Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số kinh nghiệm khai thác những vấn đề khó trong các bài đọc văn xuôi sau năm 1975 - chương trình ngữ văn 12 ban cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.3 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở bậc phổ thông trung học, văn học hiện đại Việt Nam sau 1975đã được
đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Ngữ văn 12 bắt đầu từ năm học
2008 – 2009. Cho đến nay, việc giảng dạy văn học sau năm 1975 chỉ mới dừng
lại ở việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm cụ thể. Tính hệ thống về một giai đoạn hay
về một thời kì văn học ở giai đoạn này chưa được đề cập nhiều. Và hầu như
giới nhà văn và giới nghiên cứu phê bình văn học, người dạy, người học đều
đang còn phải tranh luận, về những vấn đề mới này.
Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh. Cùng với những khó khăn
chồng chất của thời hậu chiến đã đẩy đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội ngày càng nặng nề ở nửa đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Hòa bình trở
lại, con người trở về với cuộc sống bình thường, cái đời thường phức tạp, muôn
vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con
người như một cá thể, một thực thể sống đã được thức tỉnh trở lại. Các giá trị về
xã hội, đạo đức, nhân cách trước đây bền vững là thế thì lúc này nhiều điều đã
không còn thích hợp, đã từng lung lay, rạn nứt. Trong khi đó các chuẩn giá trị
mới thì chưa hình thành thực sự. Trong tình hình ấy, các nhà văn cũng đã nhìn
nhận và phán ánh qua những tác phẩm văn học về những diễn biến khá phức
tạp: thái độ chia lìa, quay lưng lại với mọi giá trị truyền thống, con người rơi
vào tình thế lưỡng nan, trở thành những kẻ lạc thời, bảo thủ, không tìm thấy chỗ
đứng trong xã hội mới, mặt trái của cơ chế thị trường, xu thế mở cửa, tâm lý
thực dụng chủ nghĩa, lối sống chạy theo hưởng thụ vật chất mà coi nhẹ các giá
trị tinh thần đang chi phối một bộ phận dân cư, nhất là lớp trẻ. Bộ máy quản lý
cồng kềnh, trì trệ, tệ tham nhũng lan tràn chưa ngăn chặn và thanh toán được.
Với đặc điểm tình hình văn học ấy, là một giáo viên giảng dạy đã nhiều
năm, tôi luôn băn khoăn trăn trở, học sinh ngày nay các em được sống trong hòa
bình, đất nước đã hội nhập, kinh tế phát triển mạnh mẽ, khoa học hiện đại, công
nghệ thông tin phát triển, cộng với nhu cầu công việc. Bởi vậy các em đang dần
quên đi quá khứ dân tộc, với tâm lý thực dụng chủ nghĩa, lối sống chạy theo
hưởng thụ vật chất mà coi nhẹ các giá trị tinh thần, giá trị truyền thống. Nếu


giảng dạy Ngữ văn một cách nghiêm túc, khoa học, thì sẽ định hướng cho học
sinh nhìn nhận cuộc sống hiện đại ngày nay một cách cân bằng: vừa hiện đại
vừa truyền thống, vừa hòa nhập mà không hòa tan. Và trong chương trình Ngữ
văn 12 có rất nhiều bài học bổ ích. Song tôi nhận thấy một số tác phẩm văn học
sau 1975 đã truyền tải được nhiều thông điệp lớn mang ý nghĩa xã hội hiện đại
ngày nay. Đây là một trong những lí do mà tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số
kinh nghiệm khai thác những vấn đề khó trong các bài Đọc văn xuôi sau năm
1975 - chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản ”. Hy vọng đề tài sẽ góp phần
phục vụ tốt việc dạy học môn Ngữ văn, đặc biệt là phù hợp với chương trình đổi
mới sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành.
1
2. Lịch sử vấn đề:
So với các giai đoạn văn học trước, văn học Việt Nam sau năm 1975 là dòng
văn học còn nghiên cứu khá ít. Và ý thức về văn học giai đoạn này còn mờ nhạt,
mãi những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, nhất là những năm gần đây có
rất nhiều tác phẩm đã chuyển tải thành phim, đã được nhận giải thưởng cao của
nhà nước như các tác giả Nguyễn Minh Châu, Ma văn Kháng, Nguyễn Khải thì
vấn đề dạy và học các tác phẩm văn xuôi sau năm 1975 là rất quan trọng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này tôi chỉ tập chung nghiên cứu một khía cạnh cụ thể là "Một số
kinh nghiệm khai thác những vấn đề khó trong các bài Đọc văn xuôi sau năm
1975 - chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản"
Thời gian nghiên cứu: Đề tài này tôi đã nghiên cứu từ tháng 6 năm 2010
đến tháng 5 năm 2013.
4. Mục đích nghiên cứu:
Làm sáng rõ hơn những thành tựu, hạn chế của văn học Việt Nam nhất là
các bài Đọc văn xuôi sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản
cả về phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiến trình chung của văn học
hiện đại Việt nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp đọc hiểu, thuyết giảng
Phương pháp đối chiếu, so sánh
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp gợi mở, nêu vấn đề
6. Đóng góp của đề tài:
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về các bài Đọc văn xuôi
sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản, đề tài sẽ phân tích,
đánh giá một cách có hệ thống về những, thành tựu, đóng góp của các bài Đọc
văn xuôi sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản vào sự phát
triển của dòng văn xuôi hiện đại Việt Nam.
7. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của đề tài được trình bày
theo 3 phần chính:
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
II. Thực trạng của vấn đề:
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề:
1. Đặc điểm văn học sau năm 1975
a. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
Sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước đó là những biện pháp “xé rào” để “cởi trói” dần đưa đất
nước ra khỏi cuộc khủng hoảng. Đến bây giờ, xã hội và con người Việt Nam
phải trải qua một cuộc “trở dạ” lớn lao và không ít đau đớn, phải tự xây dựng lại
hình ảnh của chính mình và phải tự hình thành từng bước các tiêu chí giá trị
mới. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) kêu gọi đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào
2
sự thật đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi
dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình
diện của đời sống văn học, dân chủ hóa của các quan niệm về vai trò, vị trí và

chức năng của văn học, nhà văn và quan niệm về hiện thực, phát biểu tư tưởng,
quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người .
Xu hướng dân chủ hóa của văn học không chỉ thể hiện ở các quan niệm như
đã nói trên mà đã thâm nhập và được biểu hiện ra trên nhiều bình diện của sáng
tác, từ hệ đề tài, các kiểu kết cấu và môtíp chủ đề, cốt truyện, nhân vật cho đến
giọng điệu và ngôn ngữ. Ở đây chỉ nói thêm một ít về giọng điệu, một yếu tố
bộc lộ rất rõ xu hướng dân chủ hóa của văn học từ sau 1975. Ai cũng dễ dàng
nhận ra trong nền văn học sử thi của giai đoạn trước đó có giọng điệu bao trùm
là ngợi ca, trang trọng với những sắc thái hào hùng, tráng lệ hoặc trữ tình ngọt
ngào, thắm thiết. Tính độc thoại cũng là đặc điểm không thể tránh được của
khuynh hướng sử thi. Khi văn học hướng tới tinh thần dân chủ, thì tính đơn
giọng sẽ dần nhường chỗ cho tính đa thanh phức điệu: độc thoại sẽ chuyển sang
đối thoại.
Sự chuyển biến ấy có thể nhận ra rất rõ trong các thể loại và nhiều cây bút
tiêu biểu. Chẳng hạn trong các sáng tác của nguyễn Minh Châu, của Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng ở hai giai đoạn trước và sau 1975, tính đối thoại và
nguyên tắc đa âm đã thấm sâu vào mọi bình diện của thi pháp, vào cấu trúc ngôn
ngữ, từ lời trần thuật đến lời độc thoại, và độc thoại của nhân vật và cả trong
mạch ngầm văn bản.
Xu hướng dân chủ hóa cũng đưa đến sự nở rộ của các phong cách, bút
pháp, bộc lộ hết mình các cá tính sáng tạo của nhà văn cùng với việc ra sức tìm
kiếm, thử nghiệm nhiều hình thức và thủ pháp nghệ thuật hiện đại phương Tây.
b. Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng
và cảm hứng chủ đạo, bao trùm trong nền văn học giai đoạn này.
Từ sau 1975, khi cuộc sống trở lại với những quy luật bình thường của nó,
con người trở về với muôn mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc
đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số
phận. Nguyễn Minh Châu đã mạnh mẽ phê phán và bác bỏ những luận điểm
nhân danh cái chung, mượn cớ lợi ích cộng đồng mà bỏ qua, thậm chí đà đạp lên

nỗi đau và số phận của mỗi cá nhân. Văn học cũng phải phát hiện ra rằng không
ít khi có sự lệch pha, thậm chí trái ngược giữa số phận cá nhân và cộng đồng,
nảy sinh những bi kịch của con người là nạn nhân của hoàn cảnh và số phận.
Con người cũng được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều
tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm với đời sống tự nhiên,
bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt
và con người trong tính nhân loại phổ quát. Điều dễ nhận ra là phần lớn các tác
phẩm văn học thời kỳ này, con người không còn là nhất phiến, đơn giá trị mà
luôn là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân, trong con người đan cài, chen lẫn,
giao tranh bóng tối và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ,
cao cả và tầm thường… Có nhiên, một nền văn học dựa trên nền tảng tinh thần
nhân bản không thể đưa đến sự hoài nghi, hạ thấp hay phủ nhận con người. Nó
3
phải cảm thông, thấu hiểu và nâng đỡ con người nhưng đồng thời cũng đòi hỏi
cao ở con người và luôn thức tỉnh sự tự ý thức của con người để hướng tới cái
thiện, cái đẹp và hoàn thiện nhân cách.
c. Văn học phá triển phong phú, đa dạng, phức tạp, hướng tới tính hiện đại.
Sự da dạng và phong phú được thể hiện trên rất nhiều bình diện của văn
học: đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ
thuật, đa dạng về phong cách và khuynh hướng thẩm mỹ. Nó là một khu vườn
đa sắc màu, hương vị, nhiều dáng vẻ, thậm chí có cả hiện tượng kỳ dị, lạ lùng.
Nhưng cũng đi liền với tính phức tạp và không ổn định.
Nhiều khuynh hướng tìm tòi chỉ rộ lên trong một khoảng thời gian ngắn
ngủi rồi tắt lịm, thị hiếu công chúng không thuần nhất và cũng luôn biến động,
các thể loại cũng thăng trầm trồi sụt khá bất thường. Sự phức tạp và không ổn
định mang tính giao thời, do sự chi phối của cơ chế thị trường. Văn học là một
sản phẩm hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, điều đó vừa có tác động thúc
đẩy sự phát triển văn học, vừa có nhiều tác động tiêu cực khó tránh khỏi đối với
cả sáng tác lẫn xuất bản, phê bình và công chúng.
Trong xu thế hội nhập giao lưu với đời sống văn hóa và văn học thế giới ,

văn học ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn xuôi có nhiều biến đổi mới về
nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc
thoại nội tâm và dòng chảy ý thức, tính đa thanh và đa giọng điệu, đã đưa đến
nhiều thể nghiệm theo hướng hiện đại chủ nghĩa, đang thu hút ngày càng nhiều
sự chú ý của giới sáng tác và công chúng.
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Các bài học sau năm 1975 trong chương trình ngữ văn 12:
a. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
b. Một người Hà Nội (đọc thêm – Nguyễn Khải)
c. Mùa lá rụng trong vườn ( đọc thêm – Ma Văn Kháng)
2. Cách hiểu những vấn đề khó trong những bài giảng trên đây
a. Nhận thức, nghịch lí của Nguyễn Minh Châu
"Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn Nguyễn Minh Châu được đưa vào
giảng dạy ở chương trình chính thức Ngữ văn 12 bắt đầu từ năm học 2008 –
2009. Các nhà văn và giới nghiên cứu phê bình văn học đều coi đây là tác phẩm
tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện
ngắn, phong cách tự sự - triết lí giai đoạn sáng tác thứ hai. Ra đời từ tháng 8
năm 1983, nghĩa là ở những năm trước của công cuộc đổi mới (tính từ năm
1986). Thời kì lâm vào cơn khủng hoảng kinh tế nặng nề. Thực tế đòi hỏi chúng
ta phải có những cơ chế mới thích hợp để thay thế cơ chế quan liêu bao cấp đã
lỗi thời, kể cả phải thay đổi lối bao cấp về tư tưởng. Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu là một sự báo hiệu công cuộc đổi mới trong văn học, từ đề
tài, nhân vật cho đến cách viết … Chính vì thế mà nhà văn được đánh giá rất
cao, “là người cảm nhận ra sớm nhất, sâu xa nhất, tận máu thịt tâm tưởng mình
cái yêu cầu bức bách sống còn của cuộc trở dạ nọ, mà ngày nay chúng ta gọi là
công cuộc đổi mới”, “là một hiện tượng văn học mới”
4
Nhà văn đã chỉ ra các quan niệm lạc hậu, lỗi thời, cổ hủ, xưa cũ… về con
người, về cuộc đời và cả về nghệ thuật, ví dụ một vài câu văn “Chẳng biết ai đó
lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối

rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khoắc trong phần của tâm hồn” đây là quan niệm giữa chân
lý nghệ thuật và cuộc sống.
Do dung lượng ngắn, chi tiết cô đọng, hàm súc, nên cốt truyện diễn ra trong
một thời gian, không gian hạn chế để hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát
hiện ra một nét bản chất trong đời sống, nên tác giả truyện rất chú ý tới việc
sáng tạo tình huống. Tiến hành phân tích giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn
chúng ta cũng rất nên quan tâm tới yếu tố này. Xét dưới góc độ lý thuyết thì tình
huống đóng vai trò bộc lộ các mối quan hệ, địa vị xã hội và tính cách nhân vật,
thể hiện chủ đề tác phẩm. "Chiếc thuyền ngoài xa "đã sáng tạo ra một tình
huống nghịch lý, oái oăm, trớ trêu. Gồm có những tình huống sau:
Một là, nghịch lý giữa đời sống và nghệ thuật. Cả một tập thể nghệ sĩ nhiếp ảnh
trong “dăm tháng” trời đã chụp được “hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu
…”, được ông Trưởng phòng “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến” đánh
giá là “đẹp thì đẹp thực … và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh
nghệ thuật”. Thế mà, cũng chính vì Trưởng phòng thông minh này lại “không
thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ”. Thì ra người nghệ
sĩ dù có cố gắng bao nhiêu, nỗ lực bao nhiêu, đầu tư nhiều thời gian, bỏ ra nhiều
tâm huyết và trí tuệ bao nhiêu cũng chưa thể đáp ứng được đòi hỏi của cuộc
sống. Người nghệ sĩ không bao giờ được thoả mãn, phải luôn coi mục đích nghệ
thuật luôn ở phía trước để phấn đấu. Đây có thể coi là thông điệp nghệ thuật thứ
nhất của nhà văn.
Hai là, nghịch lý giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng trữ tình và di hoạ
chiến tranh. Cái bờ biển ấy cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số, được Phùng – nhà
nghệ sĩ nhiếp ảnh nhìn bằng con mắt “nhà nghề”, nó “thật là thơ mộng”, “thật là
phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu …”, thế nhưng lại có “những bãi
xe tăng do bọn thiết giáp nguỵ vứt lại trên đường rút chạy hồi “tháng ba bảy
nhăm” bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước gặm mòn và làm cho sét
gỉ…”. Chi tiết này mang dụng ý nghệ thuật: Nó nhắc nhở người nghệ sĩ đừng
bao giờ quên cái nghịch lý của đời sống. Nghệ thuật không chỉ ở cảnh đẹp thơ

mộng mà còn ở cả cái hiện thực sần sù gai góc kia. Đó là sự gợi mở bạn đọc
theo dõi những diễn biến tiếp sau của câu chuyện. Nó nhắc khéo bạn đọc bối
cảnh ra đời của câu chuyện là chưa xa một thời chiến tranh. Mà chiến tranh bao
giờ cũng đi liền với sự mất mát, đau thương nên di hoạ, về vật chất và tinh thần
vẫn còn tồn tại dai dẳng. Làm sao xoá bớt dần di hoạ chiến tranh, làm liền sẹo
những nỗi đau mà chiến tranh để lại. Đây cũng là một ẩn ý cần được khai thác
sâu hơn.
Ba là, nghịch lý giữa cảnh thiên nhiên đẹp thơ mộng hữu tình và cái đẹp vô
hồn . Phùng không lấy “cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước” vì “
cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn… thật hùng tráng” này lại có gì “hơi
5
thô lỗ”. Và không thể lấy cảnh “thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng
sáng” vì đó là “một cảnh chết” có quá nhiều người đã khai thác. Phùng cũng
không lấy cảnh “Đằng đông đã trắng sáng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn
hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã
sáng rõ, đến cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn tăn
trên mặt tấm thép dát màu xám đục ”. Phải đến lần thứ tư Phùng mới quyết định
bấm máy để thu vào ống kính “… vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo
của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc
trong bản hoà tấu ánh sáng và bóng tối, tượng tưng cho khung cảnh bình minh là
một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên
trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang
cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt
nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng
thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc
gọng lưới chĩa thẳng lên trời”. Đúng là một cảnh đẹp có hồn, khoẻ khoắn, trong
sáng, tươi vui!: Đó là một cảnh thật hài hoà về hình ảnh, màu sắc. Nghệ thuật là
như vậy, phải là sự công phu, tìm tòi biết chờ đợi, đòi hỏi một sự kiên nhẫn cao
độ. Và cũng trớ trêu thay, nghệ thuật không chỉ thế là có được mà còn phải là
“giời cho” nữa. Chính Phùng đã tâm niệm điều này: “… nếu không có thêm sự

sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba đến bao nhiêu, anh cũng chỉ …
thu được những tấm ảnh vô hồn”.
Bốn là, nghịch lý giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” và cảnh con
người lam lũ, vất vả, khổ đau. Phải đến lần thứ năm Phùng mới được “một cảnh
“đắt” trời cho”: “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài
bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt
lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt
cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và
đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối
rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”. Chứng tỏ sự am hiểu sâu sắc về
hội hoạ, một sự nhạy cảm trước cái đẹp mới có thể viết nổi đoạn văn miêu tả
“cái đẹp tuyệt đỉnh”, “toàn bích” này
Nhưng oái oăm thay, nghịch lý và trớ trêu thay. Đó là tiếng quát của gã ngư
phủ: “Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.Đó là “một thân hình quen thuộc
của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn
ngủ ”. Đó là một gã đàn ông “mái tóc như tổ quạ … chân đi chữ bát … hàng
lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…” Chưa hết, tiếp theo
là cảnh hành hung đánh đập, phi nhân tính rùng rợn: “Lão đàn ông lập tức trở
lên hùng hổ, mặt đỏ gay gắt, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính
nguỵ ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách
dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két …” Nghiệt ngã thay! Khát vọng tìm đến
6
cái đẹp để mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng người
nghệ sĩ phải tỉnh táo để nhận ra cái thực tế phũ phàng của đời sống. Và đây cũng
là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: hãy tỉnh táo trước cái đẹp. Bất cứ cái đẹp
nào cũng rất có thể ẩn chứa những điều phức tạp đi ngược lại hạnh phúc của con

người. Cái tình huống nghịch lý này trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan
màn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh tuyệt đẹp kia để làm trơ ra cái sự tàn nhẫn
của đời thường. Người nghệ sĩ không chỉ nhận thấy cảnh đẹp lãng mạn bên
ngoài kia mà còn phải nhìn thấy cả cảnh hành hạ man rợ của lão ngư phủ nọ.
Đây là bài học, là trách nhiệm, cũng là lương tâm của nghệ thuật.
Nhà văn đã sử sụng nghịch lý, đối lập trong xây dựng nhân vật: cái tốt cái
xấu lẫn lộn, đan cài với nhau. Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài
thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”
nhưng vẫn không chịu “chia tay” với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời
giãi bày gan ruột của người mẹ đáng thương ta mới thấy bà có một tấm lòng hi
sinh vô bờ “ … đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn
ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con
nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình…”. Còn gã đàn ông kia cũng không hẳn hoàn
toàn xấu. Vì đâu mà lão trở lên vũ phu tàn độc như vậy ? Khi xưa, theo lời vợ
lão thì đó “ là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ
đánh đập ” . Vẫn theo lời vợ lão thì là do lão “khổ quá” vì làm ăn nuôi con. Rồi
đói, khi “ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn
ăn cây xương rồng luộc chấm muối… ”. Trước sau thì hắn vẫn là người lao
động lương thiện, hơn nữa lại là lao động chính, kiếm sống bằng mồ hôi nước
mắt của mình để nuôi mười mấy miệng ăn. Lão đánh vợ để giải toả những bức
bối. Ta hãy để ý khi đánh vợ lão cũng đau đớn “Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại
nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Lão cũng không phải là kẻ hiếu
chiến, không phải là kẻ chỉ thích gây gổ đánh đấm người khác, bằng cớ là ngay
Phùng cũng khẳng định “lão đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ”. Còn thằng
Phác đứa trẻ ham hiểu biết, sớm lam lũ lao động, hồn nhiên chơi với “tôi” như
một người bạn thân và rất thương mẹ… Bên cạnh những phẩm chất ấy trong nó
cũng ẩn chứa một tính côn đồ nguy hiểm : sẵn sàng cầm dao đâm bố để cứu mẹ.
Nó sớm đã có ý thức báo thù bằng cách lấy bạo lực để ngăn cản bạo lực.
Nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng với tất cả sự phức tạp

của nó, không hẳn xấu cũng không hẳn là kẻ tốt. Xét đến cùng lão chồng vừa là
thủ phạm gây ra cảnh đau đớn cho người vợ, cho con đẻ đồng thời cũng lại là
nạn nhân của cuộc sống còn tăm tối khốn khổ. Người vợ cũng vừa là nạn nhân
vừa là thủ phạm, mà theo chính lời mụ thì là do “cái lỗi…là đám đàn bà ở
thuyền đẻ nhiều quá”. Thằng Phác cũng thế, vừa là nạn nhân của thói côn đồ lại
vừa là thủ phạm kích động thói côn đồ và chính nó cũng sớm có tính côn đồ.
Những nhân vật đó chưa mang chiều kích của nhân vật tính cách với những quá
trình phát triển tâm lý nhưng nó đã làm tốt chức năng thể hiện chủ đề tác phẩm.
Chủ thể trần thuật là ngôi thứ nhất, lời văn trần thuật trong cấu trúc văn bản, vừa
đi sâu, cụ thể vào các sự kiện vừa quy chiếu một cách toàn diện, hệ thống cốt
7
truyện. Vậy cái kết cục của câu chuyện sẽ như thế nào, liệu người vợ có bỏ lão
chồng kia không, liệu tòa có xử cho họ ly hôn không, rồi số phận những đứa con
họ sẽ ra sao ? Đó chính là nhận thức, nghịch lí của câu chuyện.
b. Đối thoại mới của Ma văn Kháng Nguyễn Khải
* Nguyễn Khải
Truyện “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập
truyện cùng tên, xuất bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.
Truyện xoay quanh nhân vật chính Cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp
trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ
nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.
Không nói về ngoại hình, mà chỉ kể, chỉ giới thiệu về ngôn ngữ, cách
sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con, với người
thân, với bạn bè, với thời cuộc. Anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về
thành phần giai cấp, về chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo…” thì cô
cười rất tươi: “Tại chưa đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất
tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao
thành tư sản được”. Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không
bị học tập cũng lạ nhỉ?”, thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà
nước lại rất biết”. Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn” các bà bạn

và “thức thời hơn” ông chồng. Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng
có cửa hàng cửa hiệu. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo
thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn
như thế. Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: “Mẹ ơi!
Đồng chí Khải đến!”thì cô cau mặt gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”.
Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi
nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị vú kể lại cho cả nhà nghe có
anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những
chuyện lặt vặt”.
Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới
đi lấy chồng. Không lấy một ông quan nào, chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ
văn nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm,
để làm vợ, làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.Cô đặc biệt coi trọng vai trò
người phụ nữ trong gia đình: người vợ không chỉ là nội trợ mà là “nội tướng”.
Người đàn bà không là "nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.
Là người mẹ, cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự
trọng, biết xấu hổ”,nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn
nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách
múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng
mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được
sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Giữa thời chống Mỹ, cô Hiền đã thể hiện tình mẹ
con và ý thức công dân rất rõ. Năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến
đấu trong Nam. Dũng là con đầu vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi
đánh Mỹ lần ấy. Khi đứa cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu
8
chứ?” Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám
vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”
Ngày thường, cô Hiền, các bạn của cô Hiền, v.v… ăn mặc bình
dân, “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc cổ
hay bịt đầu”. Nhưng trong bữa tiệc liên hoan mừng đứa con trai đi đánh giặc

bình yên trở về, các vị khách - các cựu công dân Hà Nội, ăn mặc thật sang trọng,
cô Hiền xuất hiện “như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp
lánh…”. Cô đã già yếu, đã ngoài bảy mươi tuổi. Nhưng “cô vẫn là người của
hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn”. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng
những gì tốt đẹp của văn hoá Thăng Long.Tâm hồn cô, tính cách của cô cùng
với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh lịch trong sáng và
phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.Vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hoá
của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm
thấy bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng
vàng chói sáng. Năm 2010, đồng bào cả nước ta sẽ tưng bừng kỉ niệm một nghìn
năm Thăng Long (1910 - 2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập
“Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải đã và đang toả sáng tâm hồn mỗi chúng
ta.
* Ma văn Kháng
Mùa lá rụng trong vườn được Ma Văn Kháng viết xong tháng 12 năm
1982, xuất bản lần đầu năm 1985. Từ đó đến nay tác phẩm được tái bản nhiều
lần. Năm 2001, nhà biên kịch Đặng Minh Châu chuyển thể Mùa lá rụng trong
vườn và Đám cưới không giấy giá thú thành kịch bản văn học; đạo diễn Quốc
Trọng dựng thành phim nhiều tập Mùa lá rụng. Đây là cuốn sách "tiền trạm"
của Đổi mới mà nó chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt, ngay khi vừa ra đời,
được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình, hàng chục bài báo viết về tác phẩm
này,được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải B về văn xuôi.
Viết về đề tài gia đình, một đề tài không mới trong văn học Việt Nam
hiện đại. Với Mùa lá rụng trong vườn, đã có công khơi lại mạch viết về chủ đề
gia đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam. Đó là gia
đình trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Với cách đặt vấn đề mới của tác
giả, các mối quan hệ thông thường giữa cha và con, vợ và chồng, anh và em, bố
chồng và nàng dâu, chị dâu và em chồng bỗng trở thành điểm thử thách sự bền
vững của kiểu gia đình truyền thống trong cuộc va chạm với kiểu gia đình hiện
đại. Nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ trong từng gia đình do vậy cũng được dự báo kịp

thời. Nó còn nói lên sự tác động đáng ngại của xã hội thời mở cửa. Việc đề cao
đồng tiền quá mức, việc sống buông thả theo dục vọng thấp hèn rất dễ làm xói
mòn mọi giá trị truyền thống, làm đảo điên xã hội.
Câu chuyện kể về một gia đình trí thức còn giữ nhiều nền nếp cổ truyền, là
một gia đình kiểu "tứ đại đồng đường", gồm gia đình Đông - Lý, gia đình Luận -
Phượng và sau này có thêm vợ con Cừ). Bề ngoài đây là một gia đình mô phạm
mẫu mực, có nề nếp gia phong. Vậy mà cuộc sống khó khăn, đầy biến động của
đất nước sau chiến tranh đã đẩy gia đình "mẫu mực" ấy vào một bước ngoặt với
những dấu hiệu rạn nứt rõ ràng, không dễ khắc phục.
9
Ma Văn Kháng đã dùng hình ảnh ẩn dụ mùa lá rụng để nói lên qui luật đó.
Mọi loài cây trong vườn vào mùa thay lá đều biến đổi. Chúng trút bỏ những
chiếc lá vàng cũ kỹ, thay vào đó là những chiếc lá non tơ mơn mởn. Nhưng
những chiếc lá mới ấy cũng mọc lên từ những cành mà trước đó không lâu nó đã
rũ bỏ không thương tiếc những chiếc lá, "lối sống ích kỷ, buông thả theo những
dục vọng thấp hèn, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp những nguyên tắc luật lệ
của đạo đức xã hội đang có nguy cơ xâm nhập vào từng gia đình, làm đảo lộn
những gì trước đây cho là thiêng liêng, cao cả" mà còn nêu lên yêu cầu đổi mới
gia đình truyền thống cho phù hợp với xã hội mới. Truyền thống văn hoá dân tộc
và truyền thống gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng của nó trong
thời đại mới là những vấn đề cơ bản mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Khăng
khăng giữ lại tất cả những gì của ngày xưa không phải là chuyện hợp thời,
nhưng thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi nề nếp nhất định sẽ dẫn tới bi kịch.
Tác phẩm còn là hồi chuông cảnh tỉnh những người có tư tưởng thủ cựu, cố
duy trì, níu kéo kiểu gia đình truyền thống. ông Bằng là người đại diện cho lớp
người đó. Ông cố gắng duy trì cái nề nếp cổ xưa, với hàng trăm điều nhỏ nhặt
nhằm xây dựng gia đình hoà thuận, trên kính dưới nhường, trọng nghĩa khinh
tài, hướng về sự phát triển đạo đức tinh thần. Ông coi danh dự gia đình là trên
hết, luôn khuyên dạy các con mình phải giữ gìn danh dự. Trong con người ông
luôn có cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Khi biết Cừ vỡ mộng về "miền đất hứa"

và dùng cái chết để sữa chữa lỗi lầm, ông đã ngã gục. Ông Bằng ngã gục không
hoàn toàn vì việc Cừ phản bội tổ quốc chạy ra nước ngoài làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thanh danh gia đình. Cái lương tâm, sự hối hận muộn màng
của người con trai nơi đất khách quê người cùng việc nó nói ra sự thật về cách
giáo dục câu nệ, cứng nhắc, hà khắc, lỗi thời của chính ông đã làm ông gục ngã!
Chính vì vậy, trước lúc từ giã cõi đời, ông đã hối hận, nhận ra sai lầm của mình.
Cũng vì thanh danh gia đình mà ông hy sinh cả tình cảm riêng tư. Vợ chết,
cả nhà toàn là người lớn. Hầu như ông phải sống thui thủi một mình ở nhà. Ngòi
bút Ma Văn Kháng đôi lúc phân vân, nhà văn lờ mờ cảm nhận được có cái gì đó
không ổn, không hợp thời của kiểu gia đình xưa nhưng mặt khác ông lại luyến
tiếc những nề nếp, những tôn ti trật tự tạo nên truyền thống gia đình người Việt.
Quả thật, phải xét thời điểm ra đời của tác phẩm (viết xong năm 1982, trước Đổi
mới bốn năm), chúng ta mới thấy hết tính dự báo của nó; mới nâng niu, trân
trọng những cách tân táo bạo của nhà văn.
Tác phẩm còn đề cập một thực trạng đáng báo động nữa của xã hội buổi
giao thời: không ít người có lối sống ích kỷ, chỉ biết chạy theo dục vọng cá
nhân, chạy theo đồng tiền, thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức
xã hội hàng ngày, hàng giờ làm băng hoại mọi mối quan hệ gia đình. Trong gia
đình xuất hiện hai con người nổi loạn muốn hê tung tất cả, phủ định sạch trơn
mọi chuẩn mực đạo đức truyền thống là , Cừ và Lý là nhân vật được Ma Văn
Kháng khắc hoạ rất đậm nét trong tác phẩm. Lý là nhân vật phức tạp, có cá tính,
có đời sống nội tâm phong phú. Có lúc chị đôn hậu đáng yêu, có lúc chị đanh đá
tàn nhẫn. Là một con người thích quyền hành muốn sai khiến người khác, dám
đứng mũi chịu sào, tự coi mình hơn người, chị lại thích ăn diện, thích theo đòi
cuộc sống xa hoa". Lý mồ côi bố mẹ từ lúc còn rất nhỏ, không được sống trong
10
mái ấm gia đình, không được cắp sách đến trường, sớm bị tiêm nhiễm lối sống
xô bồ nơi thị thành. Lý vốn đẹp, nhưng Đông thờ ơ trước vẻ đẹp và những đòi
hỏi chính đáng của chị, không còn là chỗ dựa tinh thần để chị có thể xẻ chia hay
bộc bạch nỗi niềm tâm sự. Lý có cái ảo tưởng mình có vai trò rất quan trọng,

đã đẩy chị không làm chủ được cám dỗ vật chất dẫn đến sa ngã, hư hỏng.
Nhưng người chồng vô lo đến mức vô tâm của chị đã không làm được việc ấy,
khiến chị buông xuôi, trượt ngã. Sự tin cậy của mọi người đối với chị cũng
không được như xưa. Luận gián tiếp ca ngợi chị Hoài là người chín chắn, trung
thực, "hoàn toàn tin cậy được". Còn ông Bằng, trong chúc thư, trao sổ tiết kiệm
ba ngàn đồng cho Phượng chứ không phải cho chị, mặc dù chị là cô dâu trưởng.
Thêm nữa, Luận vốn hiểu và kính phục chị, luôn ca ngợi chị tài giỏi, tháo vát,
chân tình nhưng bây giờ công khai lên án chị gay gắt, gọi chị là "quỷ sa
tăng". Niềm tin cậy, chỗ bám víu của chị trong gia đình không còn. Những nét
thô kệch, phàm tục do thiếu văn hoá căn bản trong Lý bộc phát ra hết, rặt những
nét trâng tráo, vô liêm sĩ, bản năng và hoang dã. Mọi sợi dây ràng buộc chị với
chồng và các thành viên trong gia đình đứt tung. Chị buông thả theo lối sống
phóng túng, sa đoạ, trác táng. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa
thiếu một người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh
mẽ những mặt trái của kinh tế thị trường. Nhà văn cũng đã chọn giải pháp để chị
hối hận, nhận ra sai lầm và xin trở lại mái nhà xưa. Mọi người trong gia đình
cũng nhận thức được trách nhiệm của mình về sự sa ngã của chị và mở rộng
cánh cửa đón chị trở về
Hạn chế là nhà văn để các nhân vật "nổi loạn" nhận ra lỗi lầm của chính họ
quá dễ dàng. Xong, Mùa lá rụng trong vườn vẫn, để lại nhiều dư âm trong lòng
người đọc, những thông điệp nhà văn gửi gắm trong tác phẩm là đổi mới phải
gắn liền với kế thừa. Đổi mới nhưng không bao giờ quên những tinh hoa truyền
thống. Có như vậy, chúng ta vừa tránh được tụt hậu vừa giữ vững bản sắc dân
tộc trong việc xây dựng gia đình, xã hội Việt Nam hiện đại phù hợp với xu thế
hội nhập của thời đại
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
1. Giáo án thể nghiệm bài : “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:
Tiết: 70,71
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Nguyễn Minh Châu)

I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức:
- Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật: phải nhìn
nhận con người và cuộc sống một cách đa diện; nghệ thuật chân chính luôn gắn
bó với cuộc đời, vì cuộc đời.
- Tình huống truyện độc đáo mang, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời
sống. Điểm nhìn nghệ thuật đa chiều. Lời văn giản dị và sâu sắc, dư ba.
2. Kỹ năng: Đọc – hiểu truyện ngắn hiện đại. Phân tích tâm lí nhân vật.
3.Thái độ: Trân trọng và có cái nhìn cảm thông với số phận éo le của con
người.
11
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên: Giáo án, sgk, sgv, stk…
2. Học sinh: Đọc bài, soạn bài theo hướng dẫn bài học
III. CÁC BƯỚC LÊN LỚP
1. Ổn định:
2. Bài cũ:
3. Bài mới:
Lời vào bài: Nguyễn Minh Châu đã khẳng định: “Bước ra khỏi một cuộc chiến
tranh cũng phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến
tranh”. Bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm
trọng. Nền văn học cũng chững lại và cũng không ít người viết lâm vào tình
trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. "Chiếc thuyền ngoài xa"
là một tác phẩm “mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của VHVN
thời kì đổi mới.
Hoạt động của GV - HS Nội dung cần đạt
Tiết 1:
Gv gọi 1 HS đọc tiểu dẫn sgk
Trình bày vài nét về tác giả?

+ Tiẻu sử
+ Tác phẩm chính
- HS trình bày, GV tổng hợp (máy
chiếu)
Nêu vị trí và xuất xứ ra đời của tác
phẩm?
* GV cung cấp thêm
Mở đầu tác phẩm xuất hiện nhân vật
nào, nhân vật đó phát hiện ra điều gì
trong buổi sáng tinh sương?
Gồm mấy phát hiện (hai phát hiện)
Cảnh được miêu tả thế nào?
GV cho hs tìm dẫn chứng
+“Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè
nhoè vào bầu sương mù màu trắng
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả: (1930-1989)
- Trước năm 1975 là ngòi bút sử thi có
thiên hướng trữ tình lãng mạn;
- Từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX
chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với
những vấn đề đạo đức và triết lí nhân
sinh, thuộc trong số những người “mở
đường tinh anh và tài năng” (Nguyên
Ngọc) của VHVN thời kì đổi mới.
2. Tác phẩm:
- Sáng tác năm 1983, in trong tập
“Bến quê 1985 ”, in trong tuyển tập
cùng tên 1987.
- Là một trong những sáng tác tiêu

biểu của văn học Việt Nam thời kì đổi
mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số
phận cá nhân và thân phận con người
trong cuộc sống đời thường.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Nội dung:
a. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những
phát hiện:
- Một cảnh đắt trời cho:
+ Cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện
trong biển sớm mờ sương có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
12
sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”
+“Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi
im phăng phắt như tượng trên chiếc
mui khum khum, đang hướng mặt vào
bờ”
+“toàn bộ khung cảnh từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”,
“một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích” (máy chiếu)
Tại sao phát hiện ra cảnh này người
nghẹ sĩ lại goi là cảnh đắt trời cho?
Đó là cảm xúc gì? Gv gợi giảng
(- )“bối rối”, cảm thấy “trong trái
tim như có cái gì bóp thắt vào”
+“khám phá thấy cái chân lí của sự
toàn diện, khám phá cái khoảnh khắc

trong ngần của tâm hồn…”, “phát
hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”.
Người nghệ sĩ đã kinh ngạc phát hiện
được điều gì khi thuyền cập bến?
Gv bổ xung
Tâm trạng anh thế nào?
+“Chết lặng”, không tin vào những
gì đang diễn ra trước mắt: “kinh ngạc
đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn”
+ Không thể chịu được khi thấy cảnh
ấy, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh
xuống đất, chạy nhào tới”
Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng,
tác giả muốn người đọc nhận thức
được điều gì về cuộc đời?
GV nhận xét bổ sung.
Tiết 2:
Phùng và chánh án Đẩu biết được gì
về người đàn bà?
- HS dựa vào sgk:
+ Ngoài 40 tuổi, thô kệch, rỗ mặt,
“khuôn mặt mệt mỏi”
+ Bị chồng đánh đập “ba ngày một
chiếu vào…
+ Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó
chứa đựng chân lí của sự hoàn thiện,
làm dấy lên trong Phùng những xúc
cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như

được gột rửa, thanh lọc.
- Một cảnh tượng:
+ Phi thẩm mĩ (một người đàn bà xấu
xí, mệt mỏi; gã đàn ông to lớn, dữ
dằn),
+ Phi nhân tính (người chồng đánh vợ
một cách thô bạo, đứa con thương mẹ
đã đánh lại cha,…)
-> giống như trò đùa quái ác, làm
phùng ngơ ngác không tin vào mắt
mình.
=> Qua hai phát hiện của người nghệ
sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng
nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể
đánh giá con người, cuộc sống ở dáng
vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu,
phát hiện bản chất bên trong.
b. Câu chuyện của người đàn bà
hàng chài ở tòa án huyện:
- Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều
bí ẩn và éo le của một người đàn bà
hàng chài nghèo khổ, lam lũ…
- Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng
hiểu:
+ Người đàn bà hàng chài: một phụ nữ
nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo,
sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn
13
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”
nhưng vẫn cam chịu “không hề kêu

một tiếng, không chống trả, không tìm
cách chạy trốn”
“Quý toà bắt tội con cũng được, phạt
tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó”
+ “Các chú đâu có phải là người làm
ăn … cho nên các chú đâu có hiểu
được…”, “… như thế nào là nỗi vất
vả của người đà bà trên một chiếc
thuyền không có đàn ông…”
+ “ đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông
để chèo chống khi phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con
mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa
… phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình”
+ Cũng có những lúc: “Vui nhất là
lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó
được ăn no…” , “trên chiếc thuyền
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng
tôi sống hoà thuận, vui vẻ”
+ “Lão chồng tôi khi ấy là một anh
con trai cục tính nhưng hiền lành
lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.
“Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm
được một chiếc thuyền rộng hơn…”
Em nhận xét thế nào về người đàn bà
hàng chài? Qua câu chuyện về cuộc
đời chị, nhà văn muốn nói điều gì?

Tấm ảnh “bộ lịch năm ấy”như thế
nào?
Gọi 1 HS đọc lại đoạn văn cuối cùng
của truyện.
-> đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn
của cuộc đời, cũng là biểu tượng của
nghệ thuật.
đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha;
+ Người chồng của chị: bất kể lúc nào
thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh;
+ Chánh án Đẩu: có lòng tốt, sẵn sàng
bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm
sống chưa nhiều;
+ Chính mình (Phùng): sẵn sàng làm
tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn
giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ.
=> Qua câu chuyện về cuộc đời của
người đàn bà hàng chài và cách ứng xử
của các nhân vật, nhà văn muốn gửi
đến người đọc thông điệp: đứng nhìn
cuộc đời, con người một cách đơn
giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc,
hiện tượng trong các mối quan hệ đa
diện, nhiều chiều.
c. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch
năm ấy”:
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen
trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái
màu hồng hồng của ánh sương mai”.
- Nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy

“người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh”
-> Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính
không thể tách rời, thoát li cuộc sống.
Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì
cuộc đời.
2. Nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo, có ý
nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn
thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên
gần gũi, chân thực và có sức thuyết
phục.
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù
hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà
14
->đó là hiện thân của những lam lũ,
khốn khó, là sự thật cuộc đời.
- Nguyễn Minh Châu muốn phát biểu
điều gì về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc đời?
Tác giả đã xây dựng được một tình
huống truyện như thế nào?
Từ những tình huống đó, nhân vật
Phùng đã có những thay đổi gì?
- Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện
những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà
văn về nghệ thuật và cuộc đời:
- HS dựa vào phần Ghi nhớ để phát
biểu (Gv cho học sinh xem tranh ảnh,

1 đoạn phim về bạo lực gia đình)
sâu sắc, đa nghĩa.
3. Ý nghĩa văn bản:
- Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn
với cuộc đời, vì cuộc đời;
- Người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận
cuộc sống và con người một cách toàn
diện, sâu sắc.
- Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông
báo động về tình trạng bạo lực gia đình
và hậu quả khôn lường của nó.
4. Củng cố: theo các mục của bài học.
5. Hướng dẫn tự học:
- Tìm đọc trọn vẹn truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Soạn bài mới theo
phân phối chương trình
2 Kết quả thực nghiệm:
Giảng dạy từ năm 2010 đến nay, dù đựoc phân công vào lớp đại trà,
trình độ tiếp thu và ý thức xây dụng bài còn hạn chế. Với cách truyền đạt về
những kiến thức, kinh nghiệm trên, tôi còn trình chiếu những trích đoạn phim,
những hình ảnh tư liệu về vấn những nạn, và đã lồng ghép định hướng cho học
sinh những tư tưỏng mang tính thực tế. Đa phần các em đều chăm chú lắng
nghe, và tiếp thu bài một cách triệt để. Không còn tình trạng khi giáo viên giảng
bài về các vấn đề tư tưởng đạo đức các em đều né tránh hoặc nghe qua loa coi
đó là chủ nghĩa giáo điều, lý thuyết xuông
Cụ thể kết quả ba khoá học sinh khối 12 tốt nghiệp tỷ lệ môn Ngữ văn
thi tốt nghiệp của những lớp tôi trực tiếp giảng dạy đều đạt tỷ lệ cao từ trung
bình trở lên, không có học sinh điểm yếu, kém. Còn thi Đại học, Cao đẳng, môn
Ngữ văn cũng có điểm cao hơn so với hai môn còn lại. Và thực tế đã công nhận.
Kết luận và đề xuất

15
Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã có sự vận động và biến đổi hòa nhập với
những chuyển biến của đời sống xã hội, nó thể hiện rõ nhất nhu cầu đổi mới
nghệ thuật với những thể nghiệm, cách tân mạnh mẽ. Những đổi mới từ đầu
những năm 90 của thế kỷ trước theo hướng hiện đại, đã tạo nên những biến đổi
quan trọng trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm và ngôn ngữ, đã có ảnh
hưởng ngày càng mạnh mẽ và rộng rãi đến giới sáng tác và công chúng hiện
nay. Nhưng liệu đó có phải là con đường có triển vọng nhất cho văm học Việt
Nam trên hành trình này trong tương lai không đó còn là những vấn đề cần phải
nghiên cứu tiếp.
Vì đây là những tác phẩm mơi đưa vào giảng dạy, và lại là những tác phẩm
của thời kỳ đổi mới, nên người thực hiện đề tài này vẫn còn nhiều bất cập. Mong
đựoc sự góp ý đánh giá của đồng nghiệp, bạn bè, hội đồng khoa học. Để tôi rút
kinh nghiệm, áp dụng tốt hơn nữa trong giảng dạy sau này.
Qua đề tài này tôi cũng xin đóng góp một chính kiến nhỏ đó là: Ngoài việc
nghiêm túc nghiên cứu soạn giao án, giảng dạy để BGH kiểm tra. Đối với người
dạy cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp cận tìm tòi những vấn đề mới trong thời đại
ngày nay để áp dụng thực tế vào bài học hơn, không giảng chung chung lý
thuyết. Phải có tư liệu minh hoạ, chỉ ra cụ thể trực quan cho học sinh. Và phải
dạy một cách nghiêm túc không giới thiệu bài dạy một cách qua loa. Đối với
người học cần tự liên hệ đến xung quanh cuộc sống, gia đình, người thân, bạn
bè, báo chí để rút ra bài học mà giáo viên đã truyền đạt. Đối với nhà truờng và
ngành giáo dục nên đầu tư trang thiết bị phòng học cụ thể từng lớp cho học sinh
như: Máy chiếu cho hoc sinh xem băng tư liệu, phim, hoặc phóng sự về những
vấn đề xã hội như vậy, hoặc nên lồng ghép một số giờ ngoại khoá tham quan về
những địa phương nó sẽ tác động trực tiếp thực tế vào nhận thức học sinh hơn.
Giảm bớt giờ giảng lý thuyết trên lớp khô khan thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn BGH, Hội đồng khoa học, đồng nghiệp
bạn bè đã tạo điều kiện giúp đỡ, góp ý kiến để tôi hoàn thành đề tài này.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 27 tháng 05 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Ký và ghi rõ họ tên
Lê Thị Châu
16

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Lịch sử vấn đề: 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Mục đích nghiên cứu: 2
5. Phương pháp nghiên cứu 2
6. Đóng góp của đề tài: 2.
7. Cấu trúc của đề tài: 2
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề: 2
1. Đặc điểm văn học sau năm 1975 2
a. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa 2
b. Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng và
cảm hứng chủ đạo, bao trùm trong nền văn học giai đoạn này 3
c. Văn học phá triển phong phú, đa dạng, phức tạp, hướng tới tính hiện đại 4
II. Thực trạng của vấn đề: 4
1. Các bài học sau năm 1975 trong chương trình ngữ văn 12: 4
a. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu 4
b. Một người Hà Nội (đọc thêm – Nguyễn Khải) 4
c. Mùa lá rụng trong vườn ( đọc thêm – Ma Văn Kháng) 4

2. Cách hiểu những vấn đề khó trong những bài giảng trên đây 4
a. Nhận thức, nghịch lí của Nguyễn Minh Châu 4
b. Đối thoại mới của Ma văn Kháng Nguyễn Khải 8
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện: 11
1.Đề xuất giáo án thể nghiệm bài : “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu: 11
2. Kết quả thực nghiệm: 15
KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT, ĐÁNH GIÁ: 15
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách gíáo khoa Ngữ văn 12 (NXB Giáo Dục năm 2007).
2. Sách giáo viên Ngữ văn 12 (NXB Giáo Dục năm 2007).
3. Học tốt Ngữ văn 12 - Nguyễn Thục Phương (NXB Văn Hoá - Thông tin -
2007).
4. Kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kỳ môn Ngữ văn 12 (NXB Giáo Dục
-2008).
5. Nhiều tác giả, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb
ĐHQG Hà Nội, 1996.
6. Nhiều tác giả (Hà Minh Đức chủ biên). Chặng đường mới của văn học Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc qia, 1998.
7. Nhiều tác giả (Phan Cự Đệ chủ biên). Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nxb Giáo
Dục, 2004.
18
19
20

×