Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận Quản trị tài chính tập đoàn Toyota

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.73 KB, 34 trang )

KHOA KINH TẾ - LUẬT
TIỂU LUẬN: Quản trị tài chính của Tập Đoàn Toyota
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Thúy Giang
Thực hiện: Nhóm Nhí Nhố
NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Môn Học: Quản Trị Tài Chính CTĐQG
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Tp. HCM, ngày 15 tháng 3 năm 2010
LỜI MỞ ĐẦU
Từ một người thợ mộc không được học hành đến nơi đến chốn trở thành người
sáng lập ra tập đoàn ô tô lớn nhất thế giới. Đó là câu chuyện nghe có vẻ khó tin nhưng có
thực.
Nhiều “ông lớn” trong nền kinh tế thế giới đã “đột tử” trong làn sóng của cuộc
khủng hoảng tài chính 2007 -2010 vừa qua nhưng đâu đó lại tồn tại một số công ty nhờ
đó tạo được vị thế của mình. Điều này có thật.
Không chỉ có trong mình cả hai điều trên mà tập đoàn xe hơi Toyota là đại diện
cho tinh hoa công nghệ của đất nước mặt trời mọc. Chỉ trong một thời gian ngắn với
những con người đầy đam mê, sáng tạo Toyota đã biến mình từ con số 0 ở đầu những
năm 30 thế kỷ 19 trở thành tập đoàn ô tô số 1 thế giới. Đó quả là điều kì diệu.
Tiểu luận này, sẽ mang đến cho bạn cái nhìn tổng quát về chặng đường mà tập
đoàn nay đã trải qua. Bên cạnh đó xem xét hoạt động kinh doanh cũng như tình hình tài
chính của nó trong những năm gần đây. Liệu rằng những khó khăn Toyota đang gặp phải
quanh việc thu hồi xe trên toàn cầu có thể “hạ gục” nó hay không? Hãy tự mình đọc và
khám phá điều đó!
Nhí Nhố Group
2
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
NỘI DUNG CHÍNH
I. SƠ LƯỢC VỀ TOYOTA
Toyota Motor Corporation (Nhật: Toyota Jidosha Kabushiki-gaisha) là một công ty
đa quốc gia có trụ sở tại Nhật Bản, và nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới tính đến năm


2008. Về mặt công nhận quốc tế, hãng Toyota là nhà sản xuất xe hơi duy nhất có mặt
trong nhóm top 10 xếp hạng công nhận tên BrandZ.
1. Sakichi Toyoda-ông tổ Tập đoàn Toyota
Toyoda Sakichi (Sinh ngày 14/2/1867; mất ngày 30/10/1930)
là người thợ mộc tài hoa, phát minh ra cỗ máy dệt hiện đại
đầu tiên cho Nhật Bản và là người sáng lập tập đoàn sản xuất
ô tô Toyota.Ông sinh tại một làng quê dệt vải có truyền thống
của Nhật Bản tại tỉnh Shizuoka trong một gia đình thợ thủ
công nghèo. Bố ông làm thợ mộc, còn mẹ ông ở nhà dệt vải.
Cha của Toyoda Sakichi là một người thợ mộc khéo tay và khá nổi tiếng trong làng.
Năm 1890, Sakichi Toyoda đã trình diễn chiếc máy dệt đầu tiên do mình phát minh. Hầu
hết các chi tiết của chiếc máy dệt này đều bằng gỗ. Năm 1891, ông đã đăng ký bản quyền
cho máy dệt của mình. Và cũng từ đó, Sakichi Toyoda trở thành ông chủ chuyên sản xuất
máy dệt để bán.
Trong một lần sang Mỹ để tìm hiểu thông tin cho dự án máy dệt tự động mà ông
đang nghiên cứu, như tình cờ, Sakichi Toyoda nhận thấy ôtô đã xuất hiện ở Mỹ khá nhiều
mà Nhật Bản chưa có. Và Sakichi Toyoda cùng với con trai Kichiro Toyoda đã theo đuổi
ý tưởng phải sản xuất bằng được xe ôtô. Sakichi Toyoda đã đồng ý dành rất nhiều tiền để
cho con trai lập một trung tâm nghiên cứu về ôtô do chính ông điều hành. Rút kinh
nghiệm từ tuổi trẻ khi phải tự mày mò sáng chế chiếc máy dệt đầu tiên, Sakichi Toyoda
đã khuyên con trai phải sang Mỹ và châu Âu để tìm hiểu và nắm bắt công nghệ sản xuất
ôtô. Quan điểm của Sakichi Toyoda là phải biết họ làm ôtô như thế nào rồi mình sẽ tìm
cách để làm tốt hơn.Hàng chục động cơ xe ôtô được cha con Sakichi Toyoda và Kichiro
3
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Toyoda mua về để mổ xẻ tìm hiểu từng chi tiết.Với một quyết tâm và sự cần mẫn hiếm
có, cha con Toyoda vừa duy trì sản xuất máy dệt vừa âm thầm chuẩn bị cho dây chuyền
sản xuất ôtô đầu tiên của Nhật Bản. Bắt đầu năm 1930, lần lượt từng dây chuyền sản xuất
vỏ xe, gầm xe rồi động cơ xe ôtô được gia đình Toyoda hoàn thiện.
Năm 1934, Kichiro Toyoda, lúc này đã thay cha điều hành công ty Toyoda đã công

bố chiếc xe ôtô đầu tiên, mở đường cho kỷ nguyên huy hoàng của tập đoàn Toyota sau
này.
2. Toyota qua các giai đoạn
Lịch sử của Toyota bắt đầu vào năm 1933 như là một bộ phận của Toyoda
Automatic Loom Works dành cho sản xuất ô tô dưới sự hướng dẫn của con trai của người
sáng lập, Kiichiro Toyoda. Xe đầu tiên của nó là chiếc xe chở khách A1 và G1 là vào năm
1935. Năm 1936, Toyota đã nhập thị trường xe du lịch với AA Mẫu của mình và tổ chức
một cuộc thi thiết kế logo với những tiêu chí phải dễ hiểu, gợi tả được đó là một công ty
trong nước và chứa đựng những âm tiết Nhật Bản. Trong số 27.000 mẫu biểu tượng được
gửi về, có một biểu tượng mang tên “Toyota” với hình tròn bao quanh.
Cái tên “Toyota” phát âm không rõ như Toyoda, nhưng có vẻ như nó thích hợp
hơn đối với tâm lý quảng cáo, hơn nữa, chữ Toyota (トヨタ) chỉ có 8 nét so với 10 nét
của Toyoda (トヨダ ), theo quan niệm truyền thống của người Nhật, con số 8 mang lại sự
may mắn và tượng trưng cho sự lớn mạnh không ngừng, trong khi đó số 10 là một số tròn
chĩnh, không còn chỗ cho sự phát triển. Thương hiệu Toyota ra đời từ đó và tháng 4/1937,
Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Logo này không còn được gắn
trên các xe của Toyota nữa nhưng vẫn là biểu tượng của tập đoàn này tại Nhật Bản. Logo
hiện nay Toyota đang sử dụng được giới thiệu trên toàn thế giới vào năm 1989. Có ba
ovals trong logo mới kết hợp tạo thành kí tự "T", đó là viết tắt của Toyota. Hai ovals bên
trong chồng chéo vuông góc đại diện cho mối quan hệ chặt chẽ cùng có lợi được đặt giữa
khách hàng và công ty trong khi hình bầu dục lớn bao quanh bên ngoài đại diện cho việc
mở rộng "của công nghệ toàn cầu của Toyota và tiềm năng không giới hạn cho tương lai.
Toyota Motor Co được thành lập như một công ty độc lập vào năm 1937.
4
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Từ năm 1936 đến 1943, công ty chỉ sản xuất 1757 xe ô tô, trong đó có 1404 chiếc
sedan và 353 chiếc xe ngựa (mẫu AB). Tuy nhiên, Toyota lại thành công hơn trong lĩnh
vực sản xuất xe tải và xe bus.
Sau Thế chiến thứ 2, Toyota bận rộn với việc chế tạo xe tải, nhưng đến năm 1947,
hãng bắt đầu sản xuất mẫu SA được gọi là Toyopet, một cái tên gắn bó với Toyota trong

nhiều thập kỷ với nhiều mẫu ô tô khác nhau
Năm 1955, Toyota bắt đầu sản xuất chiếc xe sang trọng đầu tiên của mình. Đó
chính là chiếc Crown
Toyota bắt đầu bán các sản phẩm của mình tại thị trường Mỹ năm 1958 với việc
xuất khẩu Land Cruiser và Toyopet.
Năm 1959, Toyota mở nhà máy tại Bra-xin. Đây là nhà máy đầu tiên của hãng
ngoài lãnh thổ Nhật Bản. Từ thời điểm này, Toyota duy trì một triết lý là sẽ “địa phương
hóa” thiết kế và khâu sản xuất của mình để phù hợp với điều kiện đường sá, thời tiết và
kinh tế của dân địa phương. Điều này còn có nghĩa là Toyoto không chỉ sản xuất ô tô ở
nước ngoài mà còn thiết kế và thử nghiệm chúng tại đó. Trong chiến lược này, Toyota đã
xây dựng đượng mối quan hệ lâu dài với các nhà cung ứng và lao động địa phương.
Sản phẩm được “Mỹ hóa” đầu tiên của Toyota là chiếc Tiara, hay thường được biết
đến với cái tên Toyota Corona PT20, ra đời năm 1964.
Cuối những năm 1950, Toyota chỉ là một công ty rất bé trên thế giới. Đến năm
1963, nó trở thành hãng không phải của Mỹ lớn thứ 93 trên thế giới và năm 1966 đứng
thứ 47 (trong thời gian này, Toyota trở thành công ty lớn thứ 6 tại Nhật và là nhà sản xuất
ô tô lớn thứ 10 trên thế giới).
Đầu những năm 1980, kế hoạch F1 được thành lập trong đó có 1400 kỹ sư, 2300
kỹ thuật viên, 60 nhà thiết kế và 220 người hỗ trợ dưới sự lãnh đạo của Shoiji Jimbo và
Ichiro Suzuki. Chiến lược nghiên cứu thị trường cho tên gọi Lexus tại thị trường Mỹ được
bắt đầu năm 1985. Tháng 6/1985, mẫu prototype đầu tiên xuất hiện. năm 1986, các cuộc
thử nghiệm được diễn ra trên đường phố Mỹ và Đức. Cuối cùng, năm 1987, thiết kế sau
cùng cũng được thông qua sau 8 buổi thuyết trình với ban quản lý.
LS400, chiếc Lexus đầu tiên cuối cùng cũng xuất hiện vào năm 1989. Chiếc xe
ngay lập tức tạo được tiếng vang nhờ sự sang trọng ổn định và có giá thành rẻ hơn những
5
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
chiếc Mercedes. Sự cạnh tranh kém của các hãng sản xuất ô tô vào lúc đó cũng giúp
Lexus đạt được thành công. Từ đó đến nay, Lexus luôn là một trong những nhà sản xuất
xe sang trọng hàng đầu của thế giới.

Thương hiệu Scion được thành lập vào đầu năm 2000 với 3 mẫu xe được phát triển
trên nền chiếc Echo cũ, với 2 loại động cơ – động cơ nhỏ cho phiên bản xA và xB và
động cơ 2.4 lít cho phiên bản thể thao tC. Scion nhanh chóng đạt được doanh số rất cao
ngay khi xuất hiện. Điều này dẫn đến việc giới thiệu rộng rãi Scion trên toàn nước Mỹ và
mặc dù được quảng cáo rất ít nhưng Scion vẫn đạt được những thành công đáng kể. Mặc
dù Scion không thu hút nhiều giới trẻ như Toyota mong đợi, nhưng nó cũng mang đến
một bộ phận khác hàng trẻ để lắp vào chỗ trống trong phân khúc thị trường do Toyota và
Lexus để lại.
May mắn nắm bắt được cơ hội từ “khủng hoảng tài chính”, vào năm 2008, hãng xe
hơi Toyota của Nhật Bản cuối cùng đã thay thế hãng xe hơi General Motors (GM) của
Mỹ và trở thành “ông anh cả” trong ngành chế tạo ô tô toàn cầu, thực hiện được giấc
mộng là thống trị thị trường xe hơi thế giới.
Tuy nhiên, viễn cảnh tươi sáng này lại không kéo dài, gần đây sự kiện thu hồi xe
do chân ga có vấn đề càng ngày càng nhiều, đã tác động nghiêm trọng tới danh dự của
Toyota, đồng thời còn làm lung lay lòng tin của thị trường toàn cầu với thương hiệu
“Made in Japan”.
Cách đây vài ngày, Toyota không ngừng tuyên bố một loạt các thông tin về thu hồi
xe, tổng số lượng xe hơi bị thu hồi tại các thị trường ở khắp nơi như Mỹ, Trung Quốc dự
kiến sẽ hơn 9 triệu chiếc, thậm chí còn lớn hơn cả lượng tiêu thụ xe hơn 7 triệu chiếc của
hãng trong năm 2009 vừa qua. Có phân tích cho rằng, uy tín danh dự của Toyota đang
đứng trước nguy cơ “sụp đổ”.
Ngày 29/01/10 Toyota lại tuyên bố, công ty sẽ chủ động thu hồi 646000 chiếc xe
hơi kiểu nhỏ gọn trên phạm vi toàn cầu, bộ phận đóng mở cửa xe của những chiếc ô tô
này quá nóng sau khi tiếp xúc chất lỏng, sẽ gây ra khói, tan chảy hay thậm chí bốc cháy.
Nếu như đại gia Phố Wall của Mỹ - Lehman Brothers với lịch sử 150 năm đã bị
phá sản tháng 9/2008, đồng thời cũng khiến cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn chỉ
trong một đêm diễn biến thành khủng hoảng tài chính toàn cầu. Danh dự của ngành tài
6
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
chính Mỹ bị sụp đổ hoàn toànThì hiện nay, nguy cơ mà Toyota đang đối mặt chỉ mới vừa

bắt đầu, đồng thời, vầng hào quang của ngành chế tạo Nhật Bản cũng đang dần biến mất.
Vấn đề chân ga có lỗi của hãng xe Toyota vẫn đang được điều tra, nhưng hiện các nhà
phân tích đều cho rằng, mấy năm trở lại đây, cùng với sự trỗi dậy của ngành chế tạo tại
Hàn Quốc, Trung Quốc, áp lực cạnh tranh mà doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải càng ngày
càng lớn, các doanh nghiệp Nhật Bản phải cắt giảm giá thành để nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm, vì thế mà chất lượng ngành chế tạo của Nhật Bản cũng do đó mà giảm.
Sự kiện Toyota thu hồi xe liệu làm sụp đổ ngành chế tạo Nhật Bản và thậm chí có
trở thành một “Lehman Brothers” thứ hai cho khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay không?
Đây là vấn đề rất đáng để thế giới quan tâm.
3. Hoạt động kinh doanh của Toyota
a) Sản phẩm:
Hoạt động sản xuất ô tô của Toyoda do Kiichiro Toyoda, con trai của Sakichi
Toyoda phụ trách. Lúc đầu, họ nghiên cứu thử nghiệm động cơ 2 xylanh nhưng cuối cùng
lại sử dụng mẫu động cơ 65 mã lực của Chevrolet, chassis và hộp số giống của chiếc
Chrysler Airflow. Động cơ đầu tiên của hãng được sản xuất năm 1934 (Type A), chiếc ô
tô và xe tải đầu tiên vào năm 1935 (mẫu A1 và G1) và mẫu thiết kế ô tô thứ 2 vào năm
1936 (mẫu AA). Năm 1937, công ty ô tô Toyota được tách ra.
7
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Mẫu A1 prototype Chiếc xe tải G1 Mẫu AA sedan
Chiếc Toyota KB, một chiếc 4x4 được sản xuất năm 1941, là một chiếc xe tải 2 tấn
giống như chiếc KC trước chiến tranh; nó có khoang chứa đố 1,5 tấn và có thể chạy với
vận tốc 69 km/h. Chiếc GB được phát triển dựa trên chiếc G1 1,5 tấn, và sau đó nó được
sản xuất dựa trên mẫu ôtô A1.
Chiếc xe tải đầu tiên của Toyota có thiết kế 1,5 tấn và sử dụng động cơ 6 xylanh
giống với phiên bản của động cơ Chevrolet cùng thời. Thật ra, nhiều bộ phận của xe có
thể đổi qua lại và chiếc những chiếc xe tải của Toyota bị thu giữ trong chiến tranh được
phe Đồng minh thay thế các bộ phận của Chevrolet vào sử dụng. Cũng có phiên bản động
cơ 4 xylanh 40 mã lực rất giống với thiết kế của động cơ 6 xylanh, nhưng nó có vẻ hơi
yếu cho một chiếc xe tải khi chở đủ tải.

Năm 1947, hãng bắt đầu sản xuất mẫu SA được gọi là Toyopet. Toyopet không
phải là một chiếc xe mạnh mẽ khi động cơ chỉ có 27 mã lực và tốc độ tối đa đạt 88 km/h,
nhưng nó có giá thành rẻ và đặc biệt thích hợp với những con đường bị bom đạn tàn phá
trong chiến tranh. Trong 5 năm đã có 215 chiếc SA Toyopet được sản xuất. Mẫu SD, một
phiên bản cho xe taxi, có lẽ đạt được nhiều thành công hơn khi có 194 chiếc được sản
xuất trong 2 năm. Mẫu SF Toyopet là chiếc ô tô thật sự phổ biến đầu tiên của Toyota với
động cơ được cải tiến và có thêm phiên bản cho xe taxi. Mẫu RH với động cơ 48 mã lực
được ra đời ngay sau đó. Đến năm 1955, Toyota đã sản xuất được 8400 xe mỗi năm và
con số này tăng lên 600.000 xe trong năm 1965.
8
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Toyopet SA
Ngoài những mẫu xe này, Toyota còn bắt đầu sản xuất một mẫu xe tải cho dân
thường với tên gọi Land Cruiser. Những chiếc Land Cruiser đầu tiên có thiết kế giống
chiếc Jeep và được sản xuất dựa chủ yếu vào chiếc xe chở vũ khí 0,5 tấn của Dodge và
chiếc Bantam (phiên bản trước của chiếc Jeep). Chúng sử dụng động cơ lớn hơn chiếc
Jeep và có kích cỡ cũng như thông số giống một chiếc xe chở vũ khí của Dodge.
Land Cruiser 1975
Năm 1955, Toyota bắt đầu sản xuất Crown, sử dụng động cơ 4 xylanh dung tích
1.5 lít và hộp số 3 cấp; sau đó là chiếc Corona với động cơ dung tích 1.0 lít. Năm 1955,
chỉ có 700 xe được sản xuất mỗi tháng, nhưng con số này nhanh chóng tăng lên 11.750 xe
năm 1958 và 50.000 xe năm 1964.
Năm 1964 Toyota cho ra dòng Toyota Corona PT20. Chiếc xe 6 chỗ này được
trang bị động cơ 70 mã lực và có thể đạt vận tốc tối đa 144 km/h và có nội thất rất thoải
mái. Một năm sau, chiếc Corona xuất hiện với giá dưới $2000. Doanh số bán ra đạt 6400
chiếc trong năm 1965 và tăng lên 71.000 năm 1968 và gần như tăng gấp đối mỗi năm khi
đạt 300.000 chiếc vào năm 1971.Năm 1967, Corona có giá bán rất cạnh tranh là $1760
với sự hài hòa về hiệu suất, tiện nghi và mức độ tiết kiệm nhiên liệu.
9
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota

Toyota Tiara
Đến năm 1967, Toyota đã phát triển bền vững tại Mỹ và chiếc Corona sedan 4 cửa
của hãng là đối thủ chính của chiếc Volkswagen Bettle. Ngay từ đầu, Corona đã nổi tiếng
là một chiếc xe có chất lượng và giá thành rẻ, tuy nhiên đến cuối những năm 1970, xe gặp
vấn đề nghiêm trọng là bị han rỉ. Một số chiếc Corona bị han rỉ đến ½ xe trước khi nó “đủ
già” để gặp phải những vấn đề về cơ khí.
Năm 1967, Toyota giới thiệu một mẫu xe mới khác đến thị trường Mỹ, chiếc
Crown, với phiên bản wagon và sedan. Xe được trang bị động cơ 6 xy lanh hoàn toàn mới
với công suất 115 mã lực (tổng cộng)/5200 vòng/phút. Động cơ này tuy nhỏ nhưng nó có
hệ thống nạp được cải tiến, piston hình bán cầu và sử dụng hợp kim nhẹ. Crown sử dụng
hộp số tay 4 cấp (vào thời điểm đó hộp số tay 3 cấp rất thông dụng) hay hộp số tự động 2
cấp (mặc dù đa số người Mỹ đã quen với hộp số tự động 3 cấp). Một điểm bất thường nữa
của chiếc Crown là đai an toàn 3 điểm và ghế ngồi không thoải mái. Chiếc Crown không
bao giờ có doanh số bán cao nhất nhưng vẫn tốt hơn nhiều so với những xe ngoại nhập
khác cùng phân khúc. Phiên bản sedan của Crown được bán với giá $2653 còn phiên bản
wagon là $2785. Điểm mạnh của Crown là hoạt động êm ái và nội thất yên tĩnh.
Toyota Crown 1969
10
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Ngay sau đó, Toyota mang đến thị trường Mỹ chiếc xe 2000GT danh tiếng có
ngoại hình giống những chiếc xe thể thao của Anh với mui xe lớn và gần như không có
cabin hay cốp xe. Xe được trang bị động cơ 6 xylanh dung tích 150 mã lực và hộp số tay
5 cấp; và đến năm 1966 nó đã lập được 16 kỷ lục thế giới về tốc độ và độ bền. Chiếc
2000GT có thời gian tăng tốc từ 0 lên 96 km/h khá chậm, hơn 10 giây. Tuy nhiên, xe có
thể vượt qua đoạn đường 400 mét trong 15,9 giây (gần bằng với chiếc Neon 1995) và rất
ổn định ở những khúc cua.
Toyota 2000GT
Chiếc Corolla, một chiếc xe nhỏ được yêu thích tại Mỹ, xuất hiện tại thị trường mỹ
lần đầu vào năm 1969, 2 năm sau khi nó được sản xuất tại thị trường Nhật; và tiếp sau đó
là những chiếc pickup nhỏ nổi tiếng nhờ sợ ổn định, bền bỉ và đáng tin cậy.

Toyota Corolla
b) Thị phần:
Toyota, đã vượt qua Ford từ năm 2003 để giành vị trí nhà sản xuất lớn thứ 2 thế
giới, sẽ tiếp tục mở thêm các nhà máy tại Nga, Thái Lan và Trung Quốc để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng.
Theo khảo sát của Consumer Reports, năm 2008 vừa qua, Toyota, Honda và Ford
là ba nhà sản xuất ô tô được người tiêu dùng Mỹ yêu thích nhất.
11
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Toyota vinh dự đứng vị trí đầu bảng trong 3 năm liên tiếp, kết quả của cuộc khảo
sát ý kiến hơn 1.700 người tại Mỹ hồi đầu tháng 12/2008. Tập đoàn Honda đứng vị trí thứ
2 nhờ vào các mẫu xe chất lượng cao và thân thiện với môi trường.
Ford, Cadillac và Merdedes-Benz là những nhãn hiệu nằm trong top 5. Mercedes
được bình chọn là nhãn hiệu xe có thiết kế đẹp, còn Cadillac được yêu thích nhờ áp dụng
công nghệ tiên tiến và cả hai nhãn hiệu này cũng nằm trong danh sách xe chất lượng tốt.
Tuy nhiên, Mercedes và Cadillac lại đứng ở những vị trí cuối bảng về độ tin cậy.
Tuy nhiên sau vụ thu hồi xe thị phần của Toyota giảm mạnh:
SOURCE: Motorintelligence.com | Tobey/The Washington Post - February 3, 2010
4. Đối thủ cạnh tranh của Toyota
Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Toyota là GM và Ford.
GM đã giữ ngôi vị nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới trong suốt 77 năm, kể từ khi
“phế truất” Ford vào năm 1931, hai năm trước khi Toyota bắt đầu con đường chinh phục
nước Mỹ.
Năm 2006: GM vượt xa Toyota tại Trung Quốc, thị trường lớn thứ 3 thế giới sau
Nhật và Mỹ. Năm 2005, GM chiếm 11% thị phần xe hơi Trung Quốc, trong khi Toyota
chỉ có 3,5%. Tại đây, GM đã có 5 nhà máy liên doanh lắp ráp gần như toàn bộ các mẫu xe
của GM bán tại Trung Quốc và dự tính sẽ đầu tư thêm 3 tỷ USD trong giai đoạn 2004-
2007 để mở rộng sản xuất.
Tuy nhiên: Quý 1/2007, Toyota đã tạm thời “dẫn trước” General Motors (GM) để
trở thành hãng xe hơi lớn nhất thế giới, với doanh số năm 2008 cao hơn GM khoảng

620.000 xe.
Để có thể chinh phục thị trường Mỹ, không chỉ chú tâm vào chất lượng và dịch vụ
khách hàng, Toyota đã chi hàng triệu đôla để thuyết phục người tiêu dùng ở đây rằng họ
12
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
là doanh nghiệp Mỹ, dù trụ sở đặt tại Nhật Bản. Trong nỗ lực đó, Toyota đã tham gia vào
giải đua NASCAR, Craftsman, xây dựng một nhà máy sản xuất xe bán tải ở Texas và một
nhà máy khác ở Mississippi, và gần đây là bổ nhiệm một người Mỹ vào hội đồng quản trị
công ty - điều trước nay chưa từng có ở Toyota.
Dù có tuyên bố gì trước công chúng, nhưng chắc chắn một điều là GM cảm thấy
không mấy dễ chịu khi bị đẩy ra khỏi vị trí số 1 mà hãng đã chiếm giữ trong suốt 3/4 thế
kỷ qua.
5. Các chi nhánh
Toyota có nhà máy tại hầu hết các nơi trên thế giới, sản xuất, lắp ráp xe cho thị
trường địa phương. Toyota đã sản xuất hoặc các nhà máy lắp ráp tại Nhật Bản, Úc, Ấn
Độ, Sri Lanka, Canada, Indonesia, Ba Lan, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Colombia, Anh Quốc,
Hoa Kỳ, UAE, Pháp, Brazil, Bồ Đào Nha, và gần đây hơn, Argentina, Cộng hòa Séc,
Mexico, Malaysia, Thái Lan, Pakistan, Ai Cập, Trung Quốc, Việt Nam, Venezuela,
Philippines, và Nga.
Trong năm 2002, Toyota bắt đầu dự án"Sáng tạo quốc tế đa mục đích chiếc xe"
(IMV) để tối ưu hóa sản xuất toàn cầu và hệ thống cung cấp cho xe tải pickup và xe đa
dụng, và để đáp ứng nhu cầu thị trường tại hơn 140 quốc gia trên toàn thế giới.IMV là cho
động cơ diesel được sản xuất tại Thái Lan, động cơ xăng ở Indonesia và truyền dẫn sử
dụng ở Philippin, để cung cấp cho các quốc gia bị tính phí với sản xuất xe.IMV sản xuất
và xuất khẩu các cơ sở cung cấp châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Đại Dương, Mỹ
Latinh và Trung Đông với ba IMV xe: Những Hilux Toyota (Vigo), các Fortuner, và
Toyota Innova.
Bắc Mỹ:
Toyota Motor trụ sở chính Bắc Mỹ nằm ở thành phố New York. Trụ sở sản xuất
của nó nằm ở Hebron, Kentucky, và được biết đến như Toyota Motor Engineering & Sản

xuất Bắc Mỹ, hoặc tema.
13
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Một đại lý của Toyota tại Fremont, California.
Toyota Canada Inc đã được sản xuất tại Canada kể từ năm 1983 với một nhà máy
bánh xe nhôm ở Delta, British Columbia mà hiện đang sử dụng một lực lượng lao động
khoảng 260. Nhà máy lắp ráp xe đầu tiên của nó, tại Cambridge, Ontario từ năm 1988,
hiện nay sản xuất Corolla xe nhỏ gọn, xe crossover Matrix và Lexus RX 350 SUV sang
trọng, với một lực lượng lao động của 4.300 người lao động. Thứ hai hoạt động tại
Woodstock lắp ráp của nó, Ontario đã bắt đầu sản xuất RAV4 vào cuối năm 2008.Trong
năm 2006, công ty con của Toyota Hino Motor đã mở một nhà máy xe tải nhiệm vụ nặng
nề, cũng tại Woodstock, 45 người sử dụng lao động và sản xuất 2000 xe tải hàng năm.
Toyota có một sự hiện diện lớn tại Hoa Kỳ với năm nhà máy lắp ráp chính ở
Huntsville, Alabama; Georgetown, Kentucky; Princeton, Indiana; San Antonio, Texas;
Buffalo, West Virginia. Toyota đã có một hoạt động liên doanh với General Motors tại
New United Motor Manufacturing Inc (Nummi), tại Fremont, California, được bắt đầu
vào năm 1984 và kết thúc vào năm 2009.Nó vẫn còn có một liên doanh với Subaru (SIA),
tại Lafayette, Indiana, bắt đầu vào năm 2006. Sản xuất trên một nhà máy sản xuất mới tại
Tupelo, Mississippi đã được dự kiến hoàn thành vào năm 2010 nhưng hiện tại đang bị giữ
vô hạn. Bắc Mỹ là một thị trường ô tô lớn cho Toyota. Trong các nhà máy lắp ráp, các
Camry và Tundra được sản xuất.
Toyota tiếp thị, bán hàng và phân phối tại Mỹ được thực hiện thông qua một công
ty con riêng biệt, Toyota Motor Sales, USA, Inc Toyota sử dụng một số khẩu hiệu trong
quảng cáo truyền hình Mỹ của mình như . It's time to move forward, Smart way to keep
moving forward, or Moving forward. Nó đã bắt đầu sản xuất xe tải lớn hơn, như Tundra
mới,đi sau khi thị trường xe tải lớn tại Hoa Kỳ.Toyota cũng sản xuất xe hybrid tại Mỹ
như Prius, Camry Hybrid, Highlander Hybrid… Toyota đã bán xe hybrid tại nước này
14
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
hơn bất kỳ nhà sản xuất khác. Toyota là một tập đoàn và cổ phiếu của công ty được giao

dịch mua bán trên Tokyo Exchange, New York Stock Exchange và các giao dịch chứng
khoán London. Toyota cũng tài trợ cho CLB Deportivo Guadalajara.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
1. Bảng cân đối kế toán – Balance sheet
Bảng cân đối kế toán của một công ty phản ánh bức tranh về tất cả các nguồn ngân
quỹ nội bộ (được gọi là nợ và vốn sở hữu) và việc sử dụng các nguồn quỹ đó tại một thời
điểm nhất định.Phương trình cơ bản xác định bảng cân đối kế toán được trình bày như
sau: Tổng tài sản = tổng nợ + vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần)
Bảng cân đối kế toán của công ty Toyota đến tháng 3-2009 (triệu $)
All amounts in millions except per share amounts.
03/2009 03/2008 03/2007
Assets
Cash and Equivalents 25,204.60 16,255.00 16,130.00
Accounts Receivable 14,100.93 20,364.00 17,178.00
Loans Receivable 39,398.66 42,930.00 34,261.00
Other Receivable 3,368.65 5,225.00 4,127.00
Receivables 56,868.25 68,519.00 55,566.00
Other Inventories 748.15 744.00 15,312.00
Inventories 14,775.68 18,222.00 15,312.00
Total Current Assets 114,396.37 120,633.00 100,024.00
Net Fixed Assets 74,938.55 77,972.00 68,418.00
Other Non-Current Assets 104,904.60 125,363.00 108,053.00
Total Non Current Assets 179,843.15 203,335.00 176,471.00
Total Assets 294,239.52 323,968.00 276,495.00
Liabilities
Accounts Payable 19,946.23 22,086.00 18,772.00
Short Term Debt 63,958.53 62,163.00 49,786.00
Other Current Liabilities 7,708.20 18,893.00 17,161.00
Total Current Liabilities 107,211.63 119,181.00 99,880.00
Long Term Debt 63,799.42 59,706.00 53,165.00

Other Non-Current Liabilities 9,398.05 9,088.00 6,513.00
Accounts Payable 19,946.23 22,086.00 18,772.00
Total Non-Current Liabilities 85,162.87 86,317.00 76,151.00
Total Liabilities 192,374.51 205,498.00 176,031.00
Stockholder's Equity
Preferred Stock Equity 0.00 0.00 0.00
Common Stock Equity 101,865.01 118,470.00 100,465.00
Total Equity 101,865.01 118,470.00 100,465.00
15
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Shares Outstanding Common Class Only 1,567.94 1,574.64 1,598.97
Total Liabilities & Stock Equity 294,239.52 323,968.00 276,496.00
Bảng cân đối kế toán cho biết thực trang tài chính của Toyota cho đến năm 2009,
bao gồm các nguồn vốn và các loại tài sàn của công ty.
+ Tài sản (assets):phản ánh toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của
công ty cho đến thời điểm lập báo cáo.Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán được
sắp xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần.
Về mặt kinh tế: số liệu bên phần tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài
sản đang tồn tại dưới hình thức vật chất cụ thể:tài sản lưu động, tài sản cố định.
Về mặt pháp lý: số liệu bên phần tài sản thể hiện số tài sản đang thuộc quyền quản
lý và sử dụng của công ty.
+ Nguồn vốn (Total Liabilities & Stock Equity):nguồn hình thành các loại tài
sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo.
Về mặt kinh tế: căn cứ vào các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn có thể đánh giá khái
quát khả năng, mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp và thời hạn tài trợ của các
nguồn vốn.
Về mặt pháp lý: số liệu bên phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của
doanh nghiệp đối với chủ sở hữu, đối với ngân hàng, đối với khách hàng vả đối với các
đối tượng khác.
2. Báo cáo thu nhập - Income statement

Bảng cân đối kế toán chỉ là một bức ảnh chụp nhanh tại một thời điểm. Đứng về
khía cạnh khác, bảng báo cáo thu nhập được các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn vì nó cho
biết hiệu quả sản xuất kinh doanh trong một thời kì, một giai đoạn nhất định thường là
một năm. Nó có thể sử dụng như một bản hướng dẫn để dự đoán phần nào tương lai của
doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về vốn,
lao động, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của công ty.
Báo cáo thu nhập của Toyota đến ngày 31-3-2009
16
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
PERIOD ENDING 31-Mar-09 31-Mar-08 31-Mar-07
Total Revenue 208,995,000 262,394,000 202,864,000
Cost of Revenue 187,884,000 214,795,000 162,883,000
Gross Profit 21,111,000 47,599,000 39,981,000
Operating Expenses
Research Development - - -
Selling General and Administrative 25,804,000 24,938,000 21,017,000
Non Recurring - - -
Others - - -
Total Operating Expenses - - -
Operating Income or Loss (4,693,000) 22,661,000 18,964,000
Income from Continuing Operations
Total Other Income/Expenses Net (535,000) 2,125,000 1,636,000
Earnings Before Interest And Taxes (5,228,000) 24,786,000 20,600,000
Interest Expense 477,000 460,000 418,000
Income Before Tax (5,705,000) 24,326,000 20,182,000
Income Tax Expense (575,000) 9,098,000 7,609,000
Minority Interest 247,000 (778,000) (421,000)
Net Income From Continuing Ops (4,448,000) 17,146,000 13,927,000
Non-recurring Events
Discontinued Operations - - -

Extraordinary Items - - -
Effect Of Accounting Changes - - -
Other Items - - -
Net Income (4,448,000) 17,146,000 13,927,000
Preferred Stock And Other Adjustments - - -
Net Income Applicable To Common
Shares
($4,448,000) $17,146,000 $13,927,000
17
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Doanh thu thuần (Total Revenue): 208,995
Tổng chi phí (Total Expenses) = Giá vốn (Cost of Revenue) + CP hoạt động =
213,688
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) = ∑ Revenue - ∑ Expenses = -4,693
Lợi nhuận trước thuế (EBT) = EBIT - Interest Expense = -5,170
Thu nhập chịu thuế = EBT +∑ Other Income/Expenses Net = -5,170 + (-535) =
-5,705
Đây là khoảng thời gian công ty làm ăn thua lỗ tuy nhiên theo luật nước ngoài
công ty vẫn phải tính thuế thu nhập ở dạng khấu trừ do đó:
Thuế thu nhập được hoàn lại = 575
Lợi ích từ cổ đông thiểu số (Minority Interest) = 247
Ngoài ra còn có những phần khác nhưng không đề cập đến như Equity in Earnings,
After Tax Other Income/Expense,…
Và lợi nhuận thuần của công ty (Net income)= - 4,448
3. Phân tích các tỷ số tài chính
a) Tỷ số thanh toán (Liquidity Ratios):
+ Tỷ số thanh toán hiện hành(Rc): thước đo khả năng thanh toán của công ty.
Rc (2009) = = = 1.79
Rc (2008) = = 1.94
Rc (2007) = = 2

Tỷ số Rc cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để
đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ cũ công
ty.
Rc = 1.79 cho thấy đến tháng 3/ 2009 công ty Toyota có 1.79$ tài sản lưu động
đảm bảo cho 1$ nợ đến hạn trả.Theo kết quả trên ta thấy đây là tỷ số này là khá lớn.
18
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Năm 2009 tỷ số này thấp hơn so với hai năm trước đó và giảm dần từ trong ba năm
nhưng không đáng kể.Như vậy, con số này cho thấy khả năng thanh toán giảm và là dấu
hiệu dự báo những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra.Thực tế là cuộc khủng hoảng đã xảy ra
(năm 2008) kéo theo những khó khăn của vô số những công ty.
Tuy nhiên tỷ số trên vẫn còn khá cao chứng tỏ công ty đầu tư khá nhiều vào tài sản
lưu động, cụ thể là hàng tồn kho (ít thanh khoản). Thực tế đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh
một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và mang tính chất hình thức.
+ Tỷ số thanh toán nhanh (Rq): được tính dựa trên những tài sản lưu động có thể
nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, gọi là “tài sản có tính thanh khoản”(trừ hàng tồn
kho).
Rq= = = 1.54
Điều này cho thấy Toyota có 154% tài sản có tính thanh khoản cho mỗi $ nợ đến
hạn. Tỷ số này cho biết rằng nếu hàng tồn kho của công ty ứ động, không đáng giá thì sẽ
lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, không thanh toán được nợ đến hạn.
b) Tỷ số hoạt động (Activity Ratios):
Các tỷ số hoạt động đo lường kết quả kinh doanh cua một công ty. Để nâng cao tỷ
số hoạt động công ty phải biết cách sử dụng những tài sản có hiệu quả hoặc loai chúng đi.
+ Vòng quay các khoản phải thu = = = 3.68 lần
Các khoản phải thu là những hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty thực
hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho
người bán… Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc
thanh toán các khoản phải thu… Tỷ số trên cho thấy đến tháng 3/2009 các khoản phải thu
luân chuyển 3.68 lần.Điều có nghĩa là bình quân khoản = 97.83 ngày công ty mới

thu hồi được nợ. Điều này cũng có thể dễ dàng hiểu do đặc điểm của việc mua bán hàng
19
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
hóa có giá trị lớn, thường được bán theo dạng trả góp,tín dụng dẫn đến việc tồn tại khoản
phải thu lớn và lâu thu hồi nên vòng quay nhỏ.Điều này không đáng lo ngại vì là tính chất
chung của thị trường ô tô.
+ Vòng quay hàng tồn kho = = = 0.013 lần
Số vòng quay quá thấp do đặc điểm ngành hàng ô tô cần có một lượng hàng tồn
kho lớn để duy trì hoạt động.
+ Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (2009) = = = 2.79
Tỷ số trên cho thấy 1$ tài sản cố định đã tạo ra được 2.79$ doanh thu
Năm 2008 = 3.36
Năm 2009 = 2.96
So với hai năm trước thì năm 2009 sử dụng tài sản cố định chưa hiệu quả bằng.
Như vậy công ty cần xem xét lại để tìm cách khai thác hiệu quả hơn những gì đang có.
+ Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản = = = 0.71 lần
Tại công ty Toyota đến tháng 3/2009: 1$ tài sản đã tạo ra được 0.71$ doanh
thu.Chỉ số này thấp do hậu quả của khủng hoảng. Công ty chưa hoạt động hết công suất
và cần phải mở rộng hoạt động.
+ Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = = =2.05 lần
Kết quả trên cho thấy hiệu suất sử dụng vốn cổ phần của công ty lớn hơn tổng tài
sản của công ty vì công ty đã sử dụng đòn bẩy tài chính từ việc tài trợ bằng vốn vay.
c) Tỷ số đòn bẩy tài chính (Financial leverage ratio):
Đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng
vốn vay.
20
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
+ Tỷ số nợ trên tài sản= = = 65.38%
Ngành công nghiệp sản xuất ô tô đòi hỏi phải có vốn lớn nên nếu chỉ sử dụng vốn
chủ sở hữu thì không đủ. Do đó vốn vay nợ của Toyota lớn là điều tất yếu.

Tài sản có thể chuyển hóa thành tiền trong vòng một năm chiếm tỷ trọng là:
=38.88%, do đặc điểm của ngành công nghiệp ô tô đòi hỏi đầu tư lớn cho
máy móc, trang thiết bị nhà xưởng nên số tài sản cố định chiếm tỷ trọng cao trong tổng
tài sản.
Để đánh giá về độ rủ ro tài chính mà công ty đang gánh chịu,chúng ta có tỷ số tổng
tài sản trên vốn cổ phần= = =288.85% . Nếu công ty làm ăn không
hiệu quả thì nguy cơ không thanh toán được nợ là rất lớn.
+ Tỷ số nợ trên vốn cổ phần= = =1.88=188%
Như vậy, các nhà cho vay đã tải trợ nhiều hơn vốn cổ phần 88%. Điều này dường
như công ty đã sử dụng một lượng vốn vay đáng kể. Tuy nhiên hầu hết những vốn vay
này là những khoản phải trả ngắn hạn.
d) Tỷ số sinh lợi (Profitability ratios):
Đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như doanh
thu, tổng tài sản, vốn cổ phần.Bao gồm các chỉ tiêu:
+ Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu = = = -2.13%
21
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Công ty thu được 100$ doanh thu thì bị lỗ -2.13$ lãi ròng.Con số này tuy âm
nhưng với doanh thu 208,995 tỷ USD cao hơn 2007 khoảng 6,131 tỷ USD thì hoạt đông
kinh doanh của Toyota vẫn hiệu quả nhất là khi bù được hầu hết các chi phí.
Năm 2009 Toyota có chi phí dành cho các hoạt động bán hàng & quản lý là 25,80
tỷ USD cao nhất trong 3 năm gần đây do phản ứng của công ty trước suy thoái.
Nếu là nhà đầu tư, chúng ta sẽ quan tâm đến 2 chỉ số tài chính quan trọng: ROA (tỷ
suất sinh lợi trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần).
ROA = = - 1.51%

ROE = = = - 4.37%
Như vậy, Toyota hầu như không thu được gì từ đợt khủng hoảng. Lợi nhuận suy
giảm trầm trọng trong năm 2009, so với các năm trước là rất lớn. Nếu quyết định đầu tư,
các nhà đầu tư có lẽ sẽ phải cân nhắc thật kĩ trước tình hình công ty như hiện nay.

Trong tình hình suy thoái chung các con số được công bố ở trên không đem lại một
kết quả tiêu cực, mà cho thấy Toyota vẫn còn rất nhiều năng lực kinh doanh như số nợ dài
hạn so với 2008 và 2007 tăng, lượng tiền mặt và tài sản có tính thanh khoản cao được giữ
ở mức cao hơn các năm trước trên 50%.
Nhìn chung những con số trên đây chỉ cho biết khái quát về tình hình công ty cho
đến những tháng đầu năm 2009. Rõ ràng có những điều lo ngại từ những kết quả do
những gì để lại sau khủng hoảng tài chính, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều điều khả quan
hơn trong giai đoạn tiếp theo. Khó khăn mà công ty gặp phải chỉ là những trở ngại tạm
thời mà thôi.
III. KHÁCH HÀNG VÀ NHÀ CUNG CẤP
1. Phương pháp sản xuất TPS (Toyota Production System)
Có nhận định cho rằng việc coi Toyota là “giàu sáng tạo” là điều “bất thường”. Bởi
xe của nhà sản xuất này chỉ khiến khách hàng “thích” chứ chưa đạt tới độ “yêu”. Thậm
22
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
chí chúng bị chỉ trích là sao chép và ít cá tính. Thế nhưng ở Toyota, sáng tạo lại tập trung
vào quá trình sản xuất hơn là sản phẩm. Họ quan tâm đến sự vận hành của nhà máy hơn là
tìm cách làm đẹp showroom. Vì vậy, rất khó để nhận ra những gì Toyota đã làm được.
Nhưng hiệu quả của chúng có thể là vô song.
Nguyên lý thành công của Toyota bắt nguồn từ phương pháp sản xuất Toyota,
mang tên TPS hay còn gọi là hệ thống sản xuất tinh gọn (Lean manufacturing), được khai
sinh vài năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản
bị kiệt quệ, họ phải đối diện với những điều kiện kinh doanh rất khác biệt so với các công
ty lớn của Mỹ, châu Âu. Do vậy họ phải tìm cho mình hướng đi riêng và Toyota cũng
vậy. Phương thức Toyota bao gồm các nguyên lý nền tảng của văn hóa Toyota, những
nguyên lý này cho phép TPS hoạt động rất hiệu quả, có thể tóm lược các nguyên lý đó
như sau:
+ Nguyên lý 1: Ra các quyết định quản lý dựa trên một triết lý dài hạn, dù phải hy
sinh những mục tiêu tài chính ngắn hạn.
+ Nguyên lý 2: Tạo ra một chuỗi quy trình liên tục làm bộc lộ sai sót.

+ Nguyên lý 3: Sử dụng hệ thống “kéo” để tránh sản xuất quá mức.
+ Nguyên lý 4: Bình chuẩn hóa khối lượng công việc - hãy làm việc như chú rùa,
chứ đừng như chú thỏ.
+ Nguyên lý 5: Xây dựng thói quen biết dừng lại để giải quyết trục trặc, đạt đến
chất lượng tốt ngay từ đầu.
+ Nguyên lý 6: Chuẩn hóa các nghiệp vụ là nền tảng của sự cải tiến liên tục cùng
việc giao quyền cho nhân viên.
+ Nguyên lý 7: quản lý trực quan để không có trục trặc nào bị che khuất.
+ Nguyên lý 8: Chỉ áp dụng các công nghệ tin cậy, đã được kiểm chứng, để phục
vụ cho các quy trình và con người của công ty.
+ Nguyên lý 9: Phát triển những nhà lãnh đạo, người hiểu tháo đáo công việc, sống
cùng triết lý và truyền đạt cho người khác.
+ Nguyên lý 10: Phát triển các cá nhân và tập thể xuất sắc có thể tuân thủ triết lý
công ty.
23
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
+ Nguyên lý 11: Tôn trọng mạng lưới đối tác và các nhà cung cấp bằng cách thách
thức họ và giúp họ cải tiến.
+ Nguyên lý 12: Đích thân đi đến và xem xét hiện trường để hiểu tường tận tình
hình.
+ Nguyên lý 13: Ra quyết định không vội vã thông qua sự đồng thuận và xem xét
kỹ lưỡng mọi khả năng rồi nhanh chóng thực hiện.
+ Nguyên lý 14: Trở thành một tổ chức biết học hỏi bằng việc không ngừng cải
tiến.
24
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH Đề tài: Quản trị tài chính của Tập đoàn Toyota
Lịch sử hình thành hệ phương
pháp sản xuất tinh gọn/Lean
manufacturing
Qua nhiều thập niên, Toyota đã áp dụng

TPS tại nơi sản xuất của mình mà không
ghi thành tài liệu. Cho đến khi nhu cầu về
việc huấn luyện hệ thống TPS cho các đối
tác cung ứng được đặt ra. Đến lúc đó Fuji
Cho, hoc trò của Taiichi Ohno đã xây dựng
một ngôi nhà để biểu diễn hệ thống sản
xuất Toyota.
Hình đồ ngôi nhà TPS đã trở thành một trong những biểu tượng dễ nhận biết nhất trong
giới sản xuất hiện đại, thể hiện sự vững chắc bằng hệ thống có kết cấu chặt chẽ liên kết
với nhau. Bắt kỳ sự khiếm khuyết nào cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng ngôi nhà. Bắt
đầu từ phần nền tảng bằng triết lý kinh doanh dài hạn, quản lý trực quan, chuẩn hóa qui
trình và cân bằng sản xuất. Hai trụ cột vững chắc là Just-in-Time (Vừa đúng lúc – JIT)
nghĩa là sản xuất vừa lúc cần đến, không sản xuất thừa; và Jidoka (Tự kiểm lỗi): không
bao giờ để cho phế phẩm có thể đi qua giai đoạn tiếp theo, giai đoạn sau được coi là
khách hàng của giai đoạn trước và phải được đáp ứng đúng yêu cầu. Phần nội thất và
trung tâm căn nhà là con người và tập thể, cải tiến liên tục và tích cực giảm lãng phí, duy
trì năng suất toàn diện (TPM). Mái nhà là tập hợp các yếu tố Chất lượng, Chi phí, Thời
gian giao hàng, An toàn, Tinh thần lao động.
Trong số những nguyên tắc nêu trên có những nguyên tắc nền tảng trong sản xuất
làm nên thành công của Toyota:
JUST IN TIME: là phương pháp quản lý công đoạn sản xuất thực thi bằng các
bảng truyền đạt thông tin, các phiếu liên lạc giữa các công đoạn. Trong dây chuyền sản
xuất không có chi tiết thiếu hay thừa, toàn xưởng sản xuất không có sản phẩm tồn kho,
cũng như không có nguyên vật liệu tồn kho. Phương pháp này tạo ra một quy trình sản
xuất khép kín cao độ, nhanh, khoa học. Các công ty vệ tinh phải làm việc đúng với quy
25

×