Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tác động của hiệp định song phương Việt Nhật đến hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.76 KB, 46 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế

“ tác động của hiệp định song phương
Việt- Nhật đến hoạt động xuất khẩu
tôm của Việt Nam sang Nhật”
1
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA
HIỆP ĐỊNH SONG PHƯƠNG VIỆT - NHẬT ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU TÔM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN.
1.1.Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài.
Năm 2009 là một năm “đáng nhớ” đối với ngành tôm Việt Nam. Khối
lượng xuất khẩu đạt gần 210 nghìn tấn với kim ngạch đạt trên 1,67 tỷ USD, so
với năm 2008, tăng 9,4% về khối lượng và 3% về giá trị. Trong các thị trường
mà Việt Nam xuất khẩu sang thì Nhật Bản vẫn duy trì được vị trí nhập khẩu
tôm số một nhưng năm 2009 lại là một năm “khá buồn” đối với nhiều nhà
xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật. Sau quý I, xuất khẩu tôm sang thị trường
này liên tục sụt giảm cho đến hết tháng 11 dẫn tới xuất khẩu cả năm giảm 3,3
% về khối lượng. Nếu cứ giữ nguyên tình trạng trên, tôm Việt nam khó giữ
vững vị trí số một tại thị trường Nhật Bản. Vì vậy cần tìm ra các giải pháp hữu
hiệu để đẩy mạnh xuất khẩu tôm sang Nhật để giữ vững và củng cố vị trí của
tôm Việt Nam trên thị trường này.
Ngày nay, toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trong tiến trình
đó, Việt Nam đã chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc ký kết
các hiệp định song phương và đa phương nhằm tranh thủ những lợi ích mà
toàn cầu hoá mang lại. Gần đây nhất, Việt Nam đã ký kết thành công hiệp
định song phương với Nhật Bản. Hiệp định được ký kết đã mở ra nhiều cơ hội
cho tôm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật nhờ việc giảm thuế nhập khẩu xuống
xấp xỉ 0%. Đồng thời, hiệp định cũng gây ra nhiều khó khăn và thách thức cho


các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam. Do đó, nghiên cứu về những tác động của
hiệp định trên là vô cùng cấp thiết nhằm tận dụng được những cơ hội và khắc
phục những hạn chế nhằm thúc đẩy xuất khẩu tôm sang Nhật. Vì vậy, chúng
em chọn đề tài “ tác động của hiệp định song phương Việt- Nhật đến hoạt
động xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật”, từ đó đề xuất những giải pháp
2
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
phát triển xuất khẩu tôm Việt Nam. Đề tài nghiên cứu là phù hợp với yêu cầu
thực tế đề ra.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Xây dựng những nguyên tắc cơ bản trong phát triển xuất khẩu thuỷ sản
nói chung và đặc biệt đi sâu nghiên cứu những đặc điểm về thị trường Nhật
Bản về mặt hàng tôm nói riêng để có định hướng đúng đắn thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật.
Tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu tôm sang
thị trường Nhật Bản và đặc điểm về hoạt động nuôi trồng, chế biến tôm của
Việt Nam. Qua đó, đưa ra những phát hiện nhằm đề xuất những giải pháp có
tính hữu hiệu, thực thi cho phát triển xuất khẩu tôm cũng như xuất khẩu thuỷ
sản trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
1.3. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về kết quả xuất khẩu tôm của Việt Nam
sang Nhật Bản trước khi ký kết hiệp định, thực trạng xuất khẩu hiện nay để
đánh giá tác động do hiệp định song phương mang lại những mặt tích cực
cũng như những hạn chế mà các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam còn
tồn tại và những yêu cầu mà thị trường Nhật Bản đặt ra. Thông qua đó, đề
xuất một số giải pháp về phía Nhà nước, các bộ nghành và các doanh nghiệp
xuất khẩu tôm về nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, về khai thác và
phát triển nguồn nguyên liệu, xúc tiến thương mại với Nhật Bản và năng lực
thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy, mục tiêu

nghiên cứu đó là tìm ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu tôm gắn liền với
các điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
1.4. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam sang
Nhật Bản và những tác động do hiệp định song phương mang lại nhằm tìm ra
hướng đi dung đắn để phát triển xuất khẩu tôm cũng như xuất khẩu thuỷ sản.
3
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
Để có thể đánh giá tác động của hiệp định một cách chính xác, khách
quan, số liệu có liên quan đến hoạt động xuất khẩu tôm như kim ngạch xuất
khẩu, giá cả, cơ cấu các mặt hàng,…. được thu thập trong khoảng thời gian từ
năm 2005 đến nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
của các doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2015.
1.5. Ý nghĩa nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu tôm
của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ việc đánh giá các cơ hội cũng như thách
thức mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi hiệp định chính thức có hiệu lực
nhằm đưa ra các đề xuất thúc đẩy xuất khẩu tôm trong thời gian tới, khắc phục
những hạn chế còn tồn tại.
1.6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, danh mục bảng biểu, danh mục từ
viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,… đề tài nghiên cứu gồm 4 chương:
Chương I. Tổng quan đề tài nghiên cứu tác động hiệp định song
phương Việt-Nhật đến hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Chương II. Một số lý luận về xuất khẩu và Hiệp định song phương
Việt-Nhật.
Chương III. Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực
trạng tác động của hiệp định đến hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản.

Chương IV. Kết luận và những đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
CHƯƠNG II. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
VÀ HIỆP ĐỊNH SONG PHƯƠNG VIỆT - NHẬT.
4
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
2.1. Lý luận chung về xuất khẩu.
2.1.1. Khái niệm về xuất khẩu.
Xuất khẩu là một nội dung của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng
hoá và dịch vụ được bán cho người nước ngoài nhằm thu được ngoại tệ, tạo ra
sức mạnh vật chất cho kinh tế của mỗi quốc gia và thoả mãn nhu cầu nhập
khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài
dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị
trường nhằm mục đích lợi nhuận.
2.2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đến nền kinh tế quốc dân.
a. Vai trò chung
Xuất khẩu là nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt
động đầu tiên của thương mại quốc tế. Do đó, nó có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu. CNH-HĐH với bước đi
thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của
một quốc gia. Để tiến hành CNH-HĐH đòi hỏi có lượng vốn lớn để nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Nguồn vốn quan trọng nhất là từ
xuất khẩu, quyết định mọi quy mô, tốc độ phát triển của nhập khẩu.
Thứ hai, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng
sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ tiêu thụ những hàng hoá dư

thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu trong nước. Nếu như vậy thì quy mô xuất
khẩu thấp và tăng trưởng chậm chạp. Hai là, coi thị trường thế giới là hướng
quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Trong nền kinh tế, đầu vào của ngành này là đầu ra của ngành sản xuất
khác. Quan hệ kinh tế ở đây là tái sản xuất liên ngành, tức là quy mô, cơ cấu,
hoạt động phát triển của ngành sản xuất này phụ thuộc vào các biến số trong
5
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
sự phát triển của ngành sản xuất khác. Do đó khi ngành này mở rộng, đẩy
mạnh xuất khẩu sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc ngành sản xuất
nguyên liệu của ngành đó sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho
sản xuất phát riển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật, nhằm nâng cao năng lực sản
xuất trong nước hay nói cách khác tạo thêm vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến
phục vụ cho hiện đại hoá ngành công nghiệp của đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tạo
thu nhập, tăng mức sống và thoả mãn nhu cầu của người. Tác động của xuất
khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu
hút hàng triệu người lao động vào làm việc. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo
nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa
sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân.
Thứ tư, xuất khẩu là điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại và tạo
điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy
quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải…giữa các quốc gia. Khi đó, các quan hệ kinh
tế đối ngoại này lại là điều kiện để mở rộng cho xuất khẩu.

b. Vai trò hoạt động xuất khẩu Tôm đ ối với Việt Nam.
- Tăng KNXK, thu ngoại tệ, tạo vốn nhập khẩu, phục vụ tiến trình
CNH- HĐH nước nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng.
- Góp phần đẩy mạnh phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam theo định
hướng chiến lược đến năm 2010.
- Tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, kích
thích các ngành khác hoạt động nhiều hơn, mạnh hơn, thúc đẩy toàn bộ nền
kinh tế vận động theo xu hướng tốt. Chẳng hạn kéo theo các ngành sản xuất
chế biến, công nghiệp bao bì, bưu chính viễn thông… phát triển nhằm phục vụ
nó.
6
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, vùng duyên hải ven
biển, theo hướng đa dạng hoá nghề khai thác, hình thức nuôi trồng với nhiều
loại quy mô lớn, vừa, nhỏ, phù hợp với từng vùng sinh thái, kết hợp giữa tập
trung và phân tán, tận dụng mọi nguồn tài nguyên để khai thác và chế biến đạt
hiệu quả cao.
- Tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm cho cư dân, cải thiện
đời sống cho những người dân sống bằng nghề tôm. Do đặc điểm sử dụng
nhiều lao động nên nó có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm mang lại
lợi ích xã hội to lớn như đảm bảo trật tự an ninh, giảm bớt tệ nạn xã hội.
- Là cơ sở mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta,
góp phần hội nhập thương mại khu vực và thế giới, nâng cao sức cạnh tranh
của mặt hàng tôm, của nền kinh tế đối nội trên thị trường quốc tế. Mặt khác,
chính các quan hệ kinh tế đối ngoại kể trên lại tạo tiền đề cho mở rộng thị
trường xuất khẩu nói chung và xuất khẩu mặt hàng tôm nói riêng.
Tóm lại, hoạt động xuất khâu tôm không những tạo nguồn thu ngoại tệ
phục vụ nhập khẩu, mà còn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
dân cư…

2.2. Hiệp định song phương Việt- Nhật và hoạt động xuất khẩu tôm
của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
2.2.1. Khái niệm về hiệp định đối tác kinh tế.
Trước khi đi đến khái niệm hiệp định song phương, chúng em xin đưa
ra hai khái niệm có liên quan là hội nhập kinh tế và hiệp định thương mại tự
do.
Theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến nhất trên thế giới, hội nhập
kinh tế là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Hội nhập kinh tế hiểu theo
một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế
với nhau. Nói một cách rõ hơn hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực
7
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
hiện đồng thời hai việc: một mặt gắn nèn kinh tế và thị trường từng nước với
thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa, thúc
đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân, mặt khác gia nhập và góp phần xây dưng
các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương – tức là giữa hai nền kinh tế
hoặc khu vực – tức là giữa một nhóm nền kinh tế hoặc đa phương – tức là có
quy mô toàn thế giới, giống như những gì mà tổ chức thương mại thế giới
đang hướng tới.
Hiệp định thương mại tự do là hiệp định theo đó các nước ký cam kết
bãi bỏ thuế quan cho tất cả hoặc hầu như tất cả hàng hóa của nhau. Có những
dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn và người ta thường đưa các dòng thuế này
vào “ danh sách nhạy cảm”. Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và
được liệt kê trong “danh sách loại trừ”. Quy tắc xuất sứ là một phần quan
trọng của các hiệp định thương mại tự do, nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa
được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở những tỷ lệ nhất định tại các nước
thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước
không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước

tham gia hiệp định có thể xuất khẩu sang nước còn lại của hiệp định mà không
phải chịu thuế.
Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định
thương mại, theo nghĩa là ngoài là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa
thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan, lại còn bao gồm cả tự
do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký
kết hiệp định.
Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì
nó cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước
đối tác. Hiện Nhật Bản đã kí kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và
một hiệp định đối tác với ASEAN, đang đàm phán để ký kết 5 hiệp định khác,
8
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
trong đó có Việt Nam. Có 15 quốc gia, lãnh thổ đang có nguyện vọng đàm
phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản.
2.2.2. Khái quát chung về hiệp định song phương Việt – Nhật.
Hiệp định song phương Việt – Nhật (JVEPA) là một hiệp định tự do
hóa thương mại, dịch vụ, bảo hộ đầu tư và khuyến khích thương mại điện tử
giữa Việt Nam và Nhật Bản. Đây là hiệp định tự do hóa thương mại song
phương đầu tiên của Việt Nam và là hiệp định đối tác kinh tế thứ mười của
Nhật Bản.
Hai nước có ý định thành lập hiệp định này ngay từ năm 2005 và bắt
đầu tiến hành đàm phán về hiệp định này từ tháng 1/ 2007, ngay sau khi Việt
Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Sau chín phiên đàm phán chính thức và nhiều phiên đàm phán không
chính thức, hai bên đã hoàn tất thỏa thuận nguyên tắc vào tháng 9/2008 và
chính thức ký hiệp định vào ngày 25/12/22008.
Qúa trình đàm phán được tóm tắt như sau:
Tháng 12/2005: tại phiên họp cấp cao Việt Nam – Nhật Bản, trong

chương trình Hội nghị cấp cao Đông Á, hai bên đã thành lập ủy ban chung đẻ
bàn về việc thành lập hiệp định đối tác kinh tế giữa hai nước.
Tháng 2/2006: Ủy ban nói trên họp phiên đầu tại Hà Nội.
Tháng 4/2006: Ủy ban trên họp phiên thứ hai tại Tokyo.
Tháng 1/2007: đàm phán chính thức lần tứ nhất, bắt đầu đàm phán về
nội dung hiệp định.
Tháng 9/2008: đàm phán chính thức lần thứ 9 , kết thúc thỏa thuận
nguyên tắc.
Ngày 25/12/2008: Lễ ký kết hiệp định diễn ra tại Tokyo, giữa Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại Việt Nam Vũ Huy Hoàng và Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Nakasone Hirofumi.
Hiệp định đã ký kết nhưng còn phải chờ Quốc hội hai nước thông qua
mới có hiệu lực. Ngày 13/8/2009 trong buổi hội thảo của doanh nghiệp hai
nước Việt Nam và Nhật Bản về Hiệp định đối tác kinh tế giữa hai nước
(VJEPA) diễn ra tại TPHCM do Ban Xúc tiến Đầu tư – Hiệp hội Doanh
nghiệp Nhật Bản và Jetro TPHCM với sự hợp tác của Bộ Công Thương, Bộ
9
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
Tài chính Việt Nam tổ chức, các chuyên gia của Bộ Công Thương và Bộ Tài
chính Việt Nam trình bày các nội dung: “Việc giảm thuế nhập khẩu của Việt
Nam và Nhật Bản”, “Thủ tục cấp giấy Chứng nhận nguồn gốc xuất xứ”; “Quy
tắc xuất xứ trong Hiệp định giữa Việt Nam- Nhật Bản về đối tác kinh tế”. Kết
quả của buổi hội thảo là Việt Nam và Nhật Bản sẽ chính thức thực hiện việc
giảm thuế theo Hiệp định đối tác kinh tế giữa hai nước (VJEPA) vào đầu
tháng 10/2009.
2.2.3. Nội dung cơ bản của hiệp định song phương Việt – Nhật.
Theo cam kết của phía Nhật Bản, thuế suất bình quân đánh vào hàng
hóa của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản sẽ giảm dần xuống 2,8 % vào năm
2018. Nhật Bản cam kết sẽ giảm thuế suất cho 95% tổng số dòng thuế, trong

đó khoảng vài ngàn dòng thuế xuống 0%. Nếu hiệp định được kí kết và có
hiệu lực ít nhất sẽ có 86% hàng nông thủy sản và 97% hàng công nghiệp xuất
sang Nhật được hưởng ưu đãi thuế. Riêng đối với mặt hàng khoáng sản sẽ
được hưởng thuế nhập khẩu là 0% ngay lập tức kể từ khi hiệp định có hiệu
lực. Các mặt hàng tôm sẽ được giảm thuế nhập khẩu ròng xuống còn 1% đến
2% ngay lập tức, còn các mặt hàng chế biến từ tôm được giảm xuống còn
3,2% đến 5,3%, cũng ngay lập tức. Mặt hàng mực đông lạnh được giảm xuống
còn 3,5% trong vòng 5 năm. Đây là mức cam kết cao nhất của Nhật Bản đối
với một nước thành viên ASEAN cho phép con người, vật phẩm, tiền vốn luân
chuyển tự do dựa trên những nguyên tắc căn bản là hiệp định mậu dịch tự do
giữa hai nước.
Theo thông tin từ Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP), trong thời gian tới, các mặt hàng tôm xuất khẩu vào thị trường Nhật
Bản có thể được hưởng thuế suất 0%. Ông Trương Đình Hòe – Tổng thư ký
VASEP nhận định việc miễn thuế mở ra cơ hội lớn cho con tôm Việt Nam vào
thị trường Nhật Bản. Theo đó, tôm Việt Nam sẽ là lựa chọn ưu tiên của các
nhà nhập khẩu trong năm tới. Đặc biệt, tôm là mặt hàng chiếm KNXK chính
trong nhóm hàng thủy sản với tổng giá trị kim ngạch trong năm 2009 đạt 1,5
10
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
tỷ USD, chiếm gần 40% tổng GTXK thủy sản của Việt Nam. Hiện nay, Nhật
Bản cũng đang gia tăng nhập khẩu tôm TCT, chiếm 18% khối lượng tôm nhập
khẩu.
Trong khi đó, thuế suất bình quân đánh vào hàng của Nhật Bản vào Việt
Nam sẽ giảm còn 7% vào năm 2018. Khoảng 88% tổng số dòng thuế nhập
khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ được giảm trong vòng 10 năm và 93%
tổng số dòng thuế được giảm trong vòng 16 năm. Các linh kiện sản xuất màn
hình phẳng và DVD sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống còn 3% trong
vòng 2 năm. Máy ảnh kỹ thuật số sẽ được giảm xuống 10% trong vòng 4 năm,

tivi màu sẽ được giảm còn 40% trong vòng 8 năm. Thuế suất nhập khẩu từ
Nhật Bản vào đối với các linh kiện sản xuất ôtô như hộp số sẽ được giảm
xuống còn 10% đến 20% trong vòng 10 năm, động cơ và các linh kiện sản
xuất động cơ ôtô sẽ được giảm xuống còn 3% đến 12% trong vòng 15 năm.
Các mặt hàng thếp tấm cũng là đối tượng được giảm thuế suất nhập khẩu,
xuống còn 0% đến 15% trong vòng 10 năm.
Một nội dung khác trong hiệp định là việc Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam
xây dựng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Trên thực tế nội dung này
đã được hai bên triển khai. Điều đó giúp cho hàng hóa Việt Nam không chỉ là
các sản phẩm gia công mà còn là hàng hóa có chất lượng cao để xuất khẩu
sang thị trường Nhật Bản và các nước khác.
Tuy nhiên, vì đây là một hiệp định đối tác kinh tế toàn diện chứ không
đơn thuần là một hiệp định thương mại tự do nên ngoài việc hàng hóa còn có
dịch vụ cũng sẽ được tự do hóa. Đầu tư của nước này vào nước kia cũng sẽ
được bảo hộ và còn nhiều nội dung hợp tác kinh tế khác.
2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam và trên
thế giới
Trước khi chúng em tiến hành nghiên cứu đề tài này đã có rất nhiều đề
tài khoa học, công trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan đến xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam ra thị trường thế giới. Có thể kể đến các công trình như:
11
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
- Đề án “Những giải pháp về thị trường cho sản phẩm thuỷ sản xuất
khẩu của Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ/ PGS-TS:Võ Thanh
Thu chủ biên…
- Đề án “ Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật và dịch tễ trong xuất
khẩu hàng thuỷ sản nước ta vào thị trường Hoa Kỳ”. Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ/ Doãn Kế Bôn chủ nhiệm, Nguyễn Đức Khiên - trường Đại học
Thương Mại (2006).

- Đề tài “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường/
Dương Hoàng Anh- Đại học Thương Mại (2004).

Trong đề án “ Những giải pháp về thị trường cho sản phẩm thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam”, tác giả đã đề cập đến thực trạng xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam qua các thị trường lớn như: Mỹ, Nhật, EU…, nghiên cứu những
nhân tố tác động đến khả năng duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ
sản. Qua đó nhận diện thị trường xuất khẩu chủ lực. Đ ồng thời, tác giả
cũng đề xuất những giải pháp để giữ vững và gia tăng KNXK thuỷ sản trên
từng thị trường cụ thể.
Còn trong đề án “ Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật và dịch tễ
trong xuất khẩu hàng thuỷ sản nước ta vào thị trường Hoa Kỳ”, tác giả đã
phân tích toàn diện thị trường thuỷ sản Hoa Kỳ từ nhu cầu của người tiêu
dung, tình hình cung ứng các sản phẩm thuỷ sản, giá cả đến những yêu cầu kỹ
thuật và VSATTP. Đồng thời, đề án cũng nhận định tình hình xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam tại thị trường này cả về phía thành tựu cũng như hạn chế,
đặc biệt là hạn chế trong việc đáp ứng những kỹ thuật và VSATTP. Từ đó tác
giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm vượt qua nhũng hạn chế đó, đẩy
mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam. Tuy nhiên, các đề án trên mới chỉ tập trung phân tích tình
hình xuất khẩu cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu đối
12
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
với mặt hàng thuỷ sản nói chung, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về
hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam. Hầu hết các công trình nghiên cứu
đều tiến hành trước thời điểm hiệp định được ký kết. Do đó đều chưa phản
ánh được chính xác và kịp thời những biến động của môi trường kinh doanh

và sự thay đổi của những nhân tố tác động đến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Đặc biệt là những tác động của hiệp định song phương Việt - Nhật vừa mới
được ký kết giữa hai nước đến hoạt động xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật
Bản. Vì vậy đề tài nghiên cứu “ Tác động của hiệp định song phương Việt -
Nhật đến hoạt động xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật ” mà chúng em
đang nghiên cứu đảm bảo tính thực tiễn, tính thời sự và không trùng lặp so với
các đề tài trước đó.
2.4. Kinh nghiệm xuất khẩu tôm của một số nước khác vào thị
trường Nhật Bản.
Các nước xuất khẩu tôm hàng đầu vào Nhật Bản là Inđônêsia, Ấn Độ,
Trung Quốc, Thái Lan… Các nước trên đều tập trung vào một mặt hàng là
tôm nên nhìn chung có nhiều điểm tương đồng. Vậy bí quyết gì khiến cho các
nước này có thể giành được vị trí cao trong xuất khẩu tôm vào thị trường Nhật
Bản so với những đối thủ khác? Đó chính là những kinh nghiệm thâm nhập và
phát triển thị trường của riêng từng nước. Dưới đây là kinh nghiệm của ba
nước: Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia mà Việt Nam cần nghiên cứu và học
hỏi.
2.4.1. Trung Quốc.
Hiện nay Trung Quốc đứng thứ 5 trong danh sách các nước xuất khẩu
tôm vào Nhật Bản với kim ngạch 15 triệu JPY. Trung Quốc cũng mới chỉ
hướng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản trong vài năm gần đây nhưng đã đạt
được những thắng lợi nhất định nhờ áp dụng hàng loạt các chính sách và biện
pháp phát triển sản xuất cũng như thâm nhập và mở rộng thị trường.
Về sản xuất, hàng năm chính phủ Trung Quốc đã bỏ ra một khoản tiền
khá lớn để đầu tư cho ngành đánh bắt và nuôi tôm. Các cơ sở sản xuất, lai tạo
13
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
giống của Trung Quốc đã lai tạo thành công nhiều giống tôm có năng suất cao,
chất lượng tốt, có khả năng thoả mãn cao nhu cầu của không chỉ thị trường

Nhật Bản mà nhiều thị trường khác như Mỹ, EU… Trung Quốc đã tận dụng
triệt để các tiềm năng và ngồn lực sẵn có của Nhà nước và nhân dân để tập
trung vào sản xuất. Cùng với đó là chính sách cho vay vốn với mức lãi suất ưu
đãi để nông dân có vốn đầu tư phát triển các vùng nuôi trồng tôm. Nhờ vậy
mà Trung Quốc đã trở thành nước có sản lượng nuôi trồng lớn hơn sản lượng
đánh bắt và hình thành được nguồn cung cấp nguyên liệu lớn với giá rẻ, phục
vụ cho xuất khẩu.
Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc còn có những chính sách hỗ trợ tín
dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giúp các doanh nghiệp này có đủ vốn
để đầu tư vào kinh doanh và thâm nhập vào thị trường Nhật Bản sâu và rộng
hơn. Quan trọng hơn, điều làm cho con tôm Trung Quốc dễ dàng đi vào thị
trường Nhật Bản hơn là các doanh nghiệp đã đề ra các chến lược marketing
khá đa dạng, có sự thay dổi nhanh chóng, phù hợp với sự thay đổi nhu cầu của
thị trường này, nhất là trong điều kiện nền kinh tế có sự biến động mạnh như
hiện nay.
2.4.2. Inđônêsia.
Inđônêsia hiện nay là nước xuất khẩu tôm lớn nhất vào thị trường Nhật
Bản, KNXK ở mức trên dưới 55 triệu JPY một năm. Nhờ có hệ thống dây
chuyền công nghệ cùng với những kho bảo quản hiện đại, Inđônêsia có khả
năng sản xuất ra nhiều loại sản phẩm đa dạng về chủng loại, chất lượng đảm
bảo tốt cả trước-trong và sau chế biến. Do đó, giá trị gia tăng trong mỗi một
đơn vị sản phẩm gia tăng.
Cùng với chất lượng cao thì những sản phẩm của Inđônêsia thường có
bao bì rất đẹp và thường xuyên được đổi mới nên được người tiêu dùng Nhật
Bản ưa chuộng. Ngoài ra, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu của
Inđônêsia ý thức được sự phức tập trong khâu phân phối của thị trường này
nên đã lựa chọn nhiều phương thức để đưa hàng hoá của mình vào Nhật như:
14
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế

xuất khẩu trực tiếp, liên doanh liên kết với các công ty bản xứ, bán hàng trên
mạng… Hơn thế nữa, một số tập đoàn lớn của Inđônêsia đã có văn phòng đại
diện tại Nhật Bản để giúp họ tuyên truyền, quảng bá về sản phẩm của công ty
đến với người tiêu dùng Nhật Bản. Đồng thời, các công ty lại thu thập các
thông tin về nhu cầu thị trường, ý kiến phản hồi của khách hàng để có những
chỉnh sửa cho phù hợp. Đó cũng là những cách làm để các doanh nghiệp Việt
Nam học tập và áp dụng.
2.4.3. Thái Lan.
Thái Lan hiện nay là nước xuất khẩu tôm lớn thứ tư vào Nhật Bản. Các
sản phẩm tôm của Thái Lan xuất sang Nhật bao gồm cả những sản phẩm cao
cấp và những sản phẩm cấp trung bình phục vụ nhu cầu tiêu dùng của mọi
tầng lớp dân cư. Sự thành công của các doanh nghiệp Thái Lan trước hết xuất
phát từ chỗ các doanh nghiệp đã tiến hành phân đoạn thị trường Nhật Bản một
cách chính xác. Do việc nghiên cứu và tìm hiểu kĩ về nhu cầu, thị hiếu tiêu
dùng mặt hàng tôm trên thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm
của Thái Lan đã phát hiện ra rằng bên cạnh những sản phẩm có chất lượng cao
phục vụ cho những đối tượng có thu nhập cao, thị trường cũng rất cần những
sản phẩm tôm đã chế biến các sản phẩm cấp trung bình để đáp ứng nhu cầu
của những đối tượng có thu nhập trung bình và thấp. Chính vì vậy họ đã sản
xuất các mặt hàng tôm đã qua chế biến, giá cả không cao lắm, phù hợp với thu
nhập của tầng lớp này.
Một điều nữa là do ý thức rõ thị hiếu của người Nhật Bản là ưa chuộng
những sản phẩm đa dạng, mẫu mã phong phú nên các doanh nghiệp xuất khẩu
Thái Lan đã không ngừng thay đổi mẫu mã bao bì sản phẩm. Nhờ vậy sản
phẩm tôm của Thái Lan dần có chỗ đứng trên thị trường Nhật Bản được coi là
thị trường rất khó tính.
15
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
2.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Từ kinh nghiệm xuất khẩu tôm thành công vào thị trường Nhật Bản của
các nước trên có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần có sự quan tâm thích đáng đến nguồn nguyên liệu phục
vụ cho hoạt động xuất khẩu. Giữa các bộ, ngành, doanh nghiệp xuất khẩu và
những người nuôi trồng và chế biến phải có sự phối hợp nhịp nhàng để đảm
bảo chất lượng nguồn nguyên liệu, đáp ứng được được nhu cầu của thị trường
Nhật Bản.
Thứ hai, cần có chiến lược xuất khẩu ở cả cấp độ vĩ mô và vi mô, trong
đó chiến lược vĩ mô là cơ sở, chiến lược vi mô là động lực để đẩy nhanh hoạt
động xuất khẩu.
Thứ ba, cần đầu tư hơn nữa cho ngành chế biến thuỷ sản nói chung và
chế biến tôm nói riêng nhằm đảm bảo việc sản xuất ra được nhiều loại sản
phẩm có chất lượng cao, giảm chi phí sản xuất hay nói cách khác là tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, nhất là trong điều kiện cạnh tranh
trên thị trường Nhật Bản gay gắt như hiện nay.
Thứ tư, phải nghiên cứu kĩ nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng tôm của thị
trường cũng như sự thay đổi của nó để có những chiến lược kinh doanh cho
phù hợp. Đặc biệt là phải có chiến lược đối với tôm có kích cỡ nhỏ khi mà thị
trường Nhật Bản còn ít quan tâm đến tôm loại này.
Thứ năm, không ngừng thay đổi mẫu mã, đa dạng hoá phương thức
phân phối tôm vào thị trường Nhật. Người tiêu dùng Nhật ưa thích những sản
phẩm đa dạng về chủng loại và phong phú về mẫu mã nên điều đó là rất quan
trọng.
16
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT
QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TÔM
CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN.
3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu vấn đề.

3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu.
Có thể chia ra hai loại tài liệu là tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Do đó
cũng có hai phương pháp thu thập dữ liệu là thu thập dữ liệu sơ cấp và thu
thập dữ liệu thứ cấp.
a. Thu thập dữ liệu sơ cấp.
Là cách thu thập tài liệu ban đầu mà người nghiên cứu tự thu thập thông
qua phỏng vấn trực tiếp hoặc các nguồn tài liệu cơ bản, còn ít hoặc chưa được
xử lý. Người nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập phương pháp để ghi chép,
thu thập số liệu.
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp bao gồm: lập phiếu điều tra và
phỏng vấn trực tiếp. Phương pháp lập phiếu điều tra là một bảng câu hỏi và
các câu trả lời được sắp xếp theo một logic nhất định. Bảng câu hỏi gồm dạng
mở, đóng hoặc kết hợp.
Tuy nhiên, ở đây chúng tôi sử dụng hầu hết là phương pháp phỏng vấn
trực tiếp. Ở đây chúng tôi tiến hành xin ý kiến các chuyên gia, cụ thể ở đây là
lấy ý kiến của các nhà lãnh đạo một số doanh nghiệp xuất khẩu tôm, của
người quản lý các bộ, ban ngành về xuất khẩu thuỷ sản, các chuyên viên của
cục kiểm tra VSATTP, và của chính những người dân tham gia nuôi
tôm….Từ đó có những được số liệu ban đầu, phục vụ cho quá trình nghiên
cứu.
b. Thu thập dữ liệu thứ cấp.
Là tài liệu có nguồn gốc từ tài liệu đã được phân tích, giải thích, diễn
giải. Ở đây chúng tôi thu thập tài liệu thứ cấp thông qua các luận văn hoặc các
đề tài nghiên cứu có liên quan để rà soát lại thực của hoạt động xuất khẩu tôm
của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Ngoài ra còn thu thập tài liệu thông
17
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
qua báo kinh tế,tạp chí thương mại, các trang web tin cậy như trang Web của
tổng cục thống kê, của Bộ thuỷ sản, để từ đó đưa ra các kết luận và đề xuất

các giải pháp phù hợp.
3.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu.
a. Phương pháp phân tích thống kê .
Phương pháp này sử dụng các số liệu thống kê thích hợp từ kết quả thu
thập dữ liệu thứ cấp để phân tích và đánh giá khái quát thực trạng kim ngạch
xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật, đánh giá cung và cầu về tôm trên thị
trường Nhật Bản…
b. Phương pháp so sánh.
Phương pháp này so sánh các số liệu sơ cấp, thứ cấp thu thập được để
đưa ra các kết luận và phát hiện các vấn đề cần nghiên cứu. Tức là khi đã có
số liệu mà tốt nhất là nên để ở dạng bảng biểu ta thì tiến hành so sánh số liệu
này theo các năm, các giai đoạn hoặc theo từng loại… Từ đó ta thấy được xu
hướng chung của các loại số liệu mà ta đang phân tích. Chẳng hạn thông qua
so sánh ta biết được giá tôm vào thị trường Nhật có xu hướng tăng hay giảm
trong thời gian qua hay là về cơ cấu mặt hàng thì mặt hàng nào xuất khẩu
nhiều nhất….
Tất cả các phương pháp trên đều dựa trên quan điểm duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để phân tích, đánh giá và dự báo cho các vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp duy vật biện chứng thể hiện ở việc nghiên cứu hoạt động xuất
khẩu tôm trong mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản, đồng
thời xem xét trong mối quan hệ đầu tư, quan hệ chính trị, văn hoá- xã hội giữa
hai nước. Còn phương pháp duy vật lịch sử lại dựa trên chuỗi sự kiện diễn ra
trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay để đưa ra những nhận xét và khái quát
thành những quy luật biến đổi, phù hợp với tình hình hiện nay.
3.2.Những nhân tố môi trường ảnh hưởng tới xuất khẩu tôm của
Việt Nam.
3.2.1. Môi trường tự nhiên và sự hình thành, phát triển các vùng
nuôi trồng, sản xuất, chế biến tôm xuất khẩu.
18
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh

tế
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố như vị trí địa lý, khí hậu, đất
đai, tài nguyên thiên nhiên sông, biển…luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu
ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm. Tuy nhiên, muốn
khai thác triệt để các lợi thế của môi trường tự nhiên để phục vụ cho sản xuất,
chế biến tôm xuất khẩu thì cần phải có định hướng về sự phát triển vùng
nguyên liệu.
Ngoài ra, phát triển vùng nguyên liệu tập trung đối với các sản phẩm
tôm xuất khẩu còn tạo điều kiện cho đầu tư đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, đường
xá, giao thông…đến công nghệ chế biến, bảo quản và hệ thống tiêu thụ sản
phẩm. Trên cơ sở đó mới tạo ra khối lượng hàng hóa, có chất lượng cao, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
3.2.2. Chất lượng mặt hàng tôm.
Chất lượng tôm là nhân tố quan trọng trong việc xuất khẩu. Giá trị của
sản phẩm tôm sẽ được nâng cao hơn khi qua các khâu sản xuất, chế biến. Mặt
khác, tôm là động vật tươi sống nên việc chế biến sớm bao nhiêu thì giá trị
càng được nâng cao và ngược lại.
Ngoài ra sản phẩm tôm nước ta muốn thâm nhập vào thị trường thế giới
thì sản phẩm cần phải được sản xuất, chế biến theo một số tiêu chuẩn chất
lượng đã được công nhận như: Hệ thống tiêu chuẩn ISO 900, ISO 14000,
3.2.3. Giá cả.
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp và
tốc độ chu chuyển hàng hóa. Định giá mặt hàng tôm thấp trong một số trường
hợp sẽ làm tăng sức cạnh tranh, thu hút khách hàng. Nhưng định giá thấp sẽ
ảnh hưởng tới doanh thu và hiệu quả kinh doanh do giá bán không bù đắp chi
phí sản xuất. Ngoài ra còn gây ra những bất lợi: làm giảm giá trị hàng hóa,
người tiêu dùng nghi ngờ chất lượng sản phẩm. Nhưng định giá quá cao trong
khi chất lượng sản phẩm tôm chưa thật tốt sẽ làm cho sản phẩm tôm mất sức
cạnh tranh. Do đó cần đưa ra một mức giá phù hợp.
3.2.4. Thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu về tôm của người dân Nhật.

19
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
Nhật Bản ngày nay là một thị trường mở, quy mô lớn với số dân 127,8
triệu dân (tính đến tháng 9 năm 2006) có mức sống khá cao (GDP theo đầu
người năm 2006 là 35.7557 USD/người). Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật
Bản bắt nguồn từ truyền thống văn hoá và điều kiện kinh tế, nhìn chung họ có
độ thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hàng hóa dịch vụ
trong và ngoài nước.
Nhật Bản được coi là một trong những thị trường đòi hỏi cao về chất
lượng sản phẩm. Xét về mặt chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu
khắt khe nhất. Họ đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ
bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một
chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Bởi vậy cần có sự quan tâm đúng
mức tới khâu hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm.
Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: Hàng
hóa có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản.
Vào một siêu thị của Nhật Bản mới hình dung được tính đa dạng của sản
phẩm đã phổ biến đến mức nào ở Nhật. Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo
những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất quan trọng để đưa hàng của các
doanh nghiệp tới người tiêu dùng.
Tại Nhật Bản, thuỷ sản là món ăn không thể trong bữa ăn của người
Nhật.Bình quân tiêu thụ thuỷ sản đầu người của Nhật đạt 72kg/người/năm,
cao hơn so với Mỹ chỉ đạt 68kg/người/năm và của Việt Nam là
13,8kg/người/năm. Mặc dù là thị trường tôm lớn thứ hai sau Mỹ nhưng tiêu
thụ tôm theo đầu người của Nhật đạt hơn 2,5kg trong khi Mỹ chỉ đạt 1,9 kg.
Đó là do thói quen tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản và nghệ thuật chế biến món ăn
từ thuỷ sản có từ lâu đời của người dân Nhật Bản. Trong đó, tôm sushi là món
ăn truyền thống được yêu thích nhất, thường được tiêu thụ nhiều vào dịp cuối
năm và những ngày Tết hay dịp lễ hội Bon trong tháng 8. Trong tương lai

Nhật Bản vẫn tiếp tục nhập khẩu tôm với khối lượng lớn.
3.2.5. Các quy định pháp lý
20
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
Tôm nhập khẩu không bị hạn chế bởi quota nhập khẩu nhưng lại chịu
sự chi phối của Luật kiểm dịch và Luật vệ sinh thực phẩm.
Luật kiểm dịch quy định tôm nhập khẩu từ nước có nguy cơ dịch tả sẽ
phải kiểm dịch. Nếu phát hiện thấy vi khuẩn hàng sẽ bị huỷ hoặc trả lại.
Nhãn hiệu hàng hoá: Luật vệ sinh thực phẩm yêu cầu sản phẩm phải có
đầy đủ các thông tin sau:
- Tên sản phẩm
- Hạn sử dụng
- Tên, địa chỉ nhà sản xuất ( hoặc nhà nhập khẩu)
- Tên chất phụ gia nếu có
- Cách bảo quản
- Hãng nhập khẩu (nếu là nhập khẩu)
- Xuất xứ
- Ngoài ra còn kích cỡ, trọng lượng bao gói
Thuế nhập khẩu thường ở mức 4% (với nước thành viên WTO là 1%).
3.2.6. Tiêu chuẩn về tôm xuất khẩu vào thị trường Nhật.
Tôm tươi sống, ướp đá được phân phối qua nhà bán buôn, do đó cần
chú ý tới việc giao hàng sớm. Trong thực tế, chi phí lưu thông cộng thêm cước
phí vận chuyển bằng máy bay có thể đội giá hàng lên rất cao. Ta có thể lựa
cách bỏ qua chợ bán buôn mà thoả thuận trực tiếp với nhà phân phối và bán
lẻ.
Việc kiểm dịch chất lượng hàng hoá nhất là thực phẩm tươi sống được
Nhật Bản tiến hành rất chặt chẽ. Người ta cũng tiến hành kiểm tra xem trong
tôm còn có hàm lượng chất tẩy trắng hay chất kháng sinh kháng khuẩn thừa
hay không.

Hầu hết tôm đông lạnh được vận chuyển bằng tàu biển, thời gian này
phải tính đến lãi suất chi phí lưu kho trong khi chờ đợi để giải quyết hàng.
Các nhà xuất khẩu cũng nên nhận thức rằng thị trường Nhật rất khắt khe
với chất lượng sản phẩm và các tiêu chuẩn liên quan. Phải đảm bảo rằng hàng
đáp ứng được yêu cầu của thị trường về kích cỡ cũng như độ tươi, phải đảm
bảo đã mua đủ bảo hiểm phòng những rủi ro có thể xảy ra.
Tôm nhập khẩu với số lượng dưới 10kg thì được miễn làm thủ tục kiểm
dịch theo Luật vệ sinh thực phẩm. Hàng nhập khẩu từ Việt Nam là nước bị coi
21
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
là có nguy cơ dịch tả cần phải hoàn tất thủ tục kiểm dịch trước khi nhập khẩu
vào Nhật để tránh mất thời gian, làm ảnh hưởng tới chất lượng hàng.
3.3. Thực trạng hoạt động xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật
Bản.
3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật.
Tôm là mặt hàng đạt giá trị cao nhất trong tổng KNXK thuỷ sản của
Việt Nam sang Nhật Bản. Trong mấy năm gần đây(2001-2004), nhập khẩu
tôm của Nhật Bản từ Việt Nam có xu hướng tăng. Đặc biệt là vào năm 2004,
lượng tôm Việt Nam xuất khẩu vào Nhật tăng đột biến. Việt Nam trở thành
nhà cung tôm lớn thứ hai tại Nhật Bản.
Bảng 3.1: Kim ngạch xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật giai đoạn
2002-2007.
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007
KNXK( tấn) 49213 51189 62451 61936 66271 55535
GTXK(triệuUSD) 345,54 388,54 521,42 517,83 571,292 543,05
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007.
Theo bảng số liệu trên, năm 2004, nhập khẩu tôm đông lạnh của Nhật
Bản từ Việt Nam đạt khối lượng 62451 tấn, có giá trị trên 521,42 triệu USD,
tăng 22% về khối lượng và 34,2% về giá trị so với năm 2003,tăng 26,9 % về

khối lượng và 50,9% về giá trị so với năm 2002. Đây là một trong những dấu
hiệu đáng mừng cho các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản.
Nhưng đến năm 2005, cả KNXK và GTXK đều giảm nhẹ, khoảng 0,8%
về khối lượng và 0,7% về giá trị. Sự sụt giảm này chủ yếu là do nhu cầu nhập
khẩu tôm của Nhật Bản có sự thay đổi khá lớn . Họ tăng cường nhập khẩu tôm
cỡ trung bình, tôm chế biến giá trị gia tăng và tôm TCT trong khi tôm của Việt
Nam chủ yếu là tôm cỡ lớn và tôm sú.
Năm 2006, GTXK tăng lên 571,292 triệu USD, tăng 10,32 % so với
năm 2005. Nguyên nhân là do Việt Nam đã có một số điều chỉnh về cơ cấu
tôm xuất khẩu cũng như các biện pháp xúc tiến thương mại giữa 2 nước Việt
22
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
Nam- Nhật Bản. Năm 2007 là một năm đầy khó khăn đối với xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam nói chung cũng như đối với mặt hàng tôm nói riêng vào thị
trường Nhật Bản. KNXK giảm 16,2% tương ứng với 5% về GTXK vì có
nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vi phạm luật VSATTP sửa đổi của Nhật. Cụ thể
như sau:
Từ 29/5/2006 Nhật đã áp dụng Luật VSATTP mới, có thể nói là rất khắt
khe, trong đó có yêu cầu loại kháng sinh chloramphenicol, nitrofurans-AOZ
và một số loại khác không được phép tồn tại trong thực phẩm được nhập khẩu
vào Nhật Bản. Đây là điểm mấu chốt nhất của vấn đề.
Việc Nhật Bản làm mạnh vấn đề dư lượng kháng sinh đối với thực
phẩm nhập khẩu, theo tôi chủ yếu là do quy định của luật rất khắt khe, trong
khi đó, hàng XK của ta có nhiều lô vi phạm. Hàng của các nước khác cũng có
vi phạm và cũng bị siết chặt kiểm tra.
Từ tháng 11/2006, cơ quan chức năng Nhật Bản ban hành lệnh mới,
chuyển mức độ kiểm tra từ 50% các lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam sang
lệnh kiểm tra 100%. Nếu tình hình không được cải thiện, lệnh cấm nhập khẩu

tôm từ Việt Nam sẽ được ban hành. Do đó có rất nhiều lô hàng của Việt Nam
đã bị trả lại do phát hiện ra dư lượng chất kháng sinh trong đó. Vì vậy KNXK
trong năn 2007 sụt giảm mạnh. Tuy nhiên, trên thị trường Nhật Bản giá tôm
lại tăng do nguồn cung tôm từ Việt Nam cũng như các nước khác (Ấn Độ,
Thái Lan, Inđônêsia) đều khan hiếm, làm cho GTXK chỉ giảm 5% trong khi
KNXK giảm tới 16,2%.
10 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Mỹ và Nhật
giảm mạnh, nhưng sang các thị trường khác lại tăng đáng kể. Theo tin từ
VASEP, 10 tháng qua, toàn ngành đã xuất khẩu được trên 170 nghìn tấn tôm
các loại, trị giá khoảng 1,35 tỉ USD, tăng 7,4 % về khối lượng và giá trị so với
cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, trong ba thị trường truyền thống của tôm Việt
Nam là Mỹ, Nhật và EU thì chỉ có EU là tăng trưởng dương với mức tăng
22,2% về khối lượng, đạt gần 33 nghìn tấn và 15% về giá trị, đạt trên 228,4
23
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
triệu USD. Xuất khẩu tôm sang Nhật và Mỹ thì sụt giảm cả về lượng lẫn giá
trị. Cụ thể, xuất khẩu tôm sang Nhật giảm 4,5% về lượng và 2,8% về giá trị,
xuất sang Mỹ giảm tương ứng là 6,2% và 15,3%.
3.2.2. Giá tôm Việt Nam tại Nhật thấp hơn các nước khác và có xu
hướng tăng.
Trong những năm gần đây (2003 – 2007) nhìn chung giá tôm nước ta có
xu hướng tăng qua từng năm. Năm 2004, giá tôm trung bình của Việt Nam là
833 Yên/kg tăng nhẹ (0,2) so với năm 2003. Năm 2005, giá tôm xuất khẩu đạt
850 Yên/kg tăng hơn 2% so với năm 2004. Với mức tăng 47 Yên/kg so với
năm 2005 thì năm 2006 là năm có mức giá xuất khẩu tăng mạnh nhất.
Bảng 3.2: Giá tôm trung bình trên thị trường Nhật Bản
Đơn vị: Yên/kg.
Năm Giá tôm trung bình
Việt Nam Inđônêsia Thái Lan Ấn Độ Trung Quốc

2003 831 932 940 654 651
2004 833 950 944 767 658
2004 850 967 968 772 672
2006 897 973 982 806 724
2007 905 980 990 859 821
Nguồn: Theo Lê Hằng- Bản tin TMTS, số 3/2009.
Giá tôm xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng như vậy một mặt là
do tại thị trường Nhật Bản, nguồn cung cấp tôm cỡ trung từ các nước sản xuất
chính như Ấn Độ, Inđônêsia cũng khan hiếm, các nhà cung cấp đều muốn tăng
giá. Do đó giá tôm của Việt Nam tại Nhật cũng tăng theo. Mặt khác, việc chất
lượng các sản phẩm tôm của Việt Nam ngày càng được nâng caolà nguyên
nhân chính tác động làm cho giá tôm tăng.
Nước ta đã đạt được mức sản lượng và giá trị xuất khẩu vào Nhật Bản
là khá cao nhưng nhìn chung mức giá tôm của ta còn thấp, chỉ bằng 70% giá
24
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa kinh
tế
bán của các đối thủ cạnh tranh ở trong khu vực như Thái Lan, Inđônêsia…đối
với cùng một loại sản phẩm do chất lượng sản phẩm sau chế biến của ta thấp
hơn họ. Tuy nhiên giá tôm xuất khẩu của ta cũng cao hơn một số nước như Ấn
Độ, Trung Quốc… Có điều này là do Trung Quốc và Ấn Độ có giá thành sản
xuất thấp hơn của Việt Nam nhờ vào các lợi thế gía nhân công rẻ, tính kinh tế
nhờ quy mô…
3.2.3. Cơ cấu và chủng loại tôm xuất khẩu.
Cơ cấu nhập khẩu mặt hàng tôm tại thị trường Nhật Bản rất đa dạng về
chủng loại cũng như kích thước.
Bảng 3.3: Cơ cấu mặt hàng tôm nhập khẩu của Nhật Bản
Đơn vị: tấn.
Các dạng sản phẩm 2004 2005 2006 2007
Sống 383 271 287 318

Đông lạnh nguyên con 241445 232443 233178 234515
Tôm ướp đá 33 19 38 42
Khô, muối, ngâm nước muối 2351 2008 2105 2178
Luộc, đông lạnh 16175 17015 17173 17200
Luộc & xông khói 618 422 434 450
Chế biến sẵn 39692 42181 43075 43150
Shu shi 341 263 276 290
Tổng cộng 301608 294658 296566 302143
Nguồn: Infofish trade new, 2007 – 2008.
Trong nền công nghiệp thực phẩm tại Nhật, tôm và tôm hùm có nhu cầu đặc
biệt ổn định. Chúng được nhập khẩu dưới rất nhiều hình thức như đông lạnh, tươi
sống, ướp đá, muối hay đã chế biến, nhưng chiếm phần lớn là tôm đông lạnh. Năm
2008, mặt hàng này chiếm tỷ trọng 77,87% khối lượng tôm nhập khẩu. Mặt hàng
tôm chế biến sẵn, bảo quản chiếm tỷ trọng cao thứ 2 (chiếm 14,33% khối lượng tôm
nhập khẩu năm 2008). Những sản phẩm đã qua chế biến, một nửa được hấp chín
trong nước hoặc nước muối sau đó đem đông lạnh hoặc ướp đá. Phần còn lại là tôm
25

×