Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Thực trạng xuất khẩu gạo của việt nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.53 KB, 42 trang )

1












Giảng viên hướng dẫn:
Trương Khánh Vĩnh Xuyên














Cần thơ, 12/2012


2



Ngô Nguyễn Ngọc Toàn Thái Thanh Thúy
Lê Thanh Lâm Trương Minh Trí
Nguyễn Thị Tuyết Mai Lê Văn Sơn
Vũ Văn Huân Đặng Huỳnh Như
Hoàng văn Quân Nguyễn Huỳnh Thương
Nguyễn Thu Ngân Nguyễn Duy Tính

3

MỤC LỤC


Lời nói đầu 4
Chương I: những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu gạo ở việt nam 6
1. Khái niệm về xuất khẩu gạo 6
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế 6
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo 7
4. Cam kết xuất khẩu gạo của VN khi gia nhập WTO 11
Chương II: thực trạng của thị trường xuất khẩu gạo việt nam 13
1. Sản lượng và kim nghạch xuất khẩu 13
1.1 Tổng quan về thị trường gạo thế giới 13
1.2 Thực trạng về ngành xuất khẩu gạo Việt Nam
trước khi gia nhập WTO 13
1.2.1 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trước năm 2000 13
1.2.2 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
từ năm 2001 đến 2007 14

1.2.3 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm
2007 đến 2011 15
2. Về chất lượng gạo xuất khẩu 17
3. Giá gạo xuất khẩu. 18
4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt nam 21
4.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực 21
4.2 Cơ cấu thị trường theo quốc gia. 24
5. Đánh giá về năng lực canh tranh của gạo xuất
khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 28
6. Những vấn đề đặt ra của xuất khẩu gạo Việt Nam
trong thời gian tới 29
Chương III: một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo việt nam
trong thời gian tới 33
1. Về phía nhà nước 33
2. Về phía doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu 36
3. Về phía người sản xuất gạo xuất khẩu 38
Kết luận 39







4


LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế

giới (WTO), cũng đồng nghĩa là Việt Nam bắt đầu bước vào sân chơi chung của
thị trường thương mại thế giới theo luật chơi chung dành cho tất cả các thành viên
của tổ chức này và từng bước thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp đã cam kết.
Việt Nam là một nước có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, nông sản phong
phú và có giá trị. Hình ảnh đất Việt thường được mô tả như một chiếc đòn gánh
khổng lồ với hai đầu là hai vựa thóc lớn đó là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Cửa Long. Đây là hai đồng bằng châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản
xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, điều kiện thời tiết
khí hậu và địa lý thích hợp cộng thêm đất đai màu mỡ đã tạo một môi trường lý
tưởng cho sản xuất lúa gạo, từ đó đã giúp gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu có thế
mạnh của Việt Nam. Hiện nay, ngoài việc đảm bảo an ninh lương thực trong nước,
nước ta ngày càng đẩy mạnh việc xuất khẩu mặt hàng này, và tiếp tục giữ vững vị
trí là một trong hai nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Nhưng việc xuất khẩu
gạo nhiều như vậy có thực sự bền vững và đem lại lợi ích lớn hay không ? Thực tế
cho thấy, mặc dù an ninh lương thực trong nước vẫn được đảm bảo , nhưng vẫn
còn tồn tại một số bất cập trong việc quản lý và điều hành xuất khẩu, xuất hiên dấu
hiêu đầu cơ làm giá gạo trong nước tăng lên, người tiêu dùng trong nước tiếp tục
chịu thiệt. Mặt khác , nước ta vẫn chú trọng đến năng suất mà ít quan tâm đến các
hạt giống gạo ngon có giá trị xuất khẩu cao (những giống gạo thường cho năng
suất thấp). Ngoài ra, việc phát triển nghề trồng lúa và những biện pháp hỗ trợ cho
các doanh nghiệp xuất khẩu mà đặc biệt là các doanh nhgiệp xuất khẩu gạo, để
nước ta giữ vững vị trí xuất khẩu trên thị trường quốc tế luôn là vấn đề được nhà
nước xem trọng. Để hiểu hơn về thực trạng xuất khẩu gạo của nước ta ttrong thời
gian vưa qua, nên chúng em lựa chọn đề tài “ thực trạng xuất khẩu gạo của Việt
Nam sau khi gia nhập WTO” và đề ra một số giải pháp nhằm năng cao chất lượng
5

cũng như sản lượng gạo xuất khẩu để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trong thời
gian tới.

Phạm vi của đề tài:
Phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sau khi gia nhập WTO và đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu.
Mục đích chọn đề tài:
Nhằm tìm hiểu về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Những thuận lợi ,khó khăn trong việc cung ứng nguồn gạo cho xuất khẩu và một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng gạo xuất khẩu.
Do hạn chế sự hiểu biết và thời gian nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót, chúng
em mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của cô để bài viết được hoàn thiện hơn.


6

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO
Ở VIỆT NAM

1. Khái niệm về xuất khẩu gạo.
Hoạt động buôn bán gạo cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm
phương tiện thanh toán . Tiền tệ ở đây có thể dùng là ngoại tệ đối với một quốc
gia hay đối với cả hai quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế
- Xuất khẩu gạo mang lại ngoại tệ cho quốc gia, góp phần phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hóa đất nước.
+ Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ của Việt Nam luôn bị
thâm hụt, do đó cần một khoản ngoại tệ bổ sung thâm hụt đó.
+ Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công
nghiệp hóa đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để
nhập khẩu máy móc thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến.

+ Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước ngoài, đi
vay, viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngoài, đi vay, viện trợ tuy
quan trọng nhưng cũng phải trả dù cách này hay cách khác. Nguồn quan trọng
nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị
trí quan trọng.
- Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển.
+ Xuất khẩu gạo tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển. Điều
này có thể thông qua ví dụ khi phát triển ngành lúa gạo xuất khẩu thì các
ngành như sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu… cũng có điều kiện phát triển.
+ Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần
ổn định sản xuất.
7

+ Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo, mở rộng
khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
- Xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.
+ Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều
phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm
có thu nhập khá ổn định. Mặt khác xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân
dân.
+ Khi thực hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong thị trường nội
địa sẽ giải quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn. Nông dân không những bán
được hàng mà còn được giá. Từ những điều này mang lại cho nông dân thu
nhập cao hơn và đây chính là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển.
+ Ngoài ra thông qua xuất khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu
của thị trường quốc tế đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường

nước ngoài và sản xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt
nhất để nâng cao trình độ và hiệu quả của nền nông nghiệp.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế, mọi quốc gia đều mở rộng
các mối quan hệ buôn bán với nhau để phát huy lợi thế so sánh của mình trong việc
sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa nhằm thu lợi ích cao nhất để phát triển đất
nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển trong việc tạo
ra nguồn thu từ việc xuất khẩu một hoặc một số mặt hàng được hình thành trên cơ
sở khai thác các nguồn lực sẵn có của nước đó. Việc xuất khẩu gạo của Việt Nam
cũng như tất cả các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới đều bị chi phối bởi 3
nhân tố chính: nhân tố thị trường, nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công
nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhân tố về chính sách kinh tế vĩ mô.
- Nhân tố thị trường
8

Nhân tố thị trường ảnh hưởng rất lớn chi phối hoạt động xuất khẩu gạo của mỗi
quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó có thể xét trên các yếu tố cơ bản sau:
+ Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: gạo là hàng thiết yếu, cũng giống như
các loại hàng hóa khác cầu về gạo phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu
…khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất
lượng cao có xu hướng tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật Bản, Châu Âu…)
ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng
cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng.
+ Cung trên thị trường là nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kĩ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của
mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản
phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu
lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó bất lợi cho các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu.
+ Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung cầu trong nền kinh

tế thị trường. Trên thị trường gạo thế giới có nhiều nước xuất khẩu, nhiều nước
nhập khẩu, giá cả thị trường thế giới sẽ có xu hướng hội tụ về mức giá cân bằng –
mức giá mà tại đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Ở mức giá cao hơn mức
giá cân bằng, lượng cung về gạo sẽ vượt quá lượng cầu về gạo. Trong trường hợp
này, một số lượng gạo mà nhà xuất khẩu muốn bán lại không tìm được người mua.
Sự ế thừa kiểu này gọi là sự dư cung. Sự dư cung này làm cho hay tạo ra sức ép
khiến những nhà xuất khẩu phải hạ giá gạo. Quá trình hạ giá này sẽ dần dần làm
giảm mức dư cung và chỉ dừng lại khi mức giá trên thị trường đã hạ xuống đến
mức cân bằng. Ngược lại ở mức giá thấp hơn mức giá cân bằng những nhà nhập
khẩu sẽ mua nhiều hơn khiến cho lượng cung không đáp ứng kịp thời và dẫn đến
tình trạng dư cầu. Sự dư cầu này tạo cơ hội cho nhà xuất khẩu nâng giá lên. Quá
trình tăng giá này sẽ dần dần làm giảm mức dư cầu và chỉ dừng lại khi mức giá đã
tăng lên đúng bằng mức giá cân bằng.
- Nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm
9

Các nhân tố về cơ sở vật chất – kĩ thuật là do hệ thống vận chuyển, kho tàng,
bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc…Hệ thống này bảo đảm việc lưu thông nhanh
chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời
gian và chi phí lưu thông.
Các nhân tố về kĩ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong
việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ thống chế biến
với công nghệ dây chuyền hiện đại sẽ góp phần tăng chất lượng và giá trị gạo.
- Chính sách kinh tế vĩ mô
+ Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo
Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo là một biện pháp nhằm điều tiết sự chênh lệch
giữa giá xuất khẩu với giá thị trường trong nước nhằm bình ổn giá gạo nội địa
đồng thời đây còn là một công cụ tăng thu, góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách.
Tuy nhiên việc áp thuế xuất khẩu gạo có thể sẽ không khuyến khích các doanh

nghiệp sản xuất và xuất khẩu các loại gạo cao cấp có giá trị đồng thời ảnh hưởng
tới lượng gạo xuất khẩu. Chính bởi vậy nên các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn khi
quyết định kí kết những hợp đồng cung cấp gạo cao cấp với mức giá cao vì lợi
nhuận thu về sau khi trừ thuế cũng không đáng kể, thậm chí còn phải chịu lỗ do
các nguyên liệu, chi phí đầu vào của sản xuất lúa gạo tăng cao. Không những thế
mức thuế lũy tiến theo giá xuất khẩu càng làm cho mức chịu thuế cao lên cùng với
những lô gạo xuất khẩu có chất lượng tốt, giá thành cao. Như vậy, chính sách thuế
đã làm cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo bỏ lỡ cơ hội xâm nhập vào những thị
trường khó tính giá trị gia tăng cao, mất khách hàng, mất đi những dấu ấn thương
hiệu đang giai đoạn hình thành. Bên cạnh đó, chính các doanh nghiệp cũng ép giá
thu mua lúa gạo từ nông dân để tránh phải nộp thuế cao hơn, điều này gây ảnh
hưởng tới thu nhập của người nông dân từ đó có thể gây ra xáo trộn trong sản xuất
lúa gạo.
+ Về hạn ngạch
Chính sách hạn ngạch được sử dụng căn cứ vào lượng gạo xuất khẩu hàng năm
và tình hình sản xuất hiện tại, căn cứ vào hạn ngạch nhà nước quyết định số lượng
xuất khẩu nếu gạo trong nước dư thừa nhiều thì tùy theo tình hình chính phủ sẽ tiếp
10

tục cấp chỉ tiêu xuất khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch linh hoạt căn cứ vào tình hình
sản xuất trong nước, tiêu dùng nội địa và dự trữ quốc gia để phát huy tác dụng.
Việc áp dụng hạn ngạch có thể là công cụ hợp lý nhưng trong một chừng mực nào
đó lại cản trở việc phát triển sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức giá
của gạo xuất khẩu.
Trong bối cảnh khủng hoảng lương thực thế giới và ở trong nước, thiên tai đe
dọa đến an ninh lương thực quốc gia đã làm giá lúa gạo cao, cũng gây áp lực lên
lạm phát. Đó cũng là lý do chính phủ đã thắt chặt việc xuất khẩu gạo thông qua hạn
ngạch. Tuy nhiên hạn ngạch trong một chừng mực nào đó lại cản trở việc phát triển
sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức giá thực tế của gạo xuất khẩu. Có
thể thấy một số tác động tiêu cực của hạn ngạch lên hoạt động xuất khẩu gạo như:

 Thứ nhất, hạn ngạch làm cách ly nền kinh tế trong nước và các biến đổi của
thương mại quốc tế bằng cách giảm sự truyền tin về giá cả quốc tế và giá cả
trong nước, đưa đến một hình thức giá cả ổn định cho người nông dân
nhưng đem lại thu nhập cho người nông dân dưới mức mà sản xuất có thể,
làm giảm hiệu quả xuất khẩu gạo.
 Thứ hai, trong khi lương thực trong nước dư thừa nhiều nhưng hạn ngạch
chưa đề ra, chưa kịp bổ sung hay chưa cấp chỉ tiêu cho các đầu mối. Điều
này dẫn đến lỡ mất cơ hội xuất khẩu thu lợi nhuận cao khi giá gạo thế giới
đang tăng cao và biến động rất nhanh.
+ Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Chính sách thu hút FDI vào sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ hướng tập trung đầu
tư cho các chương trình trọng điểm như phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các
giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường; áp dụng
công nghệ sinh học chế biến, bảo quản sau thu hoạch, nâng cao giá trị, an toàn vệ
sinh thực phẩm của sản phẩm… đẩy mạnh xuất khẩu tới các thị trường cao cấp và
tiềm năng. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phát triển sản xuất
lúa gạo trên quy mô lớn, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các
công nghệ mới, công nghệ cao, để từ đó nâng cấp khả năng cạnh tranh của xuất
khẩu gạo khi tham gia hội nhập.
11

Với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư sẽ góp phần
cải thiện công nghệ, kĩ thuật nông nghiệp nông thôn thông qua chuyển giao công
nghệ, khai thác thế mạnh của vùng, phát triển được các giống lúa đặc sản, vừa
nâng cao được giá trị của hạt gạo, lại tăng thêm giá trị xuất khẩu
4. Cam kết xuất khẩu gạo của VN khi gia nhập WTO
Các chuyên gia cho rằng, tham gia vào WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia
vào một hệ thống thương mại rộng mở, tự do và bình đẳng, có cơ hội tiếp cận thị
trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Gạo Việt Nam sẽ được hưởng các cam
kết ưu đãi thuế quan và phi thuế quan, không phân biệt đối xử như trước đây.

Theo cam kết WTO, Hàn Quốc và Nhật Bản mở cửa thị trường gạo từ mức 3%
lên 5% nhu cầu tiêu dùng nội địa vào năm 2001. Hiện nay, hai nước này đang áp
dụng hạn ngạch thuế quan đối với gạo nhập khẩu (Nhật Bản: thuế trong hạn ngạch
0%, thuế ngoài hạn ngạch là 491%; Hàn Quốc là 5% và 89% tương ứng). Theo
cam kết WTO, Trung Quốc sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan với gạo nhập khẩu.
Thuế trong hạn ngạch tương đối thấp: 1% đối với hàng thô và 10% đối với gạo xát;
thuế ngoài hạn ngạch là 80%, được giảm xuống 40% vào năm 2004.
Như vậy, theo các chuyên gia, trước khi gia nhập WTO, gạo Việt Nam bị hạn
chế trong việc tiếp cận thị trường đối với một số quốc gia coi gạo là những sản
phẩm nhạy cảm, thuộc diện phải bảo hộ cao bằng hạn ngạch thuế quan. Tuy nhiên
khi vào WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng đối xử bình đẳng như những
quốc gia khác nên việc tiếp cận thị trường sẽ thuận lợi hơn và việc xuất khẩu gạo
của Việt Nam vào các nước thành viên WTO sẽ tăng mạnh hơn.
Đối với thị trường trong nước, các chuyên gia cũng phân tích rằng, cam kết
thuế quan của Việt Nam đối với mặt hàng gạo bình quân trong WTO là 40% (trừ
giống lúa). Đây là mức thuế bằng với mức MFN hiện nay và mức thuế suất cam
kết tại thời điểm gia nhập này sẽ vẫn được giữ ở mức 40% mà không phải giảm
nữa. Điều đó cho thấy, khi Việt Nam gia nhập WTO, gạo Việt Nam sẽ không phải
chịu nguy cơ lớn trước sức cạnh tranh đến từ phía gạo nước ngoài; Bởi mức thuế
và các điều kiện nhập khẩu khác là hầu như không có sự thay đổi so với trước khi
gia nhập WTO.
12

Bên cạnh đó, khi gia nhập WTO, các Doanh Nghiệp Việt Nam cũng sẽ có cơ
hội tiếp cận, chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong việc chế biến gạo từ các
nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản. Những công nghệ xử lý độ ẩm, xay xát, lau
bóng xuất khẩu sẽ giúp giảm chi phí trung gian, giảm giá thành gạo xuất khẩu,
giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có cơ hội làm gia tăng giá trị của gạo trước
khi xuất khẩu, nâng cao giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thế giới.
Việc gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các

hình thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,
Những nguồn vốn này giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đầu tư những
cơ sở chế biến gạo, thực hiện khép kín từ khâu thu mua lúa đến các công đoạn sau.
Có thể nói, việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ có nhiều ảnh hưởng tích cực tới
việc sản xuất và xuất khẩu gạo. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu phải tự lực
vận động cùng với sự trợ giúp của Nhà nước, nắm bắt được cơ hội,

13

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO
VIỆT NAM
1, Sản lượng và kim nghạch xuất khẩu
1.1 Tổng quan về thị trường gạo thế giới
Trong số các loại lương thực bao gồm gạo, lúa mì, ngô, kê, lúa mạch thì gạo
và lúa mì là hai loại thực phẩm chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng
ngày của con người. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên
hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo và lúa mì đạt mức tương đương nhau. Nhìn
chung, sản lượng lúa gạo có thể duy trì sự sống cho hơn 53% tổng số dân trên thế
giới. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của gạo đối với vấn đề an ninh lương thực
của loài người, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh biến động của yếu tố nhân khẩu học.
Ngành sản xuất lúa gạo bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như đất, nước,
khí hậu Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng, vào năm 1995, sản xuất gạo trên thế
giới giảm nhẹ với diện tích sản xuất khoảng 146 nghìn ha, sản lượng thóc toàn thế
giới đạt 553 triệu tấn, tương đương khoảng 360 triệu tấn gạo. Những thành công
trong sản xuất gạo là kết quả đạt được do cuộc Cách mạng xanh đem lại
cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới chiến lược kinh tế xã hội
của Chính phủ các nước sản xuất gạo chủ yếu.
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ thương mại, dự đoán diện tích sản xuất
lúa toàn thế giới năm 2001 là 151,9 nghìn ha. Năng suất lúa năm 2000 đạt 3,92 tấn/
ha, gấp 1,6 lần so với năng suất lúa năm 1974 là 2,45 tấn/ha. Đây là một tiến bộ

vượt bậc, nhờ sử dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào sản xuất, đồng thời
áp dụng những loại giống lúa mới cho năng suất cao. Năm 2000 cũng là năm kỉ lục
về năng suất và sản lượng lúa toàn cầu là 607,4 triệu tấn so với 333,8 triệu tấn năm
1974, tăng 1,8 lần. Qua đó cho ta thấy sản lượng lúa tăng chủ yếu do năng suất
tăng, là kết quả đáng khích lệ cho sản xuất lúa toàn thế giới, đảm bảo tốt nhu cầu
về lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng của loài người.
1.2 Thực trạng về ngành xuất khẩu gạo Việt Nam trước khi gia nhập WTO
1.2.1 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trước năm 2000
14

Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới với
số lượng khá lớn là 1,4 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình quân 204
USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa nhiều, giá còn thấp, chất lượng chưa
phù hợp với thị hiếu thế giới, nhưng đối với nước ta kết quả đó đánh dấu sự sang
trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, gắn với xuất
khẩu. Và cho đến nay Việt Nam đó vươn lên vị trớ số hai thế giới về xuất khẩu gạo
sau Thailan.
Năm 1996, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lớn hơn. Lần đầu tiên
kể từ năm 1989 khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vượt mức 3 triệu tấn/năm,
tăng 51% và đưa kim ngạch xuất khẩu đạt 868 triệu USD, tăng 63% so với năm
1995. Đặc biệt đến năm 1997 đã đánh dấu bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế và
ngoại thương nước ta, Việt Nam xuất hiện trên thị trường gạo với vị trí là nước
xuất khẩu gạo thứ 2 (sau Thái Lan), với lượng gạo xuất khẩu là 3,6 triệu tấn, đạt
kim ngạch xuất khẩu gạo 900triệu USD; lý do là trong năm 1997 Việt Nam ký kết
được nhiều Hiệp định thương mại, điển hình là hiệp định với Iran về xuất khẩu
gạo.
Bước vào năm 1998, có thể nói cơ hội đang mở ra cho Việt Nam khi hiện
tượng El nino gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa màng của một số nước Châu á
mà đặc biệt là Inđônêsia và Philipin đã gây ra cơn sốt gạo ở Châu á. Và chính trong
năm 1998, kim ngạch xuất khẩu là 3,8 triệu tấn gạo đã đạt mức 1 tỉ USD. Tuy chỉ

tăng 5,56% về lượng nhưng lại tăng 14,56% về giá trị. Điều này đã củng cố vững
hơn vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo của Việt.
1.2.2 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến 2007.
Công tác xuất khẩu gạo trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích
đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối lượng và kim
ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ năm 2001
đến nay, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như lạc nhân,
hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho
đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên.
15

Năm 2001 là năm đánh dấu nhiều bước khởi sắc cho Việt Nam xuất khẩu gạo
ra thị trường thế giới.Với sản lượng gạo xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn trị giá trên 600
triệu đô la. Đây là một thành công vì đã hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản do
chính phủ đề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hóa, chặn đà giảm sút của giá thóc gạo
trong nước.
Từ năm 2003 đến năm 2005, sản lượng lúa gạo xuất khẩu tiếp tục tăng. Tính đến
năm 2005, tổng sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt 50,12 triệu tấn, thu về
11,51 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng 13,55% về sản lượng và 14,55% về kim
ngạch.trong đó, các năm có tốc độ tăng cao về sản lượng là năm 2003 với 20,6%,
năm 2005 với 27,78%.
Năm 2006, hoạt động xuất khẩu gạo cua Việt Nam có dấu hiệu chựng lại. Tính cả
năm 2006, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 4,8 triệu tấn với kim ngạch là 1,3 tỷ đô la,
giảm 7,48% về sản lượng và 7,08% về kim ngạch so với năm 2005.














Hình 1: Sản lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-
2006 ( Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam)


1.2.3 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2007 đến 2011.

Năm 2007, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước
xuất khẩu đã đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Năm 2008
xuất khẩu gạo đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỷ USD (tính ra, giá bán bình
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
0
1
2
3

4
5
6
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Triệu USD
Triệu tấn
Sản lượng
Kim ngạch
16

quân 617,02 USD/tấn). Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa
gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm 2009 cả nước đã
xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỉ USD, đây là
năm có số lượng xuất khẩu nhiều nhất từ khi gia nhập WTO. Tổng giá trị xuất
khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Đặc biệt,
tỷ lệ gạo cao cấp xuất khẩu đã đạt 50% (những năm trước chỉ khoảng 34%). Mặc
dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm 2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim
ngạch xuất khẩu giảm 200.000 USD, giá bán giảm 183,69 USD/tấn. [9]
Năm 2010, xuất khẩu gạo được đánh giá là đạt kỷ lục cả về khối lượng và giá trị.
Lượng gạo xuất khẩu cả năm 2010 ước đạt 6,88 triệu tấn, kim ngạch là 3,23 tỷ
USD, so với năm 2009 tăng 15,4% về lượng và tăng tới 21,2% về giá trị. Năm
2011 lượng gạo xuất khẩu đạt 7,1 triệu tấn và trị giá đạt 3,66 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ
3,3% về lượng và tuy nhiên tăng khá 12,6% về trị giá so với năm trước.














Hình 2: Sản lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2011
( Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam)

Năm
2007
2008
2009
2010
2011
Kim ngạch
(triệu USD)
1467
2900
2700
3230
3660
Sản lượng
(triệu tấn)
4,5
4,74
6,052
6,88
7,1

0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
0
1
2
3
4
5
6
7
8
2007 2008 2009 2010 2011
Triệu USD
Triệu tấn
Sản lượng
Kim ngạch
17

2, Về chất lượng gạo xuất khẩu

Chất lượng gạo trên thị trường thế giới được phân thành 5 loại dựa trên 9 tiêu
chí: tỷ lệ tấm, kích thước hạt, màu gạo, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ amilaza, tỷ
lệ protein, nhiệt hóa, mùi thơm. Theo tiêu chí này, chất lượng gạo Việt Nam thuộc

loại thấp nhất so với thế giới. Dường như Việt Nam chỉ đạt được tiêu chuẩn thứ
nhất còn các tiêu chuẩn khác thì không mấy ai quan tâm.
Chất lượng gạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như đất đai,
nước tưới tiêu, phân bón, giống lúa, đến khâu bảo quản, vận chuyển và chế biến
nhưng tại Việt Nam hầu hết các khâu này đều thiếu và yếu.
Chất lượng gạo xuất khẩu thời gian qua cũng không ngừng được cải thiện, gạo
Việt Nam hiện nay đã có chỗ đứng, được chấp nhận trên thị trường thế giới. Nhờ
cải tiến đầu tư trong các khâu chế biến, gạo Việt Nam đã phần nào đáp ứng được
các yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng. Nếu xét trên một tiêu chí của phẩm
cấp là độ gãy (hay tỉ lệ tấm) có thể thấy phần nào phẩm cấp gạo của Việt Nam thời
gian qua như sau:

Loại gạo
Năm
Phẩm cấp cao
5%-10% tấm
Phẩm cấp trung
bình
15%-20% tấm
Phẩm cấp thấp
25% tấm trở lên
2003
55%
24%
21%
2007
52%
30%
18%
2008

48%
40%
12%
2009
50%
26%
24%
2010
54%
20%
26%

Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược- bộ khoa học đầu tư

18

Nhìn chung, từ khi Việt Nam gia nhập WTO tốc độ tăng xuất khẩu gạo có tỷ lệ
tấm ít ( từ 5%- 10%) đã nhanh hơn so với tốc độ tăng trường xuất khẩu chung và
có xu hướng tăng dần trong khi đó loại có tỷ lệ tấm trên 10% chiếm tỷ trọng nhỏ
và có xu hướng giảm dần. Có được tiến bộ này là do nhà nước đã quy hoạch và
xây dựng các vùng lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, trong đó vùng đồng bằng
sông Cửu long có 1 triệu ha, vùng đồng bằng sông Hồng có 300 nghìn ha. Đến nay
trên 70% diện tích đất trồng lúa đã được cung cấp những giống lúa mới từ viện
nghiên cứu lúa gạo quốc tế. Trong đó, nhiều giống lúa cho năng suất cao, khả năng
chống chịu với điều kiện thời tiết, sâu bệnh tốt. Vì vậy trong những năm gần đây
thị trường gạo được được mở rộng, khách hàng tăng, sức cạnh tranh của hạt gạo
Việt Nam trên thị trường thế giới đang dần được cải thiện. Minh chứng rõ ràng
nhất là việc gạo Việt Nam đã và đang thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản –
một thị trường khó tính và có những quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Tại Nhật Bản Việt Nam trúng thầu xuất khẩu 45.050 tấn gạo. Hai lần liên

tiếp Việt Nam đã trúng thầu tổng cộng 28.000 tấn gạo (14.000 tấn/lần). Giá gạo
trung bình của đợt thầu này là trên 63.433 Yên/tấn (khoảng 528,6 USD/tấn). Lần
thứ 3 là 17.050 tấn với giá trung bình là 52.804 Yên/tấn (tương đương 459,16
USD/tấn). Các chuyên gia nhận định, chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được
nâng cao với những yêu cầu và quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm
của Nhật Bản (đây là thị trường rất khó tính) đồng thời có giá cả phù hợp. Do vậy,
Việt Nam là một trong ba nước (cùng với Thái Lan và Mỹ) đã trúng thầu cung cấp
gạo sang thị trường Nhật Bản năm 2007 [22].Tuy nhiên chất lượng gạo Việt Nam
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất
khẩu.
3. Giá gạo xuất khẩu.
Từ năm 2001-2003, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại ở mức khá thấp, đặc
biệt năm 2001 giá gạo hạ tới mức thấp nhất 167,53 USD/ tấn.
Nhưng sau đó giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại có sự phục hồi trở lại và tăng
dần qua các năm từ năm 2004 đến năm 2006
19

Nhìn chung thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn này thường thấp hơn
giá gạo thế giới do chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường
như chủng loại.
Ngay sau khi gia nhập WTO, năm 2007 lần đầu tiên giá gạo của Việt Nam
vượt mốc 300 USD/tấn đối với hầu hết các loại gạo (gạo 5% tấm, 10% tấm, 15%
tấm). Đây cũng là lần đầu tiên giá gạo Việt Nam xuất khẩu ngang bằng với gạo
Thái Lan cùng cấp các loại, từ 5% tấm, 10%,15% đến 20% tấm, và có thời điểm,
giá gạo loại 25% tấm vượt cao hơn Thái Lan. Trong năm này Việt Nam đã trúng
thầu cung cấp 474000 tấn gạo loại 25% tấm cho Philippin và một gói thầu cung
cấp 14000 tấn gạo tẻ hạt dài cho thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó nhu cầu gạo ở
Trung Đông và Châu Phi tăng mạnh. Chính lượng cầu tăng mạnh trong khi nguồn
cung của thế giới tăng không nhiều đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
luôn ở mức cao kể từ đầu năm.

Năm 2008 là năm có nhiều biến động mạnh trong giá gạo xuất khẩu, có lúc giá
gạo của Việt Nam tăng lên tới 1050 USD/tấn. Giá gạo chia làm 2 xu hướng rõ rệt:
tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, giảm mạnh trong 7 tháng cuối năm, giá gạo xuất
khẩu bình quân cả năm là 610 USD/ tấn, tăng 86,7% so với năm 2007. Nguyên
nhân giá gạo tăng đột biến là do lạm phát cao khiến chính phủ các nước tạm ngưng
xuất khẩu gạo để ổn định tình hình trong nước, điều này dẫn đến nguồn cung giảm
mạnh khiến giá gạo thế giới tăng cao.
Năm 2009 giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ đạt 405,42 USD/tấn
đã giảm 33,54% so với năm 2008
Năm 2009 giá xuất khẩu bình quân từ đầu năm đến 5/12 chỉ đạt 405 USD/tấn,
giảm 180 đô la so với cùng kỳ năm 2008, nhưng lượng gạo giao trong tháng 11 đạt
mức giá bình quân đến 413,71 đô la Mỹ/tấn, tức những tháng cuối năm gạo đang
được giá.
Trước đó, từ đầu năm đến tháng 9, tình hình mua bán gạo trên thế giới vẫn
trầm lắng, giá gạo hầu như không thay đổi, thậm chí có lúc xuống thấp trong thời
điểm từ tháng 3-6. Nguyên nhân xuất phát từ thông tin Ấn Độ trúng mùa và đưa
lượng gạo dự trữ lên mức hơn 20 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay, và có thể
20

xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn. Trong khi đó, Thái Lan vẫn tiếp tục thực hiện
chương trình mua lúa có trợ giá cho nông dân, nâng mức tồn kho gạo lên hơn 6
triệu tấn và nhiều khả năng bán gạo tồn kho nhằm giảm chi phí, hao hụt khi lưu
kho. Mặt khác, khủng hoảng tài chính trên thế giới cũng khiến việc mua bán gạo
cấp thấp bị giới hạn do nhu cầu viện trợ từ các nước nghèo không được đáp ứng
kịp thời.
Năm 2010 bình quân giá gạo xuất khẩu đạt 468 USD/tấn, tăng 5,02% so với
năm trước và đặc biệt giá gạo xuất khẩu năm này vượt giá gạo xuất khẩu bình quân
thế giới.











Hình 3. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2007-2010
(Nguồn: Bộ thương mại, 2010)

Như vậy giá gạo xuất khẩu của nước ta nhìn chung đã ngày càng bám sát hơn
giá bình quân trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới và đã vượt giá xuất khẩu gạo
bình quân thế giới vào năm 2010. Điều đó cho thấy gạo xuất khẩu của Việt Nam đã
có nhiều cải thiện hơn về mặt chất lượng.
Bên cạnh đó giá gạo Việt Nam đã dần dần ngang bằng với giá gạo của Thái Lan,
đây là một tín hiệu vui giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như người
nông dân có nguồn vốn để tiếp tục sản xuất và xuất khẩu.

0
200
400
600
800
2007 2008 2009 2010
USD/tấn
Giá xuất khẩu gạo bình quân của Việt Nam
Giá xuất khẩu gạo bình quân thế giới
21



Hình 4. Giá gạo trắng Việt Nam so với Thái Lan từ năm 2003 đến tháng 3 năm
2010 ( USD/tấn)
Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO)

Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân của 4 cường quốc còn lại so với giá bình
quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất là gần 120% thì giá của
chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới. Đó là giá bán thấp nhất
trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam,
Mỹ và Pakistan.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện nay giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam đang tăng mạnh, loại 5% tấm có giá 490-505 USD/tấn, loại 25% tấm giá
khoảng 480 USD/tấn, tính đến cuối tháng 7, các doanh nghiệp đã xuất khẩu 4,619
triệu tấn gạo, trị giá 2,187 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 473,37 USD/tấn,
tăng 35,11 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước.
4, Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt nam
4.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006, thị trường xuất khẩu gạo của Việt
Nam ngày càng được mở rộng. Năm 2001, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang hơn
50 nước, và đến năm 2006 đã xuất khẩu đến hơn 60 thị trường và có mặt ở cả 5
châu lục. Trong đó Châu Á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt
Nam.

22











Hình 5: Tỷ trọng xuất khẩu gạo bình quân đến các châu lục giai đoạn 2001-2006
(%)
Nguồn: Bộ thương mại, 2008

So với trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo khu
vực mặc dù có sự thay đổi nhưng hạng sắp xếp theo khối lượng thì không thay đổi.
Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo hàng đầu Việt Nam, tiếp đến là Châu Phi.
Theo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng 2009
của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất
khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng mạnh
tại thị trường Châu Phi.
Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với
năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các
thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh
nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008).


23



Hình 6 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008
(%)
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan

Năm 2009, châu Á tiếp tục đóng vai trò là thị trường xuất khẩu gạo quan

trọng nhất của Việt Nam. Theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009
của Công ty cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam
(AGROMONITOR), xuất khẩu gạo sang các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng
kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 58,8% của năm 2008). Tiếp
đến là Châu Phi - chiếm đến 30% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Còn lại các châu lục khác chỉ chiếm 8,32% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt
Nam.
2007; Châu Á; 78,1
2007; Châu Mỹ; 11,5
2007; Châu Phi; 8,4
2007; Châu Âu; 1,9
2007; Châu đại
dương; 0,1
2008; Châu Á; 58,8
2008; Châu Mỹ; 15,8
2008; Châu Phi; 22,0
2008; Châu Âu; 3,3
2008; Châu đại
dương; 0,1
2008 2007
24

Đến năm 2010 khu vực tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các khu vực thay đổi
không đáng kể, châu Á chiếm 61,29% ; châu Phi chiếm 29,64%; Châu Mỹ chiếm
5,22%, châu Âu chiếm 3,33%; còn lại là thị trường châu Úc chiếm 0,52% tổng số
lượng xuất khẩu.

4.2 Cơ cấu thị trường theo quốc gia.
Năm 2003, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam có sự thay đổi nhỏ.
Cuộc chiến tranh tại Irac khiến lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào nước này

giảm đáng kể. Tuy nhiên, với việc có thêm nhiều thị trường mới đã mở ra cũng
trong năm đó như Libang, Xiri, các nước Châu phi như Kenya, Senegal,…nên xuất
khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao.
Năm 2006, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam
với gần 1,43 triệu tấn, chiếm 76,7% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Thị
trường Philipin chiếm vị trí số một với mức nhập khẩu 33% tổng lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam. Ngoài ra trong năm này Nhật Bản cũng được coi là một thị
trường tiềm năng của gạo Việt Nam với những cam kết nâng dần lượng gạo nhập
khẩu từ năm 2007 khoảng 150000 tấn đến 350000 nghìn tấn vào năm 2010.
Trước khi gia nhập WTO gạo Việt Nam được xuất khẩu đến hơn 60 quốc gia năm
2006 thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia)
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi đặc
biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonexia. Thực tế các năm trước
đây, cũng như năm 2007, Indonexia luôn là thị trường gạo xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này đã giảm
mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất khẩu) do đã có
thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước. Thị trường nhập khẩu
gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 vẫn là Philippines chiếm 40% tổng lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam. 3 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là
Philippines, Malaysia, Cuba. Đây đều là các thị trường truyền thống chiếm 63,8%
về giá trị và 54,8% về lượng.
25

Năm

Nước
2007
2008
Khối lượng
(nghìn tấn)

Kim ngạch
(triệu USD)
Khối lượng
( nghìn tấn)
Kim ngạch
( triệu USD)
Philipine
1458
466
1479
1088
Cuba
431
167
488
411
Malaysia
377
116
457
263
Senegal
191
94
200
100
Iraq
-
-
190

95
Bờ Biển Ngà
148
46
185
51
Đông Ti Mo
134
46
165
47
Singapore
82
26
150
39
Ghana
130
40
125
30
Indonexia
1169
379
76
19

Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 10 thị trường nhập khẩu
chính 2007-2008 (Nguồn: Tổng cục hải quan, 2008)


Sang năm 2009 thì thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam vẫn là các
nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so
với mức 50,8% của năm 2008). Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường
Philippines chiếm hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Theo đó, lượng gạo
mà Việt Nam xuất khẩu sang Philippines trong năm 2009 đạt gần 1,7 triệu tấn, trị
giá hơn 912 triệu USD.
Tiếp theo phải kể đến Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008, đã vươn lên
đứng thứ hai với thị phần 9%, tương đương với lượng gạo nhập khẩu hơn 611
nghìn tấn, trị giá khoảng 271 triệu USD. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm
trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có
Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD ), Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu

×