân loại FDI
Tuỳ thuộc quan điểm phân tích của các nhà đầu tư, các nhà kinh tế, FDI
được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Mỗi cách phân loại này có ý
nghĩa riêng, đem lại những thông tin khác nhau trong hoạt động đầu tư. Khoá
luận đưa ra 2 cách phân loại FDI: theo cách thức tiến hành đầu tư và theo
động cơ đầu tư.
*Đối với cách thức tiến hành đầu tư, FDI được chia thành: đầu tư mới
(Greenfield Investment), mua lại và sáp nhập (Cross-border Merge and
Acquisition).
- Trong đầu tư mới, ban đầu, các nhà đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh
doanh hoàn toàn mới ở các nước tiếp nhận đầu tư rồi mới tiến hành kinh
doanh trên cơ sở đó. Loại đầu tư này được các nước nhận đầu tư ưa chuộng vì
không tạo ra cạnh tranh trong ngắn hạn và giúp các nước này xây dựng được
cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật, góp phần đáng kể vào thúc đẩy năng lực sản
xuất quốc gia.
- Mua lại và sáp nhập là hoạt động nhà đầu tư tiến hành mua lại hay sáp
nhập hay mua cổ phiếu nhằm điều hành doanh nghiệp hoặc tham gia điều
hành doanh nghiệp đó, bao gồm 3 hình thức: phổ biến nhất là M&A diễn ra
trong cùng một ngành (theo chiều ngang); M&A diễn ra trong các doanh
nghiệp thuộc một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng (theo chiều
dọc); M&A trong các công ty kinh doanh khác nhau để đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh (dạng hỗn hợp). Cách thức đầu tư này giúp nhà đầu tư tận
dụng được các nguồn lực sẵn có, tiết kiệm được chi phí xây dựng ban đầu, lại
không tốn thời gian thâm nhập, làm quen hay thiết lập thị trường. Tuy nhiên,
hình thức mua lại và sáp nhập không được nước chủ nhà ưa chuộng bằng đầu
tư mới vì chỉ đóng góp hạn chế vào tăng năng lực sản xuất quốc gia.
*Đối với động cơ đầu tư, mục tiêu chung của các chủ đầu tư nước ngoài là
tìm kiếm thị trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi, an toàn nhằm thu lợi nhuận cao
và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong từng dự án cụ
thể, động cơ của chủ đầu tư lại rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chiến lược phát
triển của doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường đầu tư cũng như tuỳ
thuộc mối quan hệ sẵn có của nước nhà đầu tư với nước chủ nhà. Căn cứ vào
tiêu chí này, FDI được chia thành 4 loại riêng biệt: tìm kiếm nguồn lực, tìm
kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả và tìm kiếm tài sản chiến lược [4].
- Hầu hết FDI vào các nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi là
tìm kiếm nguồn lực hay còn gọi là đầu tư định hướng chi phí. Loại đầu tư này
nhằm khai thác lợi thế so sánh của doanh nghiệp nước chủ nhà, giảm chi phí
sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên của nước sở tại, từ
đó, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Ví dụ, các
nước dồi dào về nguyên liệu thô như dầu hoả hoặc khoáng sản sẽ thu hót các
công ty muốn phát triển dùa vào những nguồn tài nguyên này. FDI tìm kiếm
nguồn lực nhìn chung tập trung vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu và phổ biến
trong những ngành nghề, lĩnh vực đầu tư sử dụng nhiều lao động, sử dụng
thiết bị cũ, lạc hậu, mức độ ô nhiễm môi trường cao mà nước chủ đầu tư
không cho phép sử dụng hoặc chi phí xử lí ô nhiễm đòi hỏi quá lớn.
- FDI tìm kiếm thị trường là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Việc sản xuất sản
phẩm cùng loại ở nước sở tại làm cho chủ đầu tư không cần đầu tư thiết bị,
công nghệ mới lại có thể tận dụng được lao động rẻ, tiết kiệm chi phí vận
chuyển, qua đó nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Các công ty tiến hành đầu tư dưới
dạng này điển hình là các công ty sản xuất các sản phẩm gia dụng hoặc các
loại hàng hoá công nghiệp khác nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế hoặc trong
tương lai đối với sản phẩm của họ, muốn thích ứng các sản phẩm với “khẩu
vị” và nhu cầu địa phương. Trong một số trường hợp, thực hiện FDI tìm kiếm
thị trường có thể là các công ty cung ứng phục vụ cho khách hàng của họ ở
nước ngoài. Ví dụ, một nhà sản xuất linh kiện ô tô có thể đầu tư theo mét nhà
sản xuất ô tô. Loại FDI này còn tập trung vào các thị trường trước đây được
phục vụ bởi hàng xuất khẩu, hoặc vào các thị trường đóng cửa được bảo hộ
bởi thuế nhập khẩu cao hoặc các hàng rào phi thuế quan khác. Do đó, đây
được coi là chiến lược bành trướng thị trường của các công ty đa quốc gia để
vượt qua hàng rào bảo hộ của nước sở tại và kéo dài “tuổi thọ” các sản phẩm
của họ.
- FDI tìm kiếm hiệu quả thường thấy nh mét hình thức đầu tư tiếp tục. Một
công ty xuyên quốc gia có thể tiến hành một số đầu tư tìm kiếm nguồn lực
hoặc tìm kiếm thị trường rồi sau một thời gian, có thể quyết định kết hợp
những hoạt động này trên cơ sở sản phẩm hoặc quy trình. Đây thực chất là
các hoạt động hợp lý hoá hoặc kết nối khu vực hay toàn cầu dẫn đến sản
phẩm xuyên biên giới hoặc việc chuyên môn hoá quy trình sản xuất. Tuy
nhiên, các công ty chỉ có thể làm được điều này khi các thị trường xuyên biên
giới là mở và ở trình độ phát triển cao.
Hình thức FDI này phổ biến nhất ở các thị trường được hội nhập theo khu
vực, điển hình nhất là ở châu Âu và Bắc Mỹ. Các công ty xuyên quốc gia
cũng có thể tiến hành hợp lý hoá sản phẩm ở quy mô nhỏ hơn giữa một số
nước láng giÒng. Loại đầu tư này được minh hoạ bởi các công ty con của
Nestle ở Bắc Phi và Trung Đông. Mỗi công ty con sản xuất một sản phẩm
chuyên biệt cho thị trường khu vực, đồng thời còng nhập khẩu các sản phẩm
khác từ các công ty con khác ở các nước láng giềng. Nh vậy, cùng với nhau,
khu vực này có toàn bộ các sản phẩm, nhưng mỗi công ty con chỉ chịu trách
nhiệm sản xuất một phần nhỏ.
- FDI tìm kiếm tài sản chiến lược xuất hiện khi các công ty tiến hành các
vụ mua lại hay liên minh nhằm thúc đẩy các mục tiêu kinh doanh dài hạn của
mình. Ví dụ, để phục vụ thị trường nội địa, một công ty xuyên quốc gia có thể
mua mét doanh nghiệp nhà nước đang được tư nhân hoá thay vì thành lập một
công ty mới.
Mỗi loại FDI có đặc điểm riêng, tạo ra ảnh hưởng khác nhau tới nền kinh
tế, phù hợp với từng thời kì phát triển kinh tế, xã hội riêng và mức độ kết hợp
vào chiến lược phát triển kinh tế quốc gia cũng rất linh hoạt. Do đó, để đề ra
một đối sách thu hót FDI có hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội, trước tiên
cần nhận thức rõ loại hình FDI nên được khuyến khích và phù hợp nhất với
môi trường quốc gia trong thời điểm xem xét.
2.3. Các hình thức FDI
FDI có nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức có đặc điểm, ưu thế và
hạn chế nhất định, phù hợp với từng giai đoạn phát triển khác nhau của nền
kinh tế. Việc nghiên cứu các hình thức FDI nhằm tạo cơ sở đưa ra các quyết
định để lùa chọn khi kêu gọi hay chấp nhận FDI. Luật pháp từng nước qui
định cho phép áp dụng các hình thức FDI khác nhau. Các hình thức FDI phổ
biến bao gồm:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại và có quyền điều hành toàn bộ doanh
nghiệp theo qui định của nước chủ nhà.
Hình thức này trong giai đoạn đầu tư ban đầu, do còn Ýt hiểu biết về thị
trường nước sở tại, e ngại rủi ro cao nên Ýt được các nhà đầu tư ưa chuộng.
Tuy nhiên, cùng với sự chuẩn hoá của môi trường đầu tư theo hướng tự do
hoá và toàn cầu hoá, khi các nhà đầu tư đã thích nghi dần với văn hoá, pháp
luật, chính sách của nước chủ nhà, hình thức này ngày càng tỏ ra tích cực
trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư vượt qua các trở ngại trong việc bất đồng
quan điểm điều hành doanh nghiệp. Do đó, hình thức này có xu hướng ngày
càng mở rộng trong đầu tư quốc tế.
- Doanh nghiệp liên doanh là hình thức tổ chức kinh doanh của các bên có
quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng
phân phối lợi nhuận, chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động dịch vụ hay các hoạt động nghiên cứu theo các điều khoản
cam kết trong hợp đồng liên doanh phù hợp với các qui định của luật pháp
nước sở tại.
Hình thức này được sử dụng rộng rãi nhất trong giai đoạn xâm nhập thị
trường do phù hợp với cả nước đầu tư và nước sở tại. Trong giai đoạn này,
các nhà đầu tư nước ngoài chưa am hiều nhiều về nước sở tại nên hình thức
này giúp họ tranh thủ được sự hỗ trợ của đối tác nước sở tại trong các khâu
hình thành, thẩm định, thực hiện dự án, giảm thiểu rủi ro mà phạm vi, lĩnh
vực và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp lại rộng hơn. Còn đối với nước
chủ nhà, đây là hình thức từng bước thu hót vốn nước ngoài hợp pháp và hiệu
quả.
Nhìn chung các nước đều có xu hướng tăng dần vốn góp của nước mình
trong doanh nghiệp liên doanh để tăng ảnh hưởng trong doanh nghiệp, tiến tới
kiểm soát và quản lí hoàn toàn các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra,
hình thức này đòi hỏi nước tiếp nhận phải có đủ khả năng góp vốn và có trình
độ quản lí doanh nghiệp tương đương với đối tác nước ngoài thì mới đạt hiệu
quả như mong muốn.
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức
liên kết kinh doanh dùa trên các văn bản kí kết như: hợp đồng chia lợi nhuận
hoặc phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới. Hình thức này
đước áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính
viễn thông và công nghiệp gia công, dịch vụ.
- Hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT là hình thức đầu
tư được kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại và nhà đầu
tư chủ yếu trong các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng để tiến hành xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng đặc biệt là giao thông đường bộ, đường sắt, cảng
biển, nhiệt điện, thuỷ điện… Các nền kinh tế có cơ sở hạ tầng yếu kém, lại
không đủ vốn để đầu tư xây dựng rất ưa chuộng hình thức đầu tư này.
Điểm khác biệt giữa 3 hình thức đầu tư này như sau:
Theo hợp đồng BOT, sau khi tiến hành xây dựng xong, nhà đầu tư có
quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định, rồi mới chuyển
giao không bồi hoàn cho nước sở tại.
Theo hợp đồng BTO, nhà đầu tư phải bàn giao công trình đó cho nước chủ
nhà trước khi được phép tiến hành kinh doanh công trình trong một thời hạn
nhất định để thu hồi vốn và có lãi.
Theo hợp đồng BT, sau khi xây dựng và chuyển giao công trình, nhà đầu
tư sẽ được nước chủ nhà tạo điều kiện thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và
lợi nhuận hoặc thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng.
- Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có vốn điều
lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, trong đó, các cổ đông sáng lập
nước ngoài một tỉ lệ tối thiểu vốn điều lệ (theo luật Việt Nam là 30% vốn điều
lệ). Hình thức này có khả năng nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp FDI, đồng thời kết hợp được huy động vốn của các nhà ĐTNN với các
nhà đầu tư trong nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát
triển doanh nghiệp.
Ngoài ra, FDI còn được thực hiện dưới các hình thức khác, tuỳ thuộc mục
đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư, như: doanh nghiệp FDI đa
mục tiêu, doanh nghiệp hợp danh, công ty mẹ-công ty con…
Tóm lại, các hình thức FDI rất đa dạng và phong phó. Việc lùa chọn hình
thức đầu tư phù hợp còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể của từng
quốc gia. Để kết hợp hài hoà lợi Ých của các bên tham gia đầu tư, thực hiện
được mục tiêu thu hót vốn phù hợp với từng vùng và toàn bộ nền kinh tế cần
phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
2.4. Cơ cấu FDI
Cơ cấu FDI có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu kinh tế của quốc gia tiếp
nhận. Một cơ cấu thu hót phù hợp sẽ đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân
đối, hợp lý. Cơ cấu FDI của từng nhà đầu tư còn cho thấy thế mạnh, xu hướng
đầu tư của họ trong quá khứ, hiện tại, làm cơ sở dự đoán tương lai, từ đó, tạo
điều kiện thuận lợi thích hợp cho họ đầu tư vào lĩnh vực mong muốn. Đồng
thời, phân tích cơ cấu đầu tư giúp nước tiếp nhận đánh giá được kết quả và
hạn chế của hoạt động thu hót FDI, từ đó rót ra bài học và có các điều chỉnh,
đối sách phù hợp với mục tiêu đã đÞnh. Nhìn chung, có 3 loại cơ cấu FDI:
- Cơ cấu ngành là cốt lõi của chiến lược kinh tế và là nhân tố quan trọng
quyết định hiệu quả kinh tế quốc dân của nước sở tại. Hầu hết các quốc gia
tiếp nhận đều muốn phát triển một cơ cấu các ngành cân đối trong khi với
động lực chủ yếu là lợi nhuận, FDI thường chỉ được thu hót mạnh vào các
ngành nước chủ nhà có lợi thế so sánh. Do đó, nước sở tại phải có biện pháp
phù hợp để cân bằng lợi Ých giữa các bên.
- Cơ cấu vùng: các dự án đầu tư chủ yếu tập trung ở những vùng có điều
kiện kinh tế xã hội phát triển để tận dụng ưu thế sẵn có về cơ sở hạ tầng. Điều
này làm gia tăng khoảng cách với các vùng có điều kiện khó khăn, gây mất
cân đối nền kinh tế. Tìm hiểu cơ cấu FDI theo vùng, nước chủ nhà sẽ xây
dùng được đối sách phù hợp để vừa thu hót mạnh vốn FDI, vừa giảm sù cách
biệt kinh tế giữa các vùng.
- Cơ cấu đối tác đầu tư: việc nghiên cứu cơ cấu đối tác đầu tư giúp nước
chủ nhà xác định được đối tác đầu tư tiềm năng, đối tác đầu tư quan trọng
nhằm tăng hiệu quả thực hiện FDI.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hót FDI ở một quốc gia
Lượng vốn FDI đổ vào một quốc gia xét cho cùng là phụ thuộc vào quyết
định của các nhà đầu tư. Các quyết định này thực chất không phải để phục vụ
lợi Ých cho nước chủ nhà mà chủ yếu nhằm thu lợi về cho chính bản thân họ.
Hợp tác đầu tư với nước ngoài chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi
Ých của cả hai bên [22]. Vì vậy, nước sở tại cần phải nghiên cứu những nhân
tố ảnh hưởng tới thu hót FDI, xem nhà đầu tư mong chê thu được những lợi
Ých gì từ việc “đổ tiền” vào quốc gia mình, thì mới có thể đưa ra các giải
pháp hữu hiệu thu hót FDI, không chỉ mang lại các món lợi kinh tế trước mắt
mà còn có thể thu được các lợi Ých xã hội trong dài hạn.
1. Lợi Ých của nước đi đầu tư khi thực hiện hoạt động FDI
Lợi Ých FDI có thể đem về cho các doanh nghiệp tiến hành đầu tư và
nước đầu tư rất đa dạng, bao gồm [22]:
- FDI không những giúp nước chủ đầu tư xây dựng thị trường cung cấp
nguyên liệu ổn định với giá phải chăng mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ,
tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở nước sở tại, tăng cường bành trướng
sức mạnh kinh tế, tạo điều kiện thâm nhập vững chắc vào thị trường nước
nhận đầu tư, qua đó, phát triển thị trường sang nước thứ ba, toàn vùng hoặc
toàn khu vực, đồng thời, thông qua ảnh hưởng về kinh tế để nâng cao uy tín
chính trị, vai trò ảnh hưởng trên thế giới.
- FDI tạo điều kiện cho nước đầu tư khai thác lợi thế so sánh của nước tiếp
nhận về giá nhân công, chi phí vận chuyển, thuế và chi phí sản xuất khác…để
giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, rút
ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận,
đồng thời, giảm rủi ro đầu tư so với chỉ tập trung vào thị trường trong nước.
- FDI tạo điều kiện cho nước chủ đầu tư thường xuyên đổi mới công nghệ,
điều kiện sống còn trong cạnh tranh. Thông qua FDI, các nước chủ đầu tư di
chuyển một bộ phận sản xuất công nghệ, phần lớn là các máy móc ở giai đoạn
lão hoá hay có nguy cơ bị hao mòn vô hình nhanh sang các nước kém phát
triển hơn để tiếp tục sử dông, kéo dài thêm chu kì sống của sản phẩm hoặc để
mau khấu hao, tăng sản xuất tiêu thụ, thu hồi vốn, tạo lợi nhuận. Đồng thời,
điều này còn giúp nước chủ đầu tư có thêm tư bản và điều kiện đổi mới cơ
cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới luồng vốn FDI vào một quốc gia
Nhìn chung, dòng vốn FDI sẽ tìm đến nơi đầu tư an toàn, đồng vốn được
sử dụng hiệu quả, quay vòng nhanh và Ýt rủi ro. Tuy nhiên, tuỳ từng giai
đoạn, từng thời kì, các tiêu chí đánh giá mức độ hấp dẫn của một môi trường
đầu tư là khác nhau. Không những thế, các tiêu chí này lại biến đổi đối với
từng mục tiêu đầu tư, từng nhà đầu tư khác nhau. Tóm lại, khả năng thu hót
vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố, cả nhân tố khách
quan, không phụ thuộc vào nỗ lực, kiểm soát của nước tiếp nhận và nhân tố
chủ quan, phô thuộc vào những động thái của nước nhận.
2.1. Nhân tố khách quan
Trước hết là các lợi thế so sánh tự nhiên của nước tiếp nhận nh vị trí địa lý,
tài nguyên thiên nhiên, qui mô nguồn nhân lực, qui mô thị trường. Vị trí địa lý
thuận lợi không gần các vùng có động đất, núi lửa, sóng thần…, thông thương
thuận tiên tạo khả năng phát triển các hoạt động du lịch, trung chuyển, tái
xuất khẩu, chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận. Tài nguyên đa
dạng, phong phú, gần nguồn nguyên liệu giúp nhà đầu tư giảm chi phí sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá…Tuy nhiên, ngày nay, khi khoa
học và công nghệ ngày càng tiên tiến, các nhân tố này trở nên kém quan trọng
hơn, Ýt đóng vai trò quyết định trong đầu tư.
Thứ hai là tiềm lực tài chính và năng lực kinh doanh của nhà đầu tư. Mọi
doanh nghiệp đều có khả năng tài chính giới hạn. Nếu môi trường đầu tư hấp
dẫn, điều kiện kinh doanh thuận lợi nhưng nhà đầu tư không có vốn, hạn chế
về năng lực kinh doanh thì các kế hoạch đầu tư của họ cũng không thể thực
hiện được. Do đó, các nước tiếp nhận cần đánh giá chính xác tiềm lực tài
chính, khả năng kinh doanh trong lùa chọn nhà đầu tư nhằm tránh tình trạng
không có vốn để giải ngân, không có khả năng thực hiện, làm lỡ cơ hội đầu tư
của các nhà đầu tư khác, giảm lượng FDI thực tế thu hót được.
Thứ ba, việc một quốc gia nằm trong xu thế vận động của các dòng vốn
FDI là điều kiện thuận lợi để quốc gia đó đưa ra các điều kiện phù hợp thu hót
nguồn vốn này. Điều này phụ thuộc vào chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư
trong từng giai đoạn. Trong những năm gần đây, nằm trong vùng kinh tế phát
triển năng động nhất, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trở thành địa điểm
hấp dẫn đầu tư nước ngoài hơn trong số các nước đang phát triển. Một mặt do
khu vực này có giá nhân công rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện,
mặt khác, so với các nước tư bản phát triển, mức độ cạnh tranh ở khu vực này
thấp hơn. Việc nắm bắt được xu hướng chuyển dịch FDI trên thế giới là cơ sở
để các quốc gia đón đầu được luồng vốn này.
Cuối cùng, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và trong khu
vực cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng thu hót FDI của một quốc gia.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính-tiền tệ, khủng hoảng
chính trị, văn hoá hay dịch bệnh… trên thế giới hay trong khu vực đều là các
nhân tố có khả năng tác động theo nhiều phương diện tới thu hót FDI, thu hẹp
dòng vốn đầu tư. Sự tác động đó có thể trực tiếp là làm giảm lượng vốn dư
thừa ở các quốc gia đầu tư, làm giảm khả năng đầu tư hay gián tiếp là tạo ra
tâm lý e ngại của các nhà đầu tư khi đưa ra các quyết định. Một môi trường
ổn định, nền kinh tế thế giới, khu vực tăng trưởng cao và bền vững, hoạt động
giao dịch trong khu vực và trên thế giới sôi động sẽ tạo cơ hội tốt cho các
nước thu hót FDI, kim ngạch đầu tư đạt mức tăng trưởng cao.
2.2. Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là nhân tố nội sinh của nước tiếp nhận, là điều kiện
quyết định để hình thành nên một môi trường đầu tư hấp dẫn. Nhân tố này
bao gồm chủ trương huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế, những cải thiện
trong môi trường đầu tư và mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước chủ nhà.
2.2.1. Chủ trương huy động vốn của nước chủ nhà
Chủ trương huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế thể hiện định hướng,
đường lối của một quốc gia trong việc thu hót các nguồn vốn, là cơ sở để đề
ra các chính sách cụ thể. Nội dung của chủ trương thể hiện quan điểm của
Nhà nước sở tại trong việc có cho phép mở cửa thu hót vốn bên ngoài hay
không; trọng tâm là thu hót vốn trong nước hay ngoài nước; nguồn vốn nước
ngoài tập trung chủ yếu vào nguồn nào: FDI, ODA hay vay thương mại; định
hướng các lĩnh vực, ngành thu hót vốn…
Nếu lùa chọn chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng nội, dùa vào phát triển
sản xuất thay thế nhập khẩu, hình thức huy động vốn được ưa thích hơn cả là
vay thương mại ngắn hạn, phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ
ra nước ngoài. Nếu theo đuổi chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, tăng
trưởng dùa vào xuất khẩu thì hình thức huy động vốn được ưa thích là FDI và
vay dài hạn. Các hình thức này không chịu sức Ðp ngắn hạn của yêu cầu trả
nợ cũng như sự gia tăng quá nhanh của khối lượng nợ. Ngoài ra, FDI còn giúp
nước tiếp nhận có được kĩ thuật, công nghệ hiện đại, đồng thời, tận dụng tốt
hơn các quan hệ thị trường để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
2.2.2. Môi trường đầu tư của nước chủ nhà
Có thể nói, môi trường đầu tư của nước chủ nhà là yếu tố quan trọng nhất
ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Trên thực tế, các quốc
gia có môi trường đầu tư càng thuận lợi, thông thoáng thì dòng vốn FDI chảy
vào càng nhiều, ngược lại, các quốc gia có môi trường đầu tư kém cạnh tranh
thì Ýt thu hót được nguồn vốn này.
Trên thực tế, một môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh là sù tổng
hoà của nhiều nhân tố:
• Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội
Chính trị, xã hội có ổn định, kinh tế có bền vững thì các nhà đầu tư mới có
điều kiện chuyên tâm kinh doanh, thu hồi vốn, tạo lợi nhuận. Đây là yếu tố vĩ
mô, điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế, chính trị của
vốn FDI khi vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn
định kinh tế, chính trị không chỉ làm dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp mà
còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến nơi an toàn
và hấp dẫn hơn.
Điều kiện này không chỉ bao gồm duy trì sự phát triển kinh tế một cách ổn
định, chính trị, xã hội được bảo đảm trật tự và an toàn mà còn phải duy trì
được dư luận và tâm lí xã hội ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kì sự bất
ổn định chính trị, các xung đột khu vực, nội chính hay sự hoài nghi, tẩy chay,
thiếu thiện cảm của giới lãnh đạo và nhân dân đối với vốn FDI đều là những
nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến tâm lí và hành động thực tế của các
chủ đầu tư, đồng thời làm chậm lại các cải cách chính sách cần thiết trong thu
hót FDI của nước chủ nhà.
Tiêu chí này ngày càng được coi trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay,
khi tình hình chính trị ở hầu hết các châu lục, các khu vực đều diễn biến hết
sức phức tạp, không lường trước được; nạn khủng bố, đánh bom, bắt cóc …
diễn ra thường xuyên; dịch bệnh tràn lan và liên tục gây tâm lí hoảng loạn, lo
ngại, không an tâm tiến hành hoạt động đầu tư.
• Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài
Luật pháp các nước, dù Ýt dù nhiều, đều có các điểm khác biệt. Khi tiến
hành đầu tư ra nước ngoài, các hoạt động đầu tư còng nh các hoạt động sản
xuất kinh doanh của chủ đầu tư nước ngoài dù đến từ bất kì quốc gia nào đều
chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước sở tại. Mặt khác, trong quá trình
thực hiện các dự án đầu tư, các nhà đầu tư có thể phải cư trú trong một thời
gian tương đối dài ở nước sở tại. Do đó, việc xem xét các nhân tố pháp lí bảo
vệ quyền lợi của mình ở nước tiếp nhận để đánh giá khả năng thích nghi, tiềm
năng đầu tư là vô cùng quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư.
Hệ thống pháp luật càng rõ ràng, đồng bộ, chặt chẽ, không chồng chéo,
tính cưỡng chế cao và đặc biệt là phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, điều
tiết vĩ mô thay vì can thiệp trực tiếp quá sâu vào hoạt động đầu tư nước ngoài
thì càng tạo tâm lí thoải mái, hấp dẫn các nhà đầu tư.
• Sự phát triển của bộ máy và thủ tục hành chính quốc gia
Thủ tục hành chính là khâu đầu tiên mà nhà đầu tư phải trải qua để tiến
hành và duy trì hoạt động đầu tư tại hầu hết các nước. Thủ tục hành chính
rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi phí là sự cản trở lớn làm
nản lòng các nhà đầu tư, làm mất cơ hội thu hót đầu tư. Ngược lại, một bộ
máy hành chính hiệu quả, gọn nhẹ, nhất quán, nhạy bén; thủ tục được công
khai, đơn giản hoá; đội ngò cán bộ thực thi chuyên nghiệp, tôn trọng pháp luật
sẽ quyết định sự thành công không chỉ của công tác thu hót mà còn đẩy nhanh
quá trình tiếp nhận vốn, tăng hiệu quả của toàn bộ quá trình huy động và sử
dụng vốn cho đầu tư phát triển.
Hầu hết các nước đã thành công trong thu hót vốn nước ngoài để phát triển
kinh tế như Trung Quốc, Mĩ đều có xu hướng giảm bớt những hoạt động can
thiệp trực tiếp, thay bằng can thiệp gián tiếp của nhà nước vào nền kinh tế,
đồng thời đề cao, hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân, cho các
nhà ĐTNN, coi đó là động lực quan trọng để phát triển đất nước [42].
• Sù minh bạch, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư nước ngoài là hệ thống các công cụ chính sách mà nhà
nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Chính sách đầu tư
nước ngoài rất quan trọng đối với việc tạo điều kiện ưu đãi cho thu hót vốn
FDI, hình thành nên sức cạnh tranh cho môi trường đầu tư. Những chính sách
thu hót FDI phù hợp thường nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh nội địa
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và năng động. Mặt khác, các chính sách kinh
tế của nước chủ nhà có khả năng tối đa hoá lợi Ých và tối thiểu hoá chi phí
cho các dự án FDI triển khai đều có sức thuyết phục các nhà đầu tư nước
ngoài bỏ vốn đầu tư.
Hệ thèng các chính sách đầu tư nước ngoài hấp dẫn FDI thường gồm:
Chính sách thương mại thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm bảo
khả năng xuất nhập khẩu các máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất còng
nh sản phẩm sản xuất ra. Điều này có nghĩa là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối
liên tục các công đoạn trong hoạt động đầu tư, làm cho quá trình thực hiện dự
án và thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng, thuận tiện.
Chính sách tiền tệ giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn
định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỉ giá tác động gián tiếp đến dòng chu
chuyển FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi
nhuận thu được tại một thị trường nhất định. Lãi suất cao đồng nghĩa với chi
phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của nhà đầu tư, giảm sức hấp dẫn
của thị trường đối với đầu tư lâu dài. Mặt khác, một chính sách tỉ giá hối đoái
linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn sẽ làm tăng
kim ngạch xuất khẩu, tăng khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu.
Các ưu đãi đầu tư, đặc biệt ưu đãi thuế dành cho đầu tư nước ngoài
đảm bảo cho chủ đầu tư thu được lợi nhuận cao trong điều kiện kinh doanh
chung của khu vực, của thế giới sẽ khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và
vào những lĩnh vực, địa bàn mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Tại mét số nước, chính phủ còn lập các quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài để
hỗ trợ tín dụng cho các nhà đầu tư. Sự hỗ trợ tín dụng cùng các dịch vụ tài
chính, bảo lãnh của chính phủ, các cơ quan tín dụng xuất khẩu, các tổ chức tài
chính đa phương đã, đang và sẽ đóng vai trò to lín làm tăng dòng vốn nước
ngoài.
• Sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là nền tảng để tiến hành hoạt động đầu tư, là điều kiện vật
chất để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định, tiến tới
triển khai trên thực tế các dự án đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng phát triển bao gồm: hệ thống giao thông vận tải phát
triển với các cầu cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức
bao phủ quốc gia cũng như đủ tầm hoạt động quốc tế; hệ thống bưu điện,
thông tin liên lạc, viễn thông có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và toàn
cầu; hệ thống điện nước dồi dào, phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như đời sống thường nhật; các hệ thống dịch vô khác phát
triển rộng khắp, đa dạng và chất lượng cao như: y tế, giáo dục, giải trí, các
dịch vụ hải quan, tài chính, ngân hàng, quảng cáo, kĩ thuật…Đặc biệt, dịch vụ
thông tin đầu tư, thông tin đánh giá kết quả đầu tư cập nhật, có hệ thống, đáng
tin cậy, dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư tiếp xúc, lùa chọn các dự án thÝch hợp hay
làm thủ tục kí kết hợp đồng kinh doanh, thành lập các doanh nghiệp là những
nhân tố xúc tác quan trọng thúc đẩy các dòng FDI vào thị trường nội địa.
Việc hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển không chỉ là điều
kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủ đầu tư triển khai các dự án, kế hoạch của họ mà còn là cơ hội để
các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn đã thu hót
được thông qua tăng thu nhập từ dịch vụ vận tải, tài chính, thông tin…
• Sự phát triển của lực lượng lao động và hệ thống doanh nghiệp nội địa
Nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư, nhanh chóng thích
nghi, tiếp nhận được các kĩ năng, kiến thức cần thiết sẽ đẩy nhanh tiến trình
triển khai dự án, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh, từ đó, thúc đÈy
nhà đầu tư mở rộng đầu tư ở nước sở tại.
Mặt khác, hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển đủ sức trở thành
đối tác ngang tầm với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để
nước nhận đầu tư thu hót được nhiều và hiệu quả hơn dòng vốn nước ngoài.
Hệ thống doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn
dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh
doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước
và ngày càng có sức cạnh tranh quốc tế. Trong đó, mạng lưới các doanh
nghiệp dịch vụ về tài chính-ngân hàng có vai trò quan trọng nhằm tạo ra các
điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc
tế.
• Sự thành công của các dự án FDI đã triển khai
Các dự án FDI đã được triển khai đạt lợi nhuận cao sẽ khuyến khích, củng
cố niềm tin cho chính nhà đầu tư hiện tại tiếp tục mở rộng đầu tư, đồng thời là
những bảng quảng cáo thuyết phục nhất với các nhà đầu tư tương lai. Ngược
lại, các dự án đang triển khai thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà
đầu tư. Thực tế cho thấy, địa phương nào có nhiều dự án không triển khai,
vốn thực hiện so với vốn đăng kí thấp thì rất khó thu hót thêm dự án mới. Do
đó, đi đôi với hoạt động xúc tiến đầu tư, nước chủ nhà cần quan tâm tới các
dự án còn hiệu lực, tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu
tư trong quá trình thực hiện.
2.2.3. Quan hệ quốc tế của nước chủ nhà
Các quan hệ quốc tế phong phú nhiều chiều sẽ tạo điều kiện cho nước sở
tại đa dạng hoá các cơ hội tìm kiếm đối tác đầu tư, tạo nhiều lùa chọn trong
thu hót đầu tư, từ đó, nâng cao khả năng thu hót vốn FDI một cách hiệu quả.
Thực tế cho thấy, quốc gia càng có nhiều mối quan hệ hữu hảo với nhiều quốc
gia, tham gia tích cực vào các tổ chức khu vực và quốc tế thì càng có khả
năng thu hót mạnh vốn đầu tư, cải thiện đáng kể chất lượng FDI.
Ngày nay, các mối quan hệ quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau:
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…trong đó quan hệ kinh tế quốc tế vừa là
trọng tâm, vừa là cơ sở, vừa là động lực thúc đẩy mối các quan hệ khác.