Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tổ chức và quản lý dịch vụ phục vụ du lịch tại di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.61 KB, 13 trang )

Tổ chức và quản lý dịch vụ phục vụ du lịch tại
di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Hà Nội

Nguyễn Văn Tú

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Du lịch học
Chuyên ngành: Du lịch; Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Quốc Sử
Năm bảo vệ: 2011

Abstract. Xác định giá trị của các di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) của Hà Nội đối
với phát triển du lịch, đánh giá mức độ thu hút khách của các di tích của Hà Nội nói
chung và của 3 di tích được đề cập cụ thể trong luận văn. Tiến hành khảo sát thực tiễn
việc tổ chức quản lý (TCQL) các dịch vụ du lịch (DVDL) tại các DTLSVH trên địa
bàn Hà Nội. Trên cơ sở các nguyên tắc về TCQL văn hóa và kinh doanh đánh giá mặt
tích cực và hạn chế của hoạt động dịch vụ hiện có. Đề xuất các nguyên tắc tổ chức
quản lý dịch vụ du lịch (TCQL DVDL) và đưa ra mô hình, định hướng việc TCQL
DVDL nói chung và áp dụng vào 3 di tích tiêu biểu của thủ đô Hà Nội.

Keywords. Du lịch; Dịch vụ du lịch; Di tích lịch sử văn hóa; Hà Nội; Quản lý dịch vụ

Content.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở trung tâm Bắc Bộ, với bề dày hàng ngàn năm lịch sử, Hà Nội có tiềm năng và
lợi thế so sánh đa dạng và phong phú để thu hút khách du lịch. Hà Nội là địa phương đứng
đầu cả nước về số lượng và giá trị tài nguyên của các di tích lịch sử-văn hoá (DTLSVH), nhất
là từ khi Hà Tây được sáp nhập vào Thủ đô. Tuy số lượng du khách đến Hà Nội tăng mạnh
trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng cao nhưng tăng trưởng ngành du lịch của Hà Nội


chưa xứng với tiềm năng và lợi thế của mình [41, tr.134]. Một trong những yếu tố tạo nên sức
hấp dẫn, đem lại hiệu quả và là nhân tố, thế mạnh phát triển du lịch của thủ đô là tài nguyên
du lịch nhân văn mà trong đó, hệ thống DTLSVH của Hà Nội đóng vai trò quan trọng.
Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý (TCQL) dịch vụ du lịch (DVDL)
tại các DTLSVH trên địa bàn Hà Nội đã có hiệu quả nhất định, song chưa phát huy hết tiềm
năng giàu có của nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng lớn này của Hà Nội. Mặc dù các
DTLSVH trên địa bàn Hà Nội đều đặt dưới sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước
nhưng việc TCQL các DVDL chưa có hệ thống, chưa thống nhất và chưa thực sự phong phú,
nhiều dịch vụ được thực hiện tự phát, nhằm đáp ứng nhu cầu đột xuất của khách tham quan
hay tổ chức du lịch. Tại nhiều di tích, nhiều DVDL lại do tư nhân, cá thể không thuộc cơ quan
quản lý thực hiện nên chất lượng dịch vụ thấp, không phù hợp với giá trị di tích, trùng lặp ở
nhiều di tích nên không đáp ứng được nhu cầu của du khách, thậm chí còn gây phản cảm, ấn
tượng xấu cho du khách sau chuyến tham quan, khiến cho việc quảng bá, thu hút khách cũng
như hiệu quả kinh tế trong việc phát huy di tích bị hạn chế. Chính vì thế, để phát huy tiềm
năng du lịch của Hà Nội, tăng cường hơn tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch nhân văn của
thủ đô, cần phải nhanh chóng xây dựng được mô hình TCQL các DVDL tại các DTLSVH sao
cho có hiệu quả cao, để trước mắt áp dụng thí điểm với một số điểm di tích tiêu biểu rồi từ đó
rút kinh nghiệm và nhân rộng ra các điểm di tích khác.
Đáp ứng yêu cầu đó, học viên chọn đề tài: Tổ chức và quản lý dịch vụ du lịch tại
các di tích lịch sử-văn hoá trên địa bàn Hà Nội (Nghiên cứu trường hợp Di tích Văn Miếu-
Quốc Tử Giám, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Phủ Chủ tịch) cho luận văn Thạc sĩ khoa học du lịch, với mục đích vừa là đề tài tốt nghiệp,
vừa mong muốn có được đóng góp thiết thực cho việc phát triển du lịch văn hoá trên địa bàn
Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau và có
tiềm năng kinh tế rất lớn. Chính vì thế, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về du
lịch, về các DVDL. Các công trình nghiên cứu như: Tourism: A New perspective của Peter
Burns, Andrew Holden do NXB Prentice Hall, New Jersey xuất bản năm 1995; Tourism:
Principles and practice của Cooper C., Fletcher J., Gibbert D. do NXB Longman, New York

xuất bản năm 2000 hay Marketing tourism places của Gregory Ashworth & Brian Goodall do
NXB Routledge, New York xuất bản năm 1990 đã chỉ rõ những nhân tố tạo nên nhu cầu của
du khách khi đi du lịch, các dịch vụ đáp ứng cho du khách từ đó làm cơ sở cho việc tổ chức
các dịch vụ cho du khách ở các điểm đến. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đề cập cụ thể
đến việc TCQL các DVDL tại các DTLSVH.
Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển muộn hơn nhưng đã có những công trình nghiên
cứu liên quan đến nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của du khách của từng vùng, miền cụ
thể trên đất nước, từ đó đề ra các loại hình dịch vụ phục vụ du khách. Các công trình nghiên
liên quan đến đề tài như: Luận án tiên sĩ của Lê Đức Thắng (1996) với đề tài: Quy hoạch các
điểm du lịch với việc khai thác di sản kiến trúc văn hóa - lịch sử khu vực Hà Nội [26]; Luận
án tiến sĩ (1996) của Bùi Thị Nga với đề tài: Những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch
trên địa bàn Hà Nội [19]; Luận án tiến sĩ của Từ Mạnh Lương (2003) với đề tài: Một số chính
sách và giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu quả khai
thác di tích lịch sử - văn hoá của dân tộc giai đoạn phát triển mới của đất nước [16]; Giáo
trình quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch [17] của Lê Hồng Lý (chủ biên), Dương
Văn Sáu, Đặng Hòa Thu (2010);... Các công trình này chỉ ra các nguyên tắc bảo tồn, và phát
huy DTLSVH để phát triển du lịch trên khía cạnh là điểm tham quan, là tài nguyên du lịch
nhân văn. Một số công trình như Tổ chức phục vụ các dịch vụ du lịch [18] của Trần Văn Mậu
(2001), Nhu cầu của du khách trong quá trình du lịch [6] của Đinh Thị Vân Chi (2004)… đã
đề cập đến các nguyên tắc tổ chức DVDL trong các cơ sở du lịch như nhà hàng, khách sạn,
khu vui chơi giải trí, và các dịch vụ bổ sung ở đó trên cơ sở các nhu cầu của du khách khi đi
tham quan, du lịch. Năm 2006, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (Tổng cục Du lịch) đã
thực hiện đề án: Tổ chức, khai thác không gian kiến trúc cảnh quan tại các khu DTLSVH
thuộc thành phố Hà Nội và phụ cận nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch thủ đô
[38]. Đề án này đã đề xuất một số nguyên tắc sử dụng kiến trúc và cảnh quan di tích để tổ
chức DVDL tại các DTLSVH, đề xuất việc quy hoạch cảnh quan, kiến trúc một số di tích
trong việc tổ chức dịch vụ du lịch. Ngoài ra, trong các tham luận hội thảo khoa học về việc
bảo tồn, phát huy giá trị DTLSVH, hoặc các báo cáo tổng kết năm của các BQL di tích, việc
tổ chức các dịch vụ thường được đề cập đến ở khía cạnh biểu dương hoặc phê phán những
mặt chưa được hoặc tập trung vào việc đánh giá dịch vụ có phù hợp với di tích, có quảng bá

cho văn hóa không. Một số văn bản pháp luật về quản lý DTLS đã đề cập đến việc quản lý
các DVDL tại các DTLSVH ở Hà Nội. Không dừng lại ở việc kế thừa những nghiên cứu về
biện pháp quản lý và phát huy giá trị DTLSVH phục vụ cho du lịch, luận văn đề xuất nguyên
tắc tổ chức các DVDL tại các DTLSVH và đưa ra mô hình cụ thể cho các di tích, áp dụng mô
hình đó cho 3 di tích cụ thể là VM-QTG, HTTL, DTPCT.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng nguyên tắc, mô hình TCQL các DVDL tại các
DTLSVH nhằm góp phần tích cực vào việc khai thác tối đa tiềm năng của các di tích của Hà
Nội với vai trò là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn cho phát triển bền vững du lịch thủ
đô và cả nước nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xác định giá trị của các DTLSVH của Hà Nội đối với phát
triển du lịch, đánh giá mức độ thu hút khách của các di tích của Hà Nội nói chung và của 3 di
tích được đề cập cụ thể trong luận văn.
- Tiến hành khảo sát thực tiễn việc TCQL các DVDL tại các DTLSVH trên địa bàn Hà
Nội. Trên cơ sở các nguyên tắc về TCQL văn hóa và kinh doanh đánh giá mặt tích cực và hạn
chế của hoạt động dịch vụ hiện có.
- Đề xuất các nguyên tắc TCQL DVDL và đưa ra mô hình, định hướng việc TCQL
DVDL nói chung và áp dụng vào 3 di tích tiêu biểu của thủ đô Hà Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
DVDL tại các DTLSVH là tất cả những hoạt động nhằm tạo điều kiện cho du khách
tham quan di tích thuận lợi và thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của du khách tại các
DTLSVH. Tổ chức và quản lý DVDL là việc cung ứng những dịch vụ này cho du khách tại
DTLSVH theo những cách thức nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã định một cách tốt nhất.
Như vậy đối tượng nghiên cứu của luận văn là các hoạt động phục vụ cho khách tham quan
tại di tích và cách thức cung ứng, thực hiện những hoạt động này tại các DTLSVH trên địa
bàn Hà Nội nói chung, và cụ thể là 3 DTLSVH tiêu biểu của Hà Nội là VM-QTG, HTTL,
DTPCT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu DVDL và việc TCQL những dịch vụ này tại các DTLSVH

trên địa bàn Hà Nội nói chung, trên cơ sở đó đi sâu nghiên cứu tại 3 di tích tiêu biểu thuộc 3
loại hình: Di tích kiến trúc-văn hóa, di tích Lịch sử - khảo cổ học và di tích Danh nhân, lịch sử
- cách mạng trên địa bàn Hà Nội là VM-QTG, HTTL, DTPCT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu các DVDL tại một DTLSVH cụ thể
phải đặt di tích vào trong hệ thống các DTLSVH trong địa bàn nghiên cứu. Xây dựng nguyên
tắc, mô hình TCQL các DVDL cho từng di tích phải tính đến mối tương quan, ảnh hưởng của
dịch vụ ở đó với các di tích khác trên cùng tuyến du lịch tại địa bàn và khu vực. Ngoài ra, mô
hình TCQL các DVDL phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống hóa các DTLSVH trên địa
bàn và toàn quốc.
- Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu: + Điều tra, khảo sát thực tế các
di tích, phỏng vấn các cán bộ chuyên trách quản lý di tích tại các phòng Văn hóa, thông tin
quận, huyện Hà Nội, các nhân viên trực tiếp quản lý di tích.
+ Thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp từ các kết quả nghiên cứu, sách báo tạp chí, các
trang web điện tử, các tài liệu, báo cáo của cơ quan quản lý và BQL di tích.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích mối quan hệ giữa nhu cầu của du khách
và DVDL, tổng hợp các nguyên tắc bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị, so sánh với việc TCQL
một số DVDL ở các di tích khách trên thế giới từ đó đề ra nguyên tắc xây dựng mô hình
TCQL DVDL tại di tích.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến từ các báo cáo của các chuyên gia về
bảo tồn, tôn tạo di tích phục vụ du lịch. Tư vấn các chuyên gia, các nhà kinh doanh và phục
vụ du lịch nhằm tránh được những đề xuất giáo điều, lý thuyết.
6. Đóng góp của luận văn
Nguyên tắc xây dựng mô hình và các mô hình TCQL DVDL tại DTLSVH cụ thể trên
địa bàn Hà Nội có thể làm cơ sở cho các nhà quản lý vĩ mô đưa ra những văn bản quản lý phù
hợp để phát triển du lịch vùng, các BQL DTLSVH khác trên địa bàn áp dụng để TCQL hiệu
quả tài nguyên của mình. Mô hình TCQL tại 3 di tích được đề cập trong luận văn là cơ sở
thực tiễn, khoa học cho những di tích chưa có các họat động du lịch khởi lập, tổ chức dịch vụ
nhằm phát huy hiệu quả giá trị di tích.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn giúp cho các doanh nghiệp du lịch nghiên cứu, tổ

chức các tuyến du lịch đặc thù, tạo ra chương trình du lịch mới, tăng thêm sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp lữ hành.
Mô hình TCQL này có thể áp dụng cho các DTLSVH ở các địa phương khác trong
toàn quốc tùy theo điều kiện cụ thể của mình.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Di tích lịch sử, văn hóa – nguồn tài nguyên du lịch nhân văn hàng đầu của
Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và quản lý DVDL tại các DTLSVH trên địa bàn Hà
Nội.
Chương 3: Định hướng mô hình TCQL các DVDL tại các DTLSVH trên địa bàn Hà
Nội (thử áp dụng cho các điểm: VM-QTG, HTTL, DTPCT)

CHƢƠNG 1
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ - NGUỒN TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN HÀNG
ĐẦU CỦA HÀ NỘI
1.1. Mối quan hệ giữa di tích lịch sử, văn hóa và du lịch
1.1.1. Di tích lịch sử, văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Luật Di sản văn hóa xác định: “Di tích lịch sử- văn hóa là công trình xây dựng, địa
điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học” [21, tr. 13]. DTLSVH là những di tích do con người tạo ra tại một địa
điểm cụ thể có giá trị điển hình, có ý nghĩa về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học.
1.1.1.2. Phân loại di tích lịch sử văn hóa
Theo nội dung của di tích, có thể phân thành các loại như sau:
- Di tích văn hóa khảo cổ:
- Di tích lịch sử:
- Di tích văn hóa nghệ thuật:

- Danh lam thắng cảnh:
Theo mức độ quan trọng của DTLSVH, ở Việt Nam, có các loại di tích:
- Di tích cấp quốc gia đặc biệt
- Di tích cấp quốc gia
- Di tích cấp tỉnh, thành phố
- Di tích chưa xếp hạng
1.1.2. Di tích lịch sử văn hóa – nguồn tài nguyên du lịch nhân văn
Di tích lịch sử văn hóa là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất về đặc điểm
văn hóa của mỗi dân tộc, đất nước. Di tích chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống
tốt đẹp, tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa, nghệ thuật của mỗi quốc gia. Di tích lịch sử,
văn hóa thu hút con người tới khám phá, tìm hiểu. Đó là cơ sở để DTLSVH trở thành nguồn
tài nguyên du lịch nhân văn.
1.1.3. Du lịch góp phần bảo tồn, tôn tạo và nâng cao giá trị của di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hóa. Khai thác di tích phục vụ du lịch văn hóa sẽ
góp phần bảo tồn, tôn tạo di tích. Các giá trị lịch sử, văn hóa trong di tích trở thành hàng hóa

×