Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

skkn dạy học sinh lớp 5 một số mẹo chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.99 KB, 46 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
LờI CảM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài “Dạy học sinh lớp 5 một số
mẹo chính tả” tôi đã nhận được sự giúp đỡ, góp ý và phê bình trực tiếp của GS.TS
Lê Phương Nga - Chủ nhiệm bộ môn Tiếng Việt khoa Giáo Dục tiểu học, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội I.
Xin được trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Giáo sư đã
gợi mở và bổ trợ về cơ sở ngôn ngữ và phương pháp tiếp cận nguồn tư liệu nghiên
cứu
Nhân đây,tôi cũng xin được trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu và một số giáo
viên khối lớp 5 của trường Tiểu học Hoàn Long (Yên Mỹ) đã tạo điều kiện và
cung cấp số liệu, thông tin cần thiết cho đề tài.
Hoàn Long, ngày 15 tháng 01 năm 2010
Chủ nhiệm đề tài
Đỗ Văn Don
1
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Phần thứ nhất
Đặt vấn đề
i. Lý do chọn đề tài
Phân môn chính tả trong bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giúp
học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả theo quy tắc hiện
hành, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng chính tả văn hóa Tiếng Việt
chuẩn mực. Vì vậy, phân môn Chính tả có vị trí quan trọng như các môn khác trong
cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt.
Giống như môn Chính tả từ lớp 2 đến lớp 4, tính chất nổi bật nhất của phân
môn Chính tả lớp 5 là thực hành. Bởi lẽ chỉ có thể hình thành các kĩ năng, kĩ xảo
chính tả cho học sinh thông qua việc thực hành, luyện tập. Do đó trong phân môn
này, các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lý thuyết không được
bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng ghép trong hệ thống bài tập chính tả. Điều
này thoạt nghe thì có vẻ rất phù hợp với học sinh, nếu nhìn từ góc độ tâm sinh lý


lứa tuổi và khả năng tiếp thu của học sinh. Nhưng cũng chính đó, học sinh rất dễ
quên vì khả năng tổng hợp thành hệ thống còn hạn chế. Do đó, giúp học sinh khắc
phục tình trạng này là một yêu cầu cần thiết.
Một trong các mục tiêu cơ bản của phân môn Chính tả lớp 5 là dạy thế nào
để học sinh viết đúng chuẩn mực tiếng Việt văn hóa để góp phần giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ. Về mặt hình thức chữ viết, học sinh lớp 5 hiện
đang có xu hướng tiến bộ, chữ viết xấu đang được dần khắc phục bằng phong trào
và hội thi. Nhưng bên cạnh đó, không ít học sinh (kể cả học sinh viết chữ đẹp cấp
huyện) cũng rất lúng túng khi viết chính tả phân biệt và thường xuyên viết sai chính
tả trong hành văn.
Trong hoàn cảnh hiện nay, học sinh phải học quá nhiều: nhiều môn, nhiều
thời gian. Nói theo cách của Giáo sư Phan Ngọc: Tuổi đời còn nhỏ mà điều phải
học thì quá nhiều. Do đó, cần có những quyển sách Mẹo để giúp học sinh lớp 5 học
hiệu quả Chính tả mà không mất quá nhiều thời gian và công sức.
2
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Với những lý do trên đây, bằng kiến thức đại cương và với những kinh
nghiệm trong hơn 10 năm dạy học, tôi đã đúc kết thành bản sáng kiến kinh nghiệm
“Dạy học sinh lớp 5 một số mẹo chính tả”
ii. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài “Dạy học sinh lớp 5 một số mẹo chính tả” nhằm
cung cấp cho học sinh lớp 5 và giúp các em cách ghi nhớ quy tắc chính tả theo kiểu
mẹo. Từ đó các em dễ dàng phân biệt được, viết được đúng chính tả theo quy tắc.
Đề tài cung cấp cho đồng nghiệp một số mẹo chính tả thường gặp trong việc
hướng dẫn học sinh lớp 5 viết chính tả. Đề tài còn là một cẩm nang, một “sổ tay
chính tả” của bản thân tôi trong quá trình dạy học, nhất là chính tả.
iii. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện: học sinh lớp 5 và một số lỗi chính tả
học sinh lớp 5 thường mắc lỗi, đó là các từ, ngữ chứa phụ âm l / n ; ch / tr ; s/
x

; d /
gi / r ; vần iêu / iu / ưu và iêu / ươu / ưu.
iv. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về mẹo chữa lỗi chính tả
2. Tìm hiểu một số lỗi chính tả phổ biến mà học sinh hay mắc lỗi (thực
trạng, nguyên nhân, giải pháp)
3. Tìm hiểu và đưa ra một số cách chữa lỗi chính tả và tổng hợp thành
mẹo chữa lỗi chính tả.
v. Phương pháp nghiên cứu
1, Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp này giúp tôi có cơ sở khoa
học về ngữ âm, chính tả từ đó giúp tôi có góc nhìn tổng quát và quan niệm đúng
đắn về quy tắc chính tả hiện hành.
2, Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Qua điều tra bằng văn bản (phiếu) và
các cuộc phỏng vấn chính thống hoặc trao đổi ngẫu nhiên trong giao tiếp, phương
pháp này giúp chúng tôi có cơ sở thực tiễn về thực trạng học sinh viết (nói) sai
chính tả.
3
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
3, Phương pháp tích lũy và thống kê: trong hơn 10 năm dạy học phương
pháp này đã cung cấp cho tôi khá nhiều vốn kinh nghiệm liên quan đến đề tài. Đó
là thuận lợi đáng kể.
4, Phương pháp phân loại: phương pháp này giúp tôi phân loại được nhóm
lỗi chính tả hoặc một số lỗi chính tả có nét tương đồng về mặt ngữ âm hoặc cánh
chữa lỗi.
5, Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này hỗ trợ đắc lực trong
việc cắt nghĩa cơ sở lí luận.
6, Phương pháp miêu tả: Phương pháp có tác dụng trong việc giải thích,
thuyết trình cách khắc phục lỗi chính tả.
7, Phương pháp khảo sát: Trong quá trình thực hiện đề tài, vận dụng phương
pháp này để tìm hiểu và rà soát toàn bộ các bài chính tả phân biệt ở lớp 5

8, Phương pháp so sánh đối chiếu: Vận dụng phương pháp này để tránh được
sự lặp lỗi hoặc trùng hợp không cần thiết khi xây dựng mẹo chính tả.
Ngoài những phương pháp trên đây được sử dụng trong quá trình thực hiện
đề tài, tôi còn vận dụng một số phương pháp khác: phương pháp trắc nghiệm,
phương pháp thực hành, phương pháp trò chơi.
vi. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề mẹo chính tả ở bậc Tiểu học là rất rộng. Vì vậy để tránh lan man, dàn
trải, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về mẹo chính tả ở một số trường hợp mà học sinh
lớp 5 ở địa phương thường mắc phải như t / n ; ch / tr ; s/
x
; d / gi / r ; iêu / iu / ưu,
iêu / ươu / ưu.
vii. Dự kiến kế hoạch nghiên cứu
1, Phương hướng chung: Kết hợp tìm hiểu trên tất cả hai phương diện cơ sở
lí luận và cơ sở thực tiễn mà đề tài quan tâm.
2, Phương hướng cụ thể:
2.1 Thời gian nghiên cứu: 02 năm học (năm học 2008 - 2009 và năm học
2009 - 2010 )
4
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
2.2. Phân bố thời gian thực hiện kế hoạch
2.2.1. Năm học 2008 – 2009
Bước 1: Xây dựng và hoàn thiện ý tưởng đề tài
Bước 2: Xây dựng đề cương đề tài
Bước 3: Gửi đề cương cho GS.TS Lê Phương Nga (Khoa giáo dục
Tiểu học - Đại học Sư phạm Hà Nội I) phê duyệt.
Bước 4: Chỉnh sửa và hoàn thiện đề cương.
Bước 5: Áp dụng thử nghiệm tại lớp 5A, trường Tiểu học Hoàn Long.
2.2.2. Năm học 2009 - 2010.
Bước 1: Áp dụng tại lớp 5A và 5B trường tiểu học Hoàn Long

Bước 2: Tổng kết kinh nghiệm
Bước 3: Hoàn thiện đề tài
Bước 4: Nộp bản thảo về cho Hội đồng khoa học các cấp
Phần thứ hai
5
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Giải quyết vấn đề
Chương I
CƠ Sở Lí LUậN Và THựC TIễN
I. Về Tiếng Việt chữ mẹ đẻ
1. Chữ cái chữ Việt
Chữ cái chữ Việt được xây dựng theo hệ thống chữ cái La tinh. Chữ cái tiếng
Việt gồm các chữ cái sau đây:
1.1. Có 11 nguyên âm đơn: (a, ă, â, e, ê, i (y), o, ô, u , ư và 3 nguyên âm
đôi: iê (yê, ia, ya) ; ươ (ưa) ; uô (ua).
1.2. Có 23 phụ âm: a, b (k, q), ch, d, đ, g (gh), h, kh, l,, m, n, nh, ng (ngh),
p, ph, r, s, t, th, tr, v,
x
.
Ngoài các chữ cái do tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu nên chữ viết tiếng
Việt còn sử dụng thêm 5 dấu để ghi 6 thanh điệu: \ (ghi thanh huyền), ~ (ghi
thanh ngã), ? (ghi thanh hỏi), / (ghi thanh sắc), . (ghi thanh nặng) và không dùng
dấu để ghi thanh ngang ( thanh không).
2. Nguyên tắc xây dựng chữ Việt
So với chữ viếtc của nhiều ngôn ngữ trên thế giới, chữ Việt có phần thuận lợi
hơn. Do đó, chính tả của nó cũng giản tiện hơn nhiều. Nguyên nhân sâu xa nhất của
điều này là ở chỗ chữ Việt được xây dựng theo nguyên tắc âm vị học ( còn gọi là
nguyên tắc ngữ âm học). Nguyên tắc âm vị học trong chữ viết yêu cầu giữa âm và
chữ phải có quan hệ tương ứng “một - một”. Để đảm bảo nguyên tắc này, chữ Việt
phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện; mỗi âm chỉ do một ký hiệu biểu thị và mỗi kí

hiệu luôn luôn chỉ só một giá trị - tức biểu thị chỉ một âm duy nhất ở mọi vị trí
trong từ.
Về căn bản, chữ Việt được tạo ra có tính đến khá đầy đủ các điều kiện trên
đó.
3. Những bất hợp lý trong tiếng Việt
6
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Do nhiều nguyên nhân - lịch sử, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ khác nhau -
những người tạo ra tiếng Việt * đã không tuân thủ được một cách nghiêm ngặt
những yêu cầu của nguyên tắc âm vị học trong chữ viết. Do đó, đã để lại trong lòng
cơ cấu chữ Việt nhiều hiện tượng chính tả trái ngược với nguyên tắc ngữ âm học
của chữ viết và đã làm nhức nhối bao thế hệ học giả trong và ngoài nước một thế
kỷ nay. Những bất hợp lý của chữ Việt, có thể quy vào hai trường hợp chính dưới
đây.
3.1. Vi phạm nguyên tắc tương ứng “ một - một” giữa kí hiệu và âm thanh.
Điều này thể hiện ở chỗ, dùng nhiều kí hiệu để biểu thị một âm. Thí dụ:
- Âm /k/ được biểu thị bằng ba kí hiệu c, k, q.
- Âm /i/ được biểu thị bằng hai kí hiệu i, y.
- Âm /
γ
/ được biểu thị bằng hai kí hiệu g, gh.
- Âm / / được biểu thị bằng hai kí hiệu ng, ngh
- Âm /ie/ được biểu thị bằng bốn kí hiệu: iê, yê, ia, ya
- Âm /u

/ được biểu thị bằng hai kí hiệu: ươ, ưa.
- Âm /uo/ được biểu thị bằng hai kí hiệu uô, ua.
3.2. Vi phạm tính đơn trị của kí hiệu. Điều này thể hiện cụ thể ở một kí
hiệu biểu thị nhiều âm khác nhau tùy thuộc vào vị trí của nó trong quan hệ với
những âm trước và sau nó. Thí dụ như sau:

Thí dụ 1: chữ g khi đứng trước các chữ không phải là i, e, ê thì biểu thị là
âm /
γ
/, nhưng khi đứng trước i mà sau i là các chữ không phải là i, e, ê thì biểu thị
là âm /z/ (gia, giữ, giục, ) ; Khi g đi cùng với h thì biểu thị là âm /
γ
/ (ghi, ghét,
ghế, ) ; khi đứng trước i hoặc iê thì một mình g lại biểu thị âm /z/ (gì, gìn, giết )
Thí dụ 2: Chữ O chủ yếu dùng để biểu thị nguyên âm /

/; nhưng khi đứng
ngay sau a hoặc e, với tư cách là một âm cuối, thì biểu thị bán nguyên âm /u/ (gạo,
kẹo, ) ; còn khi đứng trước a hoặc e, thì lại biểu thị một giới hạn âm ( âm đệm),
đó là /u/ (hoa, hoe, )
* Tiếng Việt - chữ Quốc ngữ - do các giáo sĩ người Âu sáng tạo ra hồi thế kỷ XVI - XVIII
theo chữ La - tinh để tiện cho việc truyền giáo ở nước ta
Trên đây la hai trường hợp chính tả thể hiện các bất hợp lý trong chữ Quốc
ngữ. Nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ còn phân vân về tình trạng dùng nhiều dấu
7
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
phụ, như các trường hợp: ă, â, ô, ơ, ư; hoặc ghép nhiều con chữ để biểu thị một âm,
như các trường hợp: ch, gh, kh, nh, ng, ngh, ph, tr, th.
Điều đó quả không thuận tiên lắm song cũng là giải pháp riêng. Đó không là
những bất hợp lý việc vi phạm nguyên tắc cơ bản của chính tả ngữ âm học, và
không gây cản trở hay sự lộn xộn nào do chính tả Quốc ngữ, thậm chí ngay cả khi
dùng chữ Việt trên máy vi tính.
2. Chính tả chữ Việt.
1. Đặc điểm tiếng Việt
Tiếng việt là ngôn ngữ phân tiết tính tức là các âm tiết được tách bạch rõ
ràng trong dòng lời nói. Đây chính là điểm khác biệt với các ngôn ngữ khác như

Tiếng Anh, tiếng Nga, ,Pháp *. Vì thế khi viết, các chữ biểu thị âm tiết được viết
rời,tách biệt.
Mỗi âm tiếng Việt đều mang một thanh điệu nhất định. Khi viết chữ, phải
đánh dấu nhanh - ghi thanh điệu lên âm chính (hoặc bộ phận chính, đối với âm
chính là nguyên âm đôi) của âm tiết.
Khi xác định được kí hiệu ghi âm chính trong chữ, thì ghi dấu thanh điệu lên
trên (hoặc dưới) kí hiệu đó, chẳng hạn: bạn, toán, hòa, thuế, Trong trường hợp có
hai ký hiệu biểu thị âm chính là nguyên âm đôi thì ghi dấu thanh lên kí hiệu có dấu
phụ, chẳng hạn: tiến, chiến, quyển, yến, suối, chứa, ; ghi dấu thanh lên kí hiệu
thứ hai (Từ trái sang phải) khi cả hai kí hiệu đều có dấu phụ, chẳng hạn: nước,
bưởi, ; ghi dấu thanh lên kí hiệu đầu tiên (trái sang phải) khi cả hai kí hiệu không
có dấu phụ, chẳng hạn: phía, của, múa,
Trong chính tả tiếng Việt, mỗi dòng chữ gồm những chữ, mỗi chữ tách riêng
ra là một âm tiết. Khi muốn nói đến mặt chính tả của tiếng “sách” chẳng hạn thì ta
dùng “chữ”; khi muốn nói đến mặt ngữ âm của nó thì ta dùng “âm tiết” (tiếng). Hai
cách gọi tuy khác nhau, nhưng đều chỉ một vật. Thí dụ miêu tả âm tiết “Toán”.
* Thí dụ tiếng Anh: baby (hai âm tiết) ;banana (ba âm tiết) ;television (4 âm tiết) ;
Trong chữ “toán”, ta phân biệt hai ,phần: phần thứ nhất (t) gọi là âm đầu hay phụ
âm đầu và phần thứ hai (oán) gọi là vần: trong phần vần (oán), ta có “án” là vần
8
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
đơn và “o” đệm vào “án” làm nên âm đệm; trong vần đơn “án”, ta có hai bộ phận là
“a” gọi là nguyên âm chính và “n” gọi là âm cuối. Người ta gọi âm đầu hay âm
cuối là vì lí do trước âm đâu hoặc âm sau âm cuối không thể có một âm gì nữa.
Trong vần “oán” còn một bộ phận nữa mà ta không thể bỏ quên, đó là dấu thanh.
Tóm lại, một âm tiết - chữ - tiếng Việt bao gồm có năm phần: âm đầu, âm
đệm, âm chính, âm cuối và dấu thanh (nếu ở dạng đầy đủ) . Trong năm phần này,
có thể có những phần vắng mặt. Chẳng hạn, âm đầu có thể vắng như “oán” ; âm
cuối có thể vắng như “ào” ; âm đệm có thể vắng như “á”. Tuy nhiên, tuyệt đối có
hai phần bao giờ cũng có mặt là nguyên âm chính và dấu thanh*. Khi trong chính tả

không ghi dấu gì thì có nghĩa đó là “dấu không” chứ không phải là không có dấu.
Một âm tiết mất nguyên âm, hoặc dấu của nó thì tan rã, không được coi là một âm
tiết Việt.
2. Một số quy định về chữ viết tiếng Việt.
2.1. Viết theo nguyên tắc ghi âm
Về nguyên tắc, chữ viết ghi âm phải căn cứ trên một cách phát âm. Mà tiếng
Việt thì tồn tại nhiều phương ngữ. Các cách phát âm địa phương có tính bảo thủ cao
và thực tế là chúng đều được tôn trọng. Người Hà Nội vẫn có niềm tự hào với phát
âm “con châu” thay vì “con trâu”. Cũng như vậy, người Sài gòn chẳng bao giờ mặc
cảm khi hỏi “tai đâu?” mà người nghe không biết chỉ vào tai hay đưa tay ra thay
cho câu trả lời. Đặc biệt Đài tiếng nói Việt Nam - cơ quan ngôn luận của Quốc gia
cũng mặc nhiên phát đi bằng cả ba thứ giọng: Hà Nội, Huế và Sài gòn đại diện cho
ba phương ngữ lớn trên phạm vi cả nước. Thế nhưng về mặt chữ viết, chỉ cho phép
một cách duy nhất dùng để ghi mọi phương ngữ. Vậy đâu là cơ sở cho chữ viết?
Cách viết ấy tôn trọng chuẩn chính tả đã được xác định và được phản ánh về cơn
bản trong Từ điển phổ thông.
* Tiếng Việt có sáu dấu thanh: dấu không (ngang), dấu huyền, dấu ngã, dấu hỏi, dấu sắc
và dấu nặng.
9
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Nghĩa là chữ viết tiếng Việt căn cứ trên cách phát âm của người Hà Nội cộng với
năm sự phân biệt mà cách phát âm địa phương này còn đồng nhất nói. Đó là tr/ch ;
s/
x
; r/gi/d ; ưu/iu ; ươu/iêu
2.2. viết rời từng chữ
Một âm tiết được ghi bằng một chữ. Viết “Yên Mỹ” chứ không viết “ Yên
Mỹ”. Tuy nhiên trong giao tiếp bằng văn bản , các kiểu chữ viết liền nhau như trên
vẫn tồn tại và được sử dụng đôi khi. Sự cố chấp ấy có thể có hai lý do:
Một là, cách viết đó đơn thuần chỉ mang tính cá nhân: Thư từ, nhật ký,

Hai là,cách viết đó mang tính cộng đồng nhưng được nhìn nhận như một địa
danh trong các văn bản giao dịch quốc tế. Thí dụ Hanoi, Pari, London, Còn các
văn bản khác, nhất là dùng trong nhà trường, kiểu viết ấy được coi là mắc ba lỗi:
không viết rời con chữ, không viết hao âm tiết thứ hai của tên riêng; không viết dấu
phụ và dấu thanh.
2.3. Có dấu thanh cho mỗi chữ
Bất kỳ âm tiết nào của Tiếng Việt cũng phải mang thanh điệu. Nguyên tắc
này triệt để đến mức ngay cả từ vay mượn của tiếng nước ngoài khi đã “gia nhập”
cũng phải tùy tục, mỗi âm tiết cũng phải mang một trong sáu thanh điệu của tiếng
Việt. Thí dụ “cafe” vốn là một từ của tiếng Pháp không có dấu thanh nhưng khi đã
trở thành vốn từ vựng của tiếng Việt là “ cà phê” thì hiển nhiên, tiếng “cà” đã mang
thanh huyền và tiếng “phê” đã mang thanh ngang rồi.
Nguyên tắc trên cũng được thể hiện trên chữ viết. Mỗi chữ đều mang một
trong sáu dấu thanh và được thể hiện trên chữ viết. Dấu thanh thanh có tác dụng
khu biệt như một âm vị. Vì thế, trên chữ viết, việc không viết dấu thanh sẽ khiến
người đọc, người nghe lĩnh hội sai (có khi là cố ý, có khi là vô tình) điều mà người
viết định truyền đạt.
Thí dụ 1: Khi đến thăm nhà máy cơ khí Gia Lâm, nhìn hàng chữ ghi: “ NHA
MAY CO KH GIA LAM”, Bác thản nhiên đọc: “Nhà máy cơ khí già lắm”. Vào hội
trường, thấy một dòng khẩu hiệu: “HO CHU TICH MUON NAM”, Người làm bộ
10
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
mệt mỏi và nói lớn: “ Hồ Chủ Tịch muốn nằm” làm cho đoàn tháp tùng vừa cười
vui vẻ, vừa “ sợ xanh mắt” về bài học chữ nghĩa mà bác vừa dạy
Thí dụ 2: Lệnh cấp trên đưa xuống: “ BAT BAN NGAY” với ý “bắt bắn
ngày” nhưng đã được cấp dưới thừa hành thực thi: “bắt bắn ngay”
Thí dụ 3: Trên nóc cao ốc một khách sạn ở thị xã Cửa lò (Nghệ An) có đắp
dòng chữ “MUONG THANH HOTEL” ; ngồi trên xe ô tô, du khách phải suy luận
bở hơi tai mới đoán ra được dó là khách sạn Mường Thanh.
3. Nguyên tắc kết hợp chính tả tiếng Việt.

3.1. Các chữ cái biểu thị các phần của âm tiết.
3.1.1. Tất cả các chữ cái ghi phụ âm đầu đều có thể làm kí hiệu ghi âm đầu
của âm tiết.
3.1.2. Tất cả các chữ cái gi nguyên âm đều có thể làm kí hiệu ghi âm chính
của âm tiết.
3.1.3. Hai chữ cái ghi âm đệm là o và u, giữa chúng có sự phân bố vị trí rõ
rệt.
3.1.4. Các kí hiệu: p, t, m, n, c, ng (nh), i (y), u (o) biểu thị các âm cuối
3.2. Sự phân bố vị trí giữa các kí hiệu cùng biểu thị một âm. Một bộ quy tắc
kết hợp hoàn chỉnh, cần thiết, đủ mạnh để loại bỏ khả năng tùy tiện, nước đôi khi
viết. Các quy tắc bổ sung này đã được xã hội hóa và trở thành thói quen chính tả
của người việt. Nhờ chúng mà chính tả việt khắc phục được tính phức tạp, rắc rối.
Sau đây là các quy tắc bổ sung:
3.2.1. Đối với k/ c /q:
- K viết trước các kí hiệu ghi nguyên âm ( bộ phận nguyên âm đôi) :i, e, ê, iê,
ia.
- C viết trước các kí hiệu ghi nguyên âm (bộ phận nguyên âm đôi): a, ă, â, o,
ô, ơ, u, ư, ua, uô, ưa, ươ.
- Q viết trước âm đệm u. Riêng trường hợp “ka ki” , “kách mệnh”, “ Bắc
Kạn” là do theo thói quen chứ “k” vẫn viết trước “a”.
11
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
3.2.2. Đối với g/gh và ng/ngh
- G và NG viết trước các kí hiệu ghi nguyên âm (bộ phận nguyên âm đôi): a,
ă, â, o, ô, u, ư.
- GH và NGH viết trước các kí hiệu nghi nguyên âm (bộ phận nguyên âm
đôi): i, e, ê.
3.2.3. Đối với IÊ/ IA/ YÊ/ YA.
- IÊ viết sau âm đầu, trước âm cuối: chiến , tiên tiến,
- IA viết sau sau âm đầu, không có âm cuối: chia, phía,

- YÊ viết sau âm đệm, trước âm cuối: tuyên, yến,
- YA viết sau âm đệm, không có âm cuối: khuya,
3.2.4. Đối với UA/ UÔ.
- UA viết khi không có âm cuối: múa, cua, sủa,
- UÔ viết trước âm cuối: chuối/ chuột, cuốn,
3.2.5. Đối với ƯA / ƯƠ.
- ƯA viết khi không có âm cuối: mưa, xưa, cửa,
- ƯƠ viết trước âm cuối: nước, thương, mượt,
3.2.6. O và U làm âm đệm.
- Sau chữ cái ghi âm Q, chỉ viết U: quang, quân, quýt,
- Sau các phụ âm khác hoặc mở đầu âm tiết:
+ Viết O trước các nguyên âm: a, ă, e (hoa, khoăn, toét, )
+ Viết i trước các nguyên âm: â, ê, y, yê, ya (huân, huệ, khuya, nguyên,
huy, )
3.2.7. I và Y làm âm chính.
- I viết sau âm đầu: bi, kỉ, phi,
- Y viết sau âm đẹm: quy, quỳnh, quýt,
* Cần lưu ý, khi đứng một mình viết I đối với các từ thuần việt (ỉ eo, ầm ĩ, í
a, ) cần viết Y đối với các từ gốc Hán ( y tá, ý kiến, ý nghĩa, )
12
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
4. Quy tắc viết hoa hiện hành
4.1. Chức năng của chữ viết hoa (3 chức năng)
Một là, đánh dấu sự bắt đầu một câu.
Hai là, ghi tên riêng của người, địa danh, cơ quan, tổ chức,
Ba là, biểu thị sự tôn kính.
Các chức năng trên, nhìn chung được thực hiện nhất quán trong chính tả
Tiếng Việt. Duy có chức năng thứ hai còn nhiều điểm chưa thống nhất trong cách
sử dụng.
Thí dụ: Cùng một tên người, tồn tại những cách viết khác nhau như: Hồ Hoài

Anh, Hồ hoài Anh, Hồ - Hoài - Anh, ; cùng một tên địa danh, tồn tại những cách
viết khác nhau như: Liên Hợp quốc, Liên hợp quốc, Liên Hợp Quốc,
4.2. Quy định về cách viết hoa tên riêng:
4.2.1. Đối với tên riêng tiếng Việt: tên người và tên địa lý, viết hoa tất cả
những âm vị đứng đầu các âm tiết và không dùng dấu gạch nôi: Võ Thị Sáu, Hưng
Yên, Tên tổ chức, cơ quan thì chỉ viết hoa âm vị đứng đầu của các âm tiết thứ
nhất trong tổ hợp dùng làm tên: Trường tiểu học Hoàn Long, Phòng giáo dục Yên
Mỹ,
4.2.2. Đối với tên riêng không phải tiếng Việt
Nếu chữ viết của nguyên ngữ dùng chữ cái La - tinh thì giữ đúng nguyên
hình trên chữ viết trong nguyên ngữ (kể cả các chữ cái f, j, w, z và dấu phụ ở một
số chữ cái có thể lược bỏ: Paris, London, )
Nếu chữ viết của nguyên ngữ dùng hệ thống chữ cái khác chữ cái La - tinh
thì dùng lối chuyển trị chính thức sang chữ cái La-tinh : “ 人 ” chuyển thành “
nhân”, “人” chuyển thành “thượng”, “人” chuyển thành “cổ”.
Nếu chữ viết của nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi âm bằng chữ cái thì
dùng lối phiên âm chính bằng chữ cái La - tinh.
13
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Những chữ viết riêng có hình thức phiên âm Hán - Việt quen dùng trong
tiếng việt thì nói chung không thay đổi, trừ một số trường hợp như Anh, Pháp, Bắc
Kinh, Lỗ Tấn,
4.2.3. Viết hoa để đánh dấu đầu câu, đầu dòng thơ.
4.2.4. Viết hoa để biểu thị sắc thái tu từ tức là viết hoa chỉ khái niệm thiêng
liêng hay được người quý trọng (đôi khi theo chủ ý của người viết).
Thí dụ: “Tự Do và Ái Tình
Vì các ngươi ta sống
Vì Tình Yêu lồng lộng
Xin hiến cả đời tôi ”
(Pê - tô - nhi)

4.2.5. Viết hoa chữ thứ nhất của mỗi từ đối với tên người, tên địa danh nước
ngoài không phiên âm qua tiếng Hán - Việt : Lê - nin, Mat - xcơ - va, Oa - sinh -
tơn, Viết hoa tên người, tên địa danh của một số dân tộc ít người của Việt Nam:
Chư - pa, Kơ - pa - kơ - lơng,
5. Nguyên tắc thích hợp với đối tượng
5.1. Nguyên tắc phù hợp với đối tượng
Ở mỗi địa phương có những phương ngữ khác nhau tùy theo địa phương của
mình. Do đó, mẹo chính tả muốn dùng thuận phải phù hợp với từng đối tượng. Vì
vậy, những sự phân biệt đưa ra phải khách quan.
5.2. Nguyên tắc tôn trọng chính tả hiện hành.
Mẹo chính tả được xây dựng trên cơ sở quy tắc chính tả mà Bộ giáo dục và
Đào tạo quy định, đồng thời lấy Từ điển chính tả phổ thông của Viện ngôn ngữ học
xuất bản năm 2005, Hà Nội làm chuẩn.
5.3. Nguyên tắc xét một âm trong một hệ thống những sự đối lập về mọi
mặt.
Đây là mẹo của tất cả các mẹo và chỉ cần nắm một mẹo duy nhất này thôi là
tìm được mẹo, giảng được mẹo, dạy chính tả so sánh thành công. Lí do của nó là
14
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
không một âm nào lại “hoạt động” giống một âm khác. Chữ “ hoạt động” ở đây chỉ
nhiều mặt kết hợp với những âm khác, thứ hai là mặt lịch sử, thứ ba là láy âm, thứ
tư là nghĩa.
5.4. Nguyên tắc chuẩn các quan hệ lịch sử thành các quan hệ hiện đại.
Trong khi đối lập, thế nào cũng đi đến những sự đối lập về lịch sử. Cần
chuyển những hiểu biết lịch sử thành những hiểu biết liên quan đến tình trạng hiện
đại.
5.5. Nguyên tắc thống kê.
Các mẹo chính tả thường có ngoại lệ. Do đó, thế nào cũng còn lại một số chữ
cần phải nhớ. Muốn cho việc nhớ được dễ dàng, cần phải lựa chọn những chữ
thường dùng phải nhớ.

5.6. Nguyên tắc tìm nghĩa của những nhóm âm tiết, của những hình thức
láy.
Chẳng hạn một cách rất tiện để phân biệt “ưt” với “ức” là tất cả những chữ
viết với vần “ưt” đều chỉ một cái gì đó đứt ra (rứt, đứt, bứt, giựt, ). Những ngoại
lệ chỉ thu hẹp vào danh từ là những từ đã vay mượn từ tiếng nước ngoài chứ có rất
ít ngoại lệ là động từ hoặc tính từ là những từ khó vay mượn.
6. Một số cách phân biệt chính tả phổ biến ở bậc Tiểu học.
6.1. Cách phân biệt từ Hán - Việt.
Từ Hán - Việt chiếm quá nửa tổng số từ vựng trong kho tàng tiếng Việt.
Chúng lại có những đặc điểm riêng về chính tả rất khác những từ thuần Việt. Thí
dụ: “gi” (Hán - Việt), chỉ đi với dấu hỏi và dấu sắc; “d” (Hán - Việt) chỉ đi với dấu
ngã và dấu nặng; không có từ Hán - Việt nào viết với vần “ui”, “ơn”, “it”, Cho
nên một điều căn bản nhất đối với học sinh để viết đúng chính tả là sự phân biệt từ
Hán - Việt với từ không phải Hán - Việt.
6.2. Cách nhận mặt từ láy âm.
Một cơ sở chữa lỗi chính tả là xét hiện tượng láy âm. Vậy ta phải nhân mặt
được láy là gì. Chữ “nhận mặt” ở đây chỉ có nghĩa nhìn về mặt hình thức cấu tạo
15
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
biết ngay được một số từ có phải là láy âm hay không. Một từ láy âm là một từ
trong đó hai chữ có sự lặp lại nhau nào đó. Ngoài yêu cầu về hình thức, hai chữ
này phải có ít nhất một chữ không hoạt động một mình thành từ. Nếu cả hai chữ dù
có vẻ láy âm đi nữa, những đều hoạt động thành từ được thì đó không phải là từ láy
âm (lành mạnh, thung lũng, bình minh, tươi tốt, ). Trong từ láy âm, ta cần phân
biệt giữa điệp và láy. Điệp là láy lại hoàn toàn một bộ phận nào đó. Vì âm tiết tiếng
Việt có năm bộ phận nên có năm cách điệp và có năm cách láy.
Trong việc chữa lỗi chính tả, các quy tắc điệp không có tác dụng bằng các
quy tắc láy, bởi vì nhờ quy tắc láy mà ta phục hồi được cái âm cần phải có. Chẳng
hạn, căn cứ vào quy tắc láy (dấu ngang đi với dấu hỏi, dấu ngã đi với dấu nặng) ta
có thể kết luận “nghĩ” trong “nghĩ ngợi” viết các dấu ngã; trái lại, “nghỉ” trong

“nghỉ ngơi” viết với dấu hỏi. Còn gặp hiện tượng điệp, cái âm mình vẫn viết sai thì
ta không thể tự nhiên phân biệt được nó và ta phải dùng con đường khác, đó là con
đường từ vựng và con đường ngữ nghĩa.
7. Tiểu kết:
Chúng ta có những cơ sở khách quan để tìm mẹo chính tả cho tiếng việt nói
chung và cho học sinh lớp 5 nói riêng. Cơ sở ấy là bất cứ âm nào trong tiếng việt
cũng có hoạt động riêng của nó khác tất cả các âm khác. Muốn phân biệt âm s với
x
chẳng hạn, ta chỉ cần so sánh hoạt động của hai âm đó xem chúng khác nhau như
thế nào. Hoạt động ấy khác nhau về mọi mặt: mặt kết hợp ngữ âm, mặt lấy âm, mặt
liên quan tới từ Hán - Việt, mặt ngữ nghĩa của vần. Khi tổng kết những sự khác
nhau khách quan này, ta có những mẹo cần thiết. Gặp trường hợp ngoại lệ, ta xét
những chữ thường dùng nhất (trong số 2000 chữ thông dụng) và lập danh sách.
16
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Thực ra cái gọi là lỗi chính tả chẳng qua chỉ là sự đụng chạm tới cái vỏ âm
thanh ở một vài điểm cá biệt mà thôi. Còn toàn bộ các quan hệ về mọi mặt, quan hệ
ngữ âm, quan hệ láy âm, quan hệ lịch sử, quan hệ ngữ nghĩa có thể nói ra nguyên
vẹn. Chính vì vậy, con đường chữa lỗi chính tả bằng mẹo là đóng góp thiết thực
vào việc chuẩn hóa tiếng việt và cải tiến giảng dạy theo phương châm khoa học,
dân tộc và đại chúng. Và việc quan trọng hơn cả là học sinh lớp 5 nói riêng có mẹo
chữa lỗi chính tả đơn giản và nhớ lâu. Rõ ràng, cái vẻ dễ dàng của những mẹo
chính tả là do khoa học ngôn ngữ đưa đến, chứ không phải do chủ quan, mánh khóe
cá nhân của người viết.
Chương II
LịCH Sử Vấn Đề
Sau hơn hai mươi năm, kể từ khi một số văn bản quy định về chữ viết của Bộ
giáo dục và đài tạo được ban hành, chữ Việt ngày càng được chuẩn hóa và dần dần
khắc phục được những hạn chế. Tuy nhiên, trong suốt mấy mươi năm ấy, vấn đề về
quy tắc chính tả, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt mà ngay cả vấn đề dạy - học

tiếng Việt mà cụ thể là dạy - học chính tả trong trường phổ thông mà trực tiếp là
17
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
bậc Tiểu học vẫn luôn là vấn đề
“nóng” thường xuyên được diễn đàn
trên các báo, tạp chí. Đã xuất hiện
một số công trình nghiên cứu về mẹo
chính tả, được công bố và xuất bản.
Song đó chỉ là những quyển sách có
tính chất tham khảo là chính đối với
lứa tuổi trưởng thành có nhu cầu về vấn đề chính tả do ảnh hưởng của chuyên môn,
công việc. Cũng có một số bài viết được giới thiệu trên tạp chí như tạp chí Tiểu
học, Nghiên cứu giáo dục. Đó là những bài viết trao đổi kinh nghiệm ở một vài
khía cạnh nhỏ lẻ hay một thủ pháp trong dạy học chính tả ở bậc Tiểu học. Còn vấn
đề về mẹo chính tả dành cho học sinh lớp 5 thì dường như chưa nhiều, nếu không
muốn nói là chưa có một công trình nào được công bố hay một bài viết nào chọn
vẹn được đăng tải trên diễn đàn giáo dục. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu
về chính tả hay những bài viết trên diễn đàn dạy học cũng có ảnh hưởng ít nhiều tới
đề tài của tôi đây. Có thể phân loại như sau:
1.
Một số công trình nghiên cứu về chính tả
18
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
1.1. Cuốn “ Từ điển chính tả tiếng Việt” của hai soạn giử Nguyễn Như í và
Đỗ Việt Hùng do nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1997 thể hiện tầm vóc như
chính “cha đẻ” của nó. Cuốn sách thể hiện quan điểm hành dụng, phục vụ trực tiếp
cho dạy học, rèn luyện, tra cứu chính tả trong nhà trường phổ thông. Hình thức
trình bày của cuốn sách theo phép đối chiếu, so sánh thể hiện sự phân biệt cách viết
khác nhau của những từ dễ nhầm lẫn chính tả với nhau.
Với cuốn sách đồ sộ đó, các tác giả đã thực hiện được việc thu thập tất cả các

trường hợp có phụ âm đầu thường bị phát âm lẫn lộn như ch/tr ; d/gi/r/v ; l/n; s/
x
;
các từ có vần thường bị phát âm chệch đi so với tiếng toàn dân như ach/ăt, an/ang,
anh/ăn, ăt/ăc, ; hoặc thường bị phát âm và viết lẫn lộn như ây/ay và các từ thường
bị phát âm lẫn lộn các thanh hỏi, ngã,
1.2. Giáo trình “Tiếng việt thực hành” của nhóm tác giả Bùi Minh Toán, Lê
A, Đỗ Việt Hùng do Nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1998 cũng dành một
chương về chữ viết - chính tả . Nội dung chính được đề cập đến chủ yếu là quy tắc
viết hoa tiếng Việt, một số lỗi chính tả thường mắc phải và một số dạng bài tập thực
hành. Tiếc rằng, sách chủ yếu dành cho sinh viên chuyên ngành ngữ văn nên chỉ có
tác dụng trong việc nghiên cứu cơ sở lý luận.
19
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
1.3. Cuốn sách “ Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả” của giáo
sư Phan Ngọc do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 2000 đã nghiên cứu sâu
sắc và cụ thể hóa về chính tả. Cuốn sách giúp người đọc “quy nó ra thành công
thức” từ “các mối quan hệ ngữ nghĩa” của một nửa số từ Hán Việt đang lưu hành.
Đặc biệt, cuốn sách còn giúp giáo viên, học sinh phổ thông biết phân biệt dễ dàng
một số trường hợp chính tả hay mắc lỗi.
2. Một số bài viết nghiên cứu vè chính tả.
Các bài viết trên diễn đàn dạy học cảu tạp Tạp chí tiểu học, Nhà trường,
nghiên cứu giáo dục, v.v đều só ích cho giáo viên trong việc dạy học chính tả ở
bậc Tiểu học. Các bài viết thường tập trung đưa ra các quan điểm dạy học, phương
pháp dạy học, kinh nghiệm dạy học về chính tả ở các lớp thuộc bậc Tiểu học. Có
những bài viết hể hiện sự phát hiện mới mẻ trong tổ chức dạy học, có những bài
viết đề cập đến một số vấn đề còn bỏ ngỏ trong quy tắc chính tả, phân biệt chính tả.
Đó là những bài viết đáng trân trọng và học tập. Song,các bài viết đó vẫn không
tránh khỏi chủ quan, thiên về lý luận và tính áp dụng vào thực tế chưa phù hợp và
hiệu quả chưa cao.

20
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Chương III
THỰC TRẠNG HỌC SINH LỚP 5 MẮC LỖI CHÍNH TẢ
I, Một số lỗi thường gặp:
Trong quỏ trỡnh dạy học chớnh tả ở lớp 5, qua việc kiểm tra cỏc mụn học
khỏc ở lớp 5, tụi đó thống kờ và phõn loại một số lỗi phổ biến mà học sinh mắc
phải dưới đõy:
Bảng 1
Lỗi ghi phụ õm
Viết sai Sửa đỳng Viết sai Sửa đỳng
lổ tung nổ tung liềm vui lỗi buồn niềm vui nỗi buồn
Mang lú theo Mang nú theo Dong đuổi Rong đuổi
Noang lổ Loang lổ Trõu bỏu Chõu bỏu
Lúi với nú Núi với nú Dơi xuống Rơi xuống
lỗ nực nỗ lực Trừ xuống Chừ xuống
Nay động Lay động Dong dờu Rong rờu
Sưa lay Xưa nay Tõm cảm Tõm khảm
Cha thuốc Tra thuốc Kinh tế Tinh tế
Dũ trả Dũ chả Chõn trọng Trõn trọng
Áo lõu Áo nõu Khột rắng Khột nắng
Lụ nệ Nụ lệ viết song viết xong
Xụi lổi Sụi nổi tiệc chà tiệc trà
Bảng 2
Lỗi ghi nguyờn õm
21
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Viết sai Sửa đỳng Viết sai Sửa đỳng
đại sảy đại sảnh biếu cổ bướu cổ
Trỡu tượng trừu tượng Liu luyến Lưu luyến

trừu mến Trỡu mến Đi hoọc Đi học
Tịu trường Tựu trường Linh cĩu Linh cữu
Bảng 3
Lỗi ghi õm cuối
Viết sai Sửa đỳng Viết sai Sửa đỳng
nồng nàn Nồng nàn Hoa may Hoa mai
Tỏng thưởng Tỏn thưởng Ăn chai Ăn chay
biển ngữ biểu ngữ Cao cú Cau cú
Son sắc Son sắt Mau mắn May mắn
II, Nguyờn õm:
Thực tế cho thấy học sinh lớp 5 mắc lỗi chớnh tả do nhiều nguyờn nhõn dẫn
đến, trong đú khụng ngoại trừ sự bất hợp lý của chữ viết Tiếng Việt, sự vụ ý, sự cẩu
thả, trớ nhớ chưa tốt của học sinh và cả ngọng núi nữa. Nguyờn nhõn cơ bản là do
ảnh hưởng của cỏh phỏt õm địa phương. Ngoài ra, nguyờn tắc chớnh tả hiện hành
cũng chi phối sự mắc lỗi chớnh tả trờn.
1. Do viết sai viết phỏt õm chuẩn.
Tiếng Việt là ngụn ngữ thống nhất nhất. Về căn bản, chớnh tả tiếng Việt là một
chớnh tả thống nhõt. Tuy nhiờn, do Tiếng Việt cú nhiều phương ngữ, thổ ngữ nờn
bờn cnạh tớnh thống nhất cao là chủ đạo, nú cũng cú những nột dị biệt khỏ rừ rang
trong cỏch phỏt õm, cỏch dựng từ giữa cỏc vựng và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về sự
tồn tại trong thực tế ba giọng khỏc nhau tương ứng với ba phương ngữ, Ở Yờn Mỹ,
vựng dõn cư thuộc địa bàn Hoàn Long lại cú những đặc điểm phỏt õm khỏc nhau.
Chẳng hạn, đặc điểm nổi bật chung của Hoàn Long cũng là sự phỏt õm lẫn lộn
“l/n”, gi/d/r, ch/tr, s/x. Cỏ biệt vựng Yờn Phỳ(lõn cận với Hoàn Long và cũng cú
học sinh thuộc địa bàn Yờn Phỳ học ở Hoàn Long), phỏt õm lẫn lộn: vần “ oc”
thành vần “ooc”( đi học→ đi hoọc).
22
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Chớnh đặc điểm phỏt õm đặc trưng đú cú khỏc với phỏt õm chuẩn dẫn đến
những cỏch viết sai chớnh tả. Cú thể quy những lỗi này về hai dạng chủ yếu: lỗi

viết sai phụ õm đầu và lỗi viết sai phần vần(viết sai õm cuối).
2. Do sai nguyờn tắc chớnh tả hiện hành.
Là lỗi do học sinh lớp 5 khụng nắm được cỏc đặc điểm và nguyờn tắc kết hợp
cỏc chữ cỏi, quy tắc viết hoa. Lỗi do khụng nắm được quy tắc phõn bố và kớ hiệu
cựng biểu thị một õm: nghành, ngi ngờ, qoăn qoeo
3. Do chưa cú thúi quen viết đỳng chớnh tả.
Xuyờn suốt quỏ trỡnh học ở bậc tiểu học, học sinh luụn được rốn luyện viết
đỳng chớnh tả theo hỡnh đồng tõm. Tuy nhiờn, khụng phải học sinh nào cũng cú
được thúi quen viết đỳng chớnh tả. Nhiều học sinh viết sai ngay trong tiết chớnh tả.
Bởi lẽ, học sinh vẫn chưa cú thúi quen học một cỏch tự giỏc, nờn nhanh quờn. Hơn
nữa, học sinh cũng cú khi khụng được giỏo viờn phỏt hiện và uốn nắn, sửa lập thúi
quen ở mọi tiết, mọi lỳc ở trường.
23
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Chương IV
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
I, Phương hướng chung:
Hiện nay, cỏc nhà nghiờn cứu ngụn ngữ cũng như cỏc nhà sư phạm đều cú
chung quan điểm việc viết đỳng chớnh tả Tiếng Việt là yờu cầu bắt buộc đối với
mỗi học sinh và là yờu cầu dặc biệt khắt khe đối với những người dạy học ở bậc
tiểu học và đối với học sinh hoàn thành chương trỡnh tiểu học.
Một là, đọc và viết nhiều lần để ghi nhớ cỏc chữ hay viết sai. Đọc càng nhiều, viết
càng nhiều, tần số xuất hiện của cỏc chữ ấy càng cao và càng cú cơ hội để trỏnh lỗi
khi viết. Chớnh vỡ vậy mà cú một thực tế là, học sinh càng lờn lớp cao thỡ càng ớt
viết sai chớnh tả.
Hai là, cần luụn cú ý thức về hệ thống phỏt õm được lấy làm cơ sở cho chữ
viết. Đặc biệt chỳ ý, quan tõm đến những chữ mà cỏch phỏt õm của địa phương cú
sự sai lệch so với chuẩn. Trong trường tiểu học, người giỏo viờn cú vai trũ đặc biệt
quan trọng trong việc giỳp học sinh viết đỳng chớnh tả. Chữ viết của giỏo viờn cũn
trờn cả mức tỏc động mà thẩm thấu vào thúi quen viết chữ của học sinh. Do đú,

giỏo viờn phải viết cho đỳng, viết cho đẹp, cho thật khoa học trước học sinh như
viết trờn soảng, phờ bài làm của học sinh.
Ba là, dựng một số biện phỏp khoa học( mẹo chớnh tả). Đõy là phương phỏp
loại trừ lỗi chớnh tả, nếu nắm chắc rồi thỡ rất dễ nhớ mà cũn nhớ lõu nữa. Rất phự
hợp với học sinh cuối cấp.
Bốn là, ỏp dụng luật ỏp dụng cho từ lỏy: Tiếng Việt cú sỏu thanh chi thành
hai hệ đối lập nahu về õm vực. Âm vực thấp bao gồm dấu luyến, dấu ngó và dấu
nặng, õm vực cao gồm dấu ngang, dấu sắc và dấu hỏi. Khi gặp một từ lỏy cú hia
õm tiết, khụng biết viết “hỏi” hay “ngó” nếu õm tiết kia mang dấu huyền, dấu nặng
(đỡ đần, gặp gỡ…)
Năm là, ỏp dụng luật ỏp dụng cho từ Hỏn - Việt: Luật từ Hỏn - Việt bắt đầu
bằng một trong bảy phụ õm m, n, nh, v, l, d, ng được viết với dấu ngó (Mỡnh Nờn
24
Sáng kiến kinh nghiệm Đỗ Văn Don
Nhớ Là Dấu Ngó). Thớ dụ: mĩ thuật, mẫu số, mónh hổ - m, Nỗ lực, phụ nữ, truy
nó-n, vv
II, Một số mẹo chớnh tả dành cho học sinh lớp 5.
1. Cỏch phõn biệt L và N
Hiện tượng núi và viết lẫn lộn L và N là lỗi chớnh tả trầm trọng nhất trong cỏc
lỗi mà học sinh lớp 5 thuộc địa bàn huyện Yờn Mỹ mắc phải. Về vấn đề phỏt õm,
tụi đó tổng kết thành một bản sỏng kiến kinh nghiệm được Hội đồng khoa học Sở
GD-ĐT xếp loại B năm học 1998-1999. Tuy nhiờn, qua cuộc điều tra và trực tiếp
dạy học cho thấy hiện tượng này xảy ra khụng phải vỡ L và N biến mất trong cỏch
phỏt õm của học sinh mà là chủ yếu cú sự lẫn lộn về từ vựng. Chữ đỏng đọc với L
thỡ lại đọc với N và ngược lại, chữ đỏng đọc với N thỡ lại đọc với L. Hiện tượng
này thực ra dễ chữa, chỉ cần vài mẹo đơn giản là cú thể giải quyết được.
1.1. Mẹo chớnh tả về L
L đứng trước õm đệm nhưng N lại khụng đứng trước õm đệm. Nhưng kinh
nghiệm cho biết sự phõn biệt vần cú õm đệm với vần khụng cú õm đệm là rắc rối,
cho nờn phải núi một cỏch dài dũng hơn nhưng dễ làm hơn. Chữ N, khụng bao giờ

đứng trước một vần bắt đầu bằng “oa, oă, oe, uõ, uờ, uy”, trỏi lại L đứng trước
những vần ấy. Ngoại lệ duy nhất cú “noón”(Hỏn - Việt) nghĩa là “trứng” được dựng
trong hai từ “ noón cầu”, “noón cầu”.
Nếu gặp từ lỏy mà hai õm đầu đọc giống nhau thỡ nhất định đú là một từ điệp
õm đầu và cả hai chữ phải cựng N hoặc L. Vậy ta chỉ cần thiết một chữ là đủ, chữ
kia sẽ được điệp lại õm đầu của chữ này. Thớ dụ, ta gặp từ “nặng nề” và từ “lạnh
lựng”, biết trước từ này đều là điệp õm, ta chỉ cần tỡm cỏch viết chữ “lạnh” chẳng
hạn.
Một chữ ta khụng phõn biệt được là L hay N nhưng nú đứng đầu trong một từ
lỏy õm khụng phải điệp õm đầu thỡ dứt khoỏt đú là L chứ khụng phải N. Lưu ý,
mẹo này chỉ được ỏp dụng trong trường hợp lỏy õm đầu. Thớ dụ: L với B (lệt bệt,
25

×