35
kinh tế, các điểm địa hình, thành phần dân tộc, phong tục
tập quán địa phương, điều kiện phương tiện giao thông giữa
các địa điểm mà đoàn sẽ tới nghiên cứu, tình hình an ninh,
đời sống vật chất tinh thân của cư dân ở những khu vực đó.
Những thông tin như vậy rất bổ ích cho các nhóm sưu tầm
biết trước để chủ động kế hoạch, tâm thế, phương pháp
xâm nhập thực tế.
Tình hình nghiên cứu lịch sử địa phương, những tư liệu
đã được sưu tầm, nơi lưu giữ, những người am hiểu lịch sử
địa phương, các nhân mối lịch sử, hoàn cảnh của họ trong
quá khứ và hiện tại, dự đoán những địa chỉ có thể lưu giữ
tài liệu v.v
Nắm được những vấn để đó, nhóm nghiên cứu sẽ có
hướng tìm các đầu mối tài liệu và nhân mối lịch sử.
Dễ cho công việc tiếp sau ở địa phương thuận lợi, đoàn
cần chủ động để xuất những vấn để cần tìm hiểu để báo cáo
viên chuẩn bị và để cập đúng trọng tâm. Nếu có điều kiện,
nên mời các đồng chí cán bộ cơ sở, và một vài nhân mối
chủ chốt cùng gặp gỡ trao đổi trong buổi họp mặt đầu tiên
giữa đoàn và chính quyền địa phương. Họ là lực lượng
quan trọng sở tại giúp đoàn nhiều công việc cần thiết, như
động viên nhân dân giúp đỡ đoàn nhiều mặt, chỉ dẫn đoàn
nghiên cứu nhanh chóng tiếp cận địa điểm và đối tượng sưu
tầm tư liệu. Học sinh cần chú ý lăng nghe, ghi chép khi dự
buổi họp mặt đầu tiên song rất quan trọng này.
b. Tổ chức sưu tầm tài liệu:
36
Tại địa phương, ban chỉ đạo đoàn sẽ phối hợp với chính
quyền địa phương tổ chức chi đạo những nhóm sưu tầm
theo dự kiến xuống các cơ sở để thực hiện nhiệm vụ đã
phân công. Tuỳ theo nội dung nghiên cứu, đặc điểm tình
hình địa phương, điều kiện của đoàn để phân công các
nhóm sưu tầm theo từng mảng vấn để hoặc sưu tầm toàn
diện nội dung ở các khu vực địa lý. Theo kinh nghiệm tổ
chức nghiên cứu ở vùng núi, trung du việc chia nhóm phụ
trách các khu vực địa lý, hành chính (đầu làng, cuối làng,
thôn. xóm, xã v.v ) sẽ thuận lợi hơn.
Các thành viên của nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng phải
nắm vững kế hoạch của nhóm và toàn đoàn, liên hệ chặt
chẽ với ban chỉ đạo để kịp thời báo cáo tinh hình hoạt động
của nhóm. Đối với những đợt công tác dài ngày (2-4 tuần)
thường phải định rõ thời gian cụ thể (4-5 ngày), các nhóm
trưởng phải báo cáo công việc của nhóm trước ban chỉ đạo
để bộ phận biên soạn kịp thời tập hợp tư liệu, xử lý và hình
thành để cương biên soạn hoặc chuẩn bị nội dung cho hội
nghị toạ đàm đồng thời cũng nhận nhiệm vụ cần tiếp tục
thực hiện ở thời gian sau đó. Để tiện cho việc theo dõi khối
lượng và chất lượng tư liệu sưu tầm, các nhóm trưởng phải
có kế hoạch tập hợp hệ thống tư liệu của nhóm, nghiên cứu
kỹ trước khi báo cáo với ban chỉ đạo. Công việc này đòi hỏi
nhóm trưởng phải tích cực, chủ động, khẩn trương và tinh
thần trách nhiệm cao.
Kết quả nghiên cứu của đoàn phụ thuộc trước hết vào
hiệu quả hoạt động của các nhóm, vì thế phải xác định công
37
việc của các nhóm hết sức mệt nhọc và phức tạp. Muốn
hoạt động của nhóm có kết quả, trưởng ban và các thành
viên cần chú ý mấy điểm sau đây:
- Liên hệ chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các tổ
chức quần chúng ở địa phương và các trường học nếu có
thể. Chính các cơ quan, tổ chức đó (bảo tàng địa phương,
khu di tích, và văn hoá, phòng truyền thống ) vừa là nơi
lưu giữ tài liệu, vừa có những cán bộ am hiểu về tình hình
địa phương, họ có thể gợi ý hoặc hướng dẫn cho công tác
nghiên cứu của nhóm gặp nhiều thuận lợi. Nhóm có thể
thông qua các em học sinh như những "hoa tiêu" dẫn
đường, cầu nối ngắn nhất giữa các địa bàn và các nhân mối
lịch sử ở các cơ sở.
- Có thể tham gia lao động sản xuất cùng đồng bào địa
phương, các hoạt động của các tổ chức quần chúng (đoàn
thanh niên, hội phụ nữ) như các buổi phát thanh tuyên
truyền, hội diễn văn nghệ, kỷ niệm ngày lễ, tham gia lễ hội
v.v để hoà mình, thông cảm và hiểu rõ thực tế địa
phương, từ đó có điều kiện để gợi hỏi tư liệu
- Để tiết kiệm thời gian và giúp các nhân mối có điều
kiên suy nghĩ, tái hiện, nhóm nên chủ động nêu trước
những câu hỏi ghi trên giấy để họ nghiên cứu trả lời. Sau
đó ta tập hợp xem xét, nếu vấn để gì chưa rõ sẽ tiếp tục hỏi
thêm để xác minh.
c. Chuẩn bị đề cương và viết sơ thảo.
Khi đã có một khối lượng tài liệu cần thiết, ban biên tập
38
phải nhanh chóng chuẩn bị để cương biên soạn, thông qua
cấp lãnh đạo ở địa phương, sử lý tư liệu để biên tập bản
thảo. để cương biên soạn khác với để cương sưu tầm (do
ban chỉ đạo soạn để giúp học sinh khai thác tư liệu) ở chỗ,
nó chi tiết cụ thể, được cấu tạo thành chương mục, là "bộ
xương" của một cuốn sử. để cương biên soạn se được bổ
sung nhiều vấn để và cung có thể lược bỏ thậm chí không
có những nội dung đã nêu trong để cương sưu tầm. Có hiện
tượng đó là do kết quả sưu tầm tư liệu ở địa phương. Cách
xây dựng để cương biên soạn (trình bày sau) ở đây chỉ xin
lưu ý đôi điều về bản sơ thảo ở địa phương.
Trên cơ sở các nội dung thu được do các thành viên của
nhóm thực hiện, người phụ trách (chủ biên) sửa lại và chấp
bút thành một công trình hoàn chỉnh.
- Bản sơ thảo được biên soạn xong cần trao đổi trong
nhóm trước khi báo cáo các cấp lãnh đạo, quản lý chuyên
môn ở địa phương và trưng cầu ý kiến của những người am
hiểu về lịch sử. Nếu có hội nghị toạ đàm tổng kết cần thông
qua trước tập thể bản sơ thảo này.
Sau khi tiếp thu nhưng ý kiến đóng góp, ban biên tập sẽ
sửa chữa bổ sung hoàn chỉnh bản thảo, sau đó trình các cơ
quan có trách nhiệm duyệt. Bản thảo như vậy có thể sử
dụng vào việc tuyên truyền giáo dục quần chúng ở địa
phương hoặc sử dụng trong việc dạy - học lịch sử địa
phương ở nhà trường. Tất nhiên bản thảo vẫn cần phải
được tiếp tục bổ sung và có thể để xuất một số yêu cầu qua
việc khảo cứu ở địa phương. Chằng hạn kiến nghị các cơ
39
quan chuyên môn có thẩm quyên trùng tu, bảo vệ hay xếp
hạng di tích lịch sử v.v
II. SƯU TẦM VÀ XỬ LÝ TƯ LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG
Ở VIỆT BẮC
1. Vị trí, ý nghĩa của việc sưu tầm tư liệu:
Công việc đầu tiên của nghiên cứu lịch sử địa phương
là sưu tầm tư liệu. Mặc dù đây là công việc bước đầu song
lại có ý nghĩa quyết định đến kết quả của cả quá trình
nghiên cứu. Tất cả mọi công trình nghiên cứu lịch sử nói
chung, lịch sử địa phương nói riêng, trước hết phải dựa vào
khối lượng và chất lượng của các loại tài liệu đã được sưu
tầm. Một công trình nghiên cứu lịch sử muốn đảm bảo tính
chính xác khách quan, khoa học và giá trị tư tưởng phải
dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau Khác với các khoa
học tự nhiên, khoa học lịch sử nghiên cứu tất cả những gì
đã xảy ra trong đời sống con người, kể từ khi con người
mới xuất hiện. Có những sự kiện, hiện tượng hầu như
không để lại dấu vết mà văn phải tìm cách khắc phục một
cách chính xác như chính nó đã từng tồn tại. Không thể làm
được việc đó nếu không có căn cứ xác đáng từ nhiều nguồn
tài liệu. Mặc dù không thể dùng tài liệu để tái tạo quá khứ
lịch sử theo phương pháp "thí nghiệm song có thể dựa vào
các phương pháp bộ môn mà chủ yếu là phương pháp lịch
sử và logic. để dựng lại "bức tranh lịch sử" một cách sống
40
động. Tư liệu lịch sử phản ánh màu sắc, nội dung thậm chí
tiếng nói của bức tranh hiện thực quá khứ. Tư liệu lịch sử là
những căn cứ để thực hiện việc so sánh, đối chiếu, phân
tích, khái quát tổng hợp tạo nên nội dung lịch sử, là cơ sở
để tạo những biểu tượng, hình thành những khái niệm trong
nhận thức lịch sử.
Tư liệu lịch sử của địa phương chẳng những là những
tư liệu khoa học để hiểu rõ sự phát triển của lịch sử ở các
địa phương, mà còn là những căn cứ cụ thể chi tiết để xem
xét đánh giá một cách toàn diện những sự kiện, hiện tượng,
biến cố trong lịch sử dân tộc, tránh được những quan niệm
phiến diện, chủ quan trong nghiên cứu lịch sử. Các tác giả
kinh điển của chủ nghĩa Mác lênin luôn nêu ra những mẫu
mực về sử dụng tổng hợp các nguồn tài liệu để nghiên cứu
một vấn để cụ thể của khoa học: "Muốn trở thành cơ sở
thực sự, cần phải xét không chút ngoại lệ toàn bộ các sự
kiện có liên quan tới vấn để nghiên cứu, chứ không phải lấy
những sự kiện cá biệt. Nếu không người ta sẽ hoài nghi có
lý rằng, những sự kiện ấy được sưu tầm một cách tuỳ tiện,
thay mối quan hệ khách quan bằng chủ nghĩa nghĩa chủ
quan
( )1
. Dựa vào nguyên tắc đó, Lênin đã sử dụng tới 500
tài liệu khác nhau từ nhiều nguồn (kể cả tài liệu của đối
phương, đặc biệt là các tài liệu ở địa phương mà Người đã
thu thập được trong thời gian bị lưu đày) để hoàn thành tác
phẩm nổi tiếng của mình: "Sự phát triển của chủ nghĩa tư
(1) Lênin. Toàn tập. Tập XXIII: NXB Tiến bộ. Mátxcơva
1973: tr.267, bản tiếng Việt.
41
bản ở Nga". Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sử dụng những tài
liệu cụ thể từ nhiều nguồn ở các địa phương của các nước
thuộc địa để trình bày một cách khái quát đầy tính thuyết
phục khoa học và ý nghĩa giáo dục ở tác phẩm: "Bản án chế
độ thực dân Pháp"
( )1
.
Như vậy, công tác sưu tầm tư liệu giữ vị trí hết sức
quan trọng trong nghiên cứu lịch sử của địa phương. Tuy
nhiên đây là công việc phức tạp đòi hỏi phải tiến hành thận
trọng, tỷ mỉ, lâu dài không được phép thoả mãn. Chỉ như
vậy, tư liệu lịch sử mới được bổ sung, hoàn thiện phục vụ
tốt cho việc biên soạn và dạy học lịch sử địa phương ở nhà
trường.
2) Các nguồn tài liệu trong nghiên cứu lịch sử của
địa phương:
Trong nghiên cứu lịch sử của địa phương, người ta
thường dựa vào những nguồn tài liệu (sử liệu) chủ yếu sau
đây:
- Tài liệu thành văn (Sử liệu viết)
- Tài liệu hiện vật.
- Tài liệu truyền miệng.
- Tài liệu dân tộc học.
- Tài liệu ngôn ngữ học.
(2) Xem Phan Ngọc Liên: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công
tác sử học. Nxb Giáo dục. Ha Nội, 1985.
42
Một số nhà nghiên cứu của Liên Xô trước đây cũng nêu
ra những nguồn sử liệu cơ bản đó song theo cách sắp xếp
thứ tự khác. Chẳng hạn, Tikhôminốp đã giới thiệu như sau:
a. Tài liệu hiện vật (chủ yếu là di vật khảo cổ)
b. Tài liệu về dân tộc học.
c. Tài liệu về ngôn ngữ (trong đó địa danh lịch sử có vị
trí quan trọng).
d. Tài liệu truyền miệng (bao gồm văn học dân gian,
các câu chuyện lịch sử).
đ. Tài liệu thành văn (các bán viết tay, in, khắc, gồm:
biên niên sử, văn bia, hồi kí, luật pháp, văn kiện, báo
cáo)
( )1
. Vấn đề phân loại tài liệu thuộc phạm vi của "Sử liệu
học" vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ giới thiệu các nguồn tài
liệu chủ yếu (đã nêu trên) cần khai thác, sưu tầm trong
nghiên cứu lịch sử của địa phương.
a. Tài liệu thành văn (sử liệu viết):
Đây là nguồn tài liệu hết sức phong phú đa dạng và giữ
vị trí quan trọng hàng đầu trong các nguồn tư liệu lịch sử
địa phương. Nguồn tài liệu này giúp chúng ta nghiên cứu
hoàn cảnh lịch sử cụ thể phản ánh những nội dung lịch sử
khá toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, tư tưởng tôn giáo, quân sự v.v ở các địa phương. Để
(3) Xem: Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan
Quang: Công tác ngoại khóa môn sử ở TPT cấp II. III NXBGD,
Hà Nội 1968.
43
tiện theo dõi tính đa dạng của nguồn sử liệu này, chúng ta
phân biệt một số tài liệu ở hai thời kỳ trước và sau cách
mạng tháng Tám.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, nguồn sử liệu viết
có những loại sau:
- Địa phương chí: để cập tới nhiều vấn để ở địa phương
cụ thể như đặc điểm địa lý, sự kiện, hiện tượng lịch sử,
phong tục tập quán truyền thống (đời sống tinh thần) và
hoàn cảnh kinh tế của nhân dân địa phương. Những nội
dung đó có thể được trình bày trong một xã hoặc một thôn.
Loại tài liệu này để cập tới nhưng vấn để cụ thể ở địa
phương mà chính sử chưa hoặc chỉ để cập tới một cách sơ
lược.
- Các bài văn bia, các bài minh trên chuông, khánh: Các
bia, chuông, khánh là những tài liệu hiện vật, giúp cho
người nghiên cứu tìm hiểu hình dáng, kích thước, chất liệu
xây dựng chế tác, đường nét kiến trúc, cấu tạo bài trí hoa
văn, phong cách nghệ thuật, giá trị văn hoá v.v Nội dung
được phản ánh qua chữ viết, khắc đúc trên đó được coi là
tài liệu, thành văn. Loại tài liệu này rất quý vì nó phản ánh
chân thực lịch sử ở địa phương, nhiều khi có giá trị đối với
lịch sử dân tộc. Nhận dân ta trước đây có thói quen ghi, tạc
trên bia những sự kiện đáng nhớ có thể liên quan tới gia
đình, dòng họ, hoặc một nhân vật lịch sử để cho con cháu
đời sau được biết, tôn thờ, ghi nhớ. Vì vậy có 2 loại bia
khác nhau: bia "hậu" và bia "sự kiện".
44
Bài minh chuông hiện nay rất ít, chỉ có ở một số chùa
lớn. Nội dung các bài minh thường để cập tới hoạt động
văn hoá, tín ngưỡng hoặc các địa danh, và một số vấn để về
kinh tế xã hội ở địa phương.
- Gia phả, thần phả.
Gia phả là tài liệu ghi chép về gốc tích, các nhánh, chi
của dòng họ qua các thế hệ, nó được coi như là cuốn tiểu sử
của dòng họ. Nội dung của gia phả các dòng họ khác nhau,
có những gia phả chỉ ghi lại gốc tích họ mạc, vị trí mồ mả,
ngày giờ chập v.v nhưng có những gia phả ghi khá chi
tiết về đặc điểm của dòng họ ở mỗi thế hệ. Chẳng hạn ghi
lại những nhân vật thi cử đỗ đạt, làm quan, tạo nên vinh
hiển, niềm tự hào cho dòng họ, mang tính răn dạy nêu
gương cho hậu thế, ghi lại hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã
hội ảnh hưởng tới việc an cư hay di cư, về nề nếp, truyền
thống của dòng họ với phong tục tập quán địa phương v.v
Dựa vào gia phả ta có thể hiểu thêm hoàn cảnh lịch sử, đặc
điểm cư dân, thành phần dân tộc, đời sông vật chất văn hoá
tinh thần v.v của dòng họ, hoặc các dòng họ ở địa
phương.
Thần phả thường ghi lại sự tích các vị thần mà nhân
dân địa phương tôn thờ, cũng có khi là những nhân vật có
thật trong lịch sử. Tuy nhiên thần phả mang nhiều yếu tố
mê tín, dị đoan, vì vậy đối với loại tài liệu này phải xử lý
thận trọng.
- Các cuốn sổ tay, nhật ký, hồi ký, truyền đơn Những
45
cuốn sổ tay, nhật ký thường được gia đình, bè bạn hoặc bản
thân những người tham gia hoạt động trước đây (hiện còn
sống) cất giữ. Loại tài liệu này sẽ giúp chúng ta nắm được
sự kiện trong những hoàn cảnh cụ thề cả về thời gian và vị
trí không gian.
Quan trọng hơn là những cuốn hồi ký của những người
đã có quá trình hoạt động, công tác lâu năm, hồi tưởng lại
quá khứ lịch sử Những người thật, việc thật ở nhiều địa
phương khác nhau, ở những mảng công việc khác nhau,
giúp ta nghiên cứu khá toàn diện về những giai đoạn lịch sử
ở các địa phương. Tuy nhiên khi sử dụng loại tài liệu này
cung cần phải có kiểm tra xử lý loại bỏ những suy nghĩ,
phản ánh mang tính chất chủ quan, cá nhân, hoặc sự nhầm
lẫn khi tái hiện lại quá khứ.
Một số truyền đơn, báo chí thuộc các thời kỳ trước đây
(có thể in thạch, rônêô hoặc viết tay) phản ánh những chủ
trương, đường lối của Đảng hoặc cấp bộ Đảng ở địa
phương, để cập tới các cuộc đấu tranh, mít tinh, biểu tình,
bãi thị, bãi khoá v.v cũng được lưu ý trong quá trình sưu
tầm tư liệu.
Những loại tài liệu nói trên thường hay được lưu giữ
trong các kho lưu trữ của Tỉnh uỷ, ủy ban các cấp, Ban
tuyên giáo, Phòng văn hoá thông tin hoặc là các Bảo tàng,
Nhà truyền thống ở địa phương.
Ngoài nhưng loại tài liệu nói trên, chúng ta còn có thể
khai thác những loại đinh bạ để tìm hiểu nhân lực lao động
46
ở địa phương, địa bạ để tìm hiểu tinh hình ruộng đất, các
loại văn bản của chính quyền, Đảng bộ địa phương. Trong
chừng mực chúng ta còn có thể khai thác được những nội
dung lịch sử từ các bài văn thơ, xướng tạo của các nhà nho,
các hài văn tế, sắc phong, các văn bản tự vay nợ, khế ước
mua bán ruộng đất v.v Những loại tài liệu này còn lại một
còn lại rất ít trong một số gia đình có chức sắc ở địa
phương, hoặc có người học hành đỗ đạt, đi du học.
Nguồn tài liệu thành văn sau Cách mạng tháng Tám
phong phú và đa dạng hơn nhiều thời kỳ trước. Có những
loại tài liệu phản ánh toàn diện mọi mặt kinh tế, chính trị,
xã hội v.v của địa phương. Có những loại đi sâu phản ánh
một mặt, một khía cạnh nào đó dưới dạng các chuyên khảo,
chẳng hạn nghiên cứu về một trận đánh, một cuộc khởi
nghĩa, một sự kiện, một hiện tượng lịch sử, một nhân vật
lịch sử v.v Đặc biệt là những công trình nghiên cứu Lịch
sử địa phương dù chưa đầy đủ và toàn diện, song là những
cơ sở quý báu, những gợi ý quan trọng để giáo viên có
hướng sưu tầm thêm tài liệu ở nhiều nguồn khác nhau và
biên soạn các bài giảng.
Thời gian gần đây nhiều địa phương rất chú ý công việc
động viên khuyến khích những cán bộ cách mạng lão thành
viết và công bố những tập hồi ký, động viên nhân dân khai
thác những hiện vật, tài liệu lịch sử ở các địa phương, củng
cố công tác bảo quản lưu trữ tư liệu, đặc biệt là những tư
liệu gốc. (Văn bản, biên bản cuộc họp, nghị quyết hội nghị,
đại hội v.v ). Tất nhiên sau khi sưu tầm tài liệu từ những
47
cuốn hồi ký, các bản báo cáo tổng kết, phương hướng công
tác v.v cần thận trọng hơn bởi vì có những số liệu báo cáo
nhiều khi chưa sát với thực tế.
Các loại giấy khen, bằng khen, huân, huy chương, giấy
chứng nhận phong tặng, truy tặng v.v cũng phân nào
phản ánh được công lao, thành tích, bước phát triển của
đơn vị, cá nhân mỗi địa phương.
Như vậy, nguồn tài liệu thành văn rất phong phú, đa
dạng về thể loại, song cũng chính vì thế mà việc sưu tầm
không kém phần phức tạp, nó cần được kết hợp chặt chẽ
với nhiều nguồn tài liệu khác để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.
b. Tài liệu hiện vật (sử liệu vật chất)
Tài liệu hiện vật bao gồm những di vật khảo cổ, các
công trình kiến trúc, nghệ thuật (đình, chùa, miếu, tượng
v.v ) những di tích, hiện vật lịch sử (công cụ lao động, vu
khí đấu tranh ). Có những di tích tự nhiên liên quan tới sự
kiện lịch sử (cây đa Tân Trào, cây đa Hồng Thái, hang Pác
bó), có những công trình kiến trúc liên quan tới sự kiện
(đình Tân Trào )
Cần lưu ý những hiện vật khảo cổ bởi vì bản thân nó là
những bằng chứng khách quan chân thực của lịch sử. Tài
liệu hiện vật là nhưng cứ liệu cụ thể để chúng ta hình dung
điều kiện, tình trạng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần
của con ngời ở các thời kì lịch sử. Đây cũng là những cơ sở
giúp cho người nghiên cứu đối chiếu kết hợp với các loại
tài liệu khác trong việc sưu tâm và xử lí tư liệu.
48
Những tài liệu hiện vật có thể được sưu tầm lưu giữ
trong các nhà truyền thống, bảo tàng, kho lưu trữ, khu di
tích, hoặc được nhân dân bảo quản, và cũng còn nhiều tài
liệu chưa được thu thập. Trung nghiên cứu lịch sử địa
phương cần xác định những địa điềm có khả năng ẩn chứa
tài liệu này để có biện pháp, kế hoạch khai quật, sưu tầm.
c. Tài liệu truyền miệng.
Tài liệu truyền miệng bao gồm những câu chuyện lịch sử,
truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, những điệu dân ca, hò, vè,
truyện kê của các cụ già, những người từng tham gia hoạt
động cách mạng v.v Văn nghệ dân gian có giá trị lớn trong
nghiên cứu lịch sử vì nó gắn liền với cuộc sống của con
người, nó phản ảnh hoàn cảnh lịch sử mỗi thời kì, nó miêu tả
cuộc sống lao động dựng xây, cuộc đấu tranh giai cấp trong
xã hội, nó phản ánh tập tục, thói quen, tình cảm, ước vọng,
thế giới quan của con người đương thời. Chính vì vậy, A.M
Goócki đã viết: "Không thể hiển được Lịch sử thực sự của
nhân dân lao động nếu không biết văn nghệ dân gian. Từ thời
thượng cổ văn học dân gian luôn theo sát lịch sử"
( )1
.
Về ý nghĩa của loại tài liệu này, cố Viện sĩ Nguyễn
Khánh Toàn đã viết: "Văn nghệ dân gian có tác dụng cực
kỳ quan trọng trong việc bổ sung, đính chính, sàng lọc
những kiến thức của chúng ta về lịch sử dân tộc
(2)
. Tài liệu
đó giúp chúng ta có thể dần khôi phục lại bộ mặt chân thật
(1). Xem Phạm Văn Đồng: Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương.
Báo Nhân dân số 5494 - ngày 29/4/1969.
49
của cả một thời kì lịch sử mà chúng ta chưa biết hoặc
không dám nhắc đến nó vì cho nó là hoang đường, truyền
thuyết"
(3)
.
Như vậy tài liệu truyền miệng thực chất là nền văn học
dân gian, tuy vậy cần lưu ý phân biệt không phải bất cứ tài
liệu truyền miệng nào cũng đều là văn nghệ dân gian.
Trong khi sưu tâm tài liệu dân gian cần lưu ý loại bỏ yếu tố
hoang đường, màu sắc thần linh huyền bí để "bóc lõi" tài
liệu giữ lại giá trị chân thực của lịch sử.
1
d. Tài liệu dân tộc học.
Tài liệu dân tộc học nghiên cứu đời sống sinh hoạt, phong
tục tập quán các dân tộc, miêu tả cuộc sống vật chất tinh thần
của cư dân các địa phương. Khai thác tài liệu dân tộc học kết
hợp với các nguồn tài liệu khác, chúng ta có thể hiểu sâu sắc,
tường tận những hiện tượng lịch sử ở các vùng miền. Nghiên
cứu lịch sử địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi, cần triệt
để khai thác tài liệu này. Có những hiện tượng lịch sử địa
phương gắn chặt với phong tục, tập quán của dân tộc, nếu biết
khai thác, chúng ta sẽ khắc phục được những khoảng trống và
dấu ấn mờ nhạt của nguồn tài liệu ít ỏi. Tài liệu dân tộc học là
cơ sở đáng tin cậy để chúng ta tái tạo quá khứ lịch sử theo
phương pháp mô hình hoá. Hiểu về tập tục địa phương còn
tạo cho chúng ta nhưng điều kiện thuận lợi để thâm nhập thực
(1), (2) Nguyễn Khánh Toàn: Phải triệt để khai thác vốn văn
nghệ dân gian giàu có của dân tộc Tạp chí Văn học số 1.1967.
tr.35.36
50
tế, làm tốt công tác dân vận phục vụ việc khai thác tài liệu địa
phương.
F.Ăngghen đã thực hiện phương pháp mô hình hoá (hồi
cổ) một cách mẫu mực khi ông dựng lại quá khứ lịch sử
không phải trên cơ sở tài liệu mà là những di sản của tài
liệu dân tộc học. Dựa vào kết quả nghiên cứu của L. Moóc
gan về cách tổ chức xã hội của thị tộc da đỏ I-rô-qua,
Ăngghen đã miêu tả các hình thức hôn nhân và gia đình
nguyên thuỷ trong tác phẩm nổi tiếng: "Nguồn gốc của gia
đình, chế độ tư hữu và nhà nước"
(3)
.
1
d. Tài liệu ngôn ngữ học.
Tài liệu ngôn ngữ học có liên quan tới việc nghiên cứu
lịch sử địa phương thường gặp ở 2 loại chủ yếu sau:
Địa danh học: Địa danh là tên gọi của ít vùng đất nhất
định, như Nađêđin đã nói: “Địa danh là ngôn ngữ của quả
đất, mà quả đài là quyển sách ghi lại lịch sử loài người
bằng các tên gọi địa lí”
(4)
.
Địa danh giúp chúng ta giải quyết các vấn để về nguồn
gốc sự phát triển của xóm làng, nghề nghiệp của nhân dân.
Có địa danh liên quan tới một di tích lịch sử, một địa điểm
(3) Xem: N.N.Maxlốp: Phương pháp Mácxit-lêninnit nghiên
cứu lịch sử Đảng.NXB sách giáo khoa Mác - Lê nin Hà Nội
1984 tr114.
(4) Xem Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị) Nguyễn Phan
Quang: Công tác ngoại khoá sách đã dẫn tr59.
51
khảo cổ (Tân Trào, ải Chi Lăng, Bác Sơn ) có địa danh
liên quan tới đặc điểm địa lý (Nậm cắt) và cũng có địa danh
liên quan tới nghề nghiệp sản xuất của nhân dân trước đây.
Phương ngôn là tiếng nói của cư dân địa phương trong
tiếng nói chung của dân tộc song có những sắc thái riêng do
lịch sử tạo nên, chẳng hạn: Cũng là tiếng Việt song sắc thái
của ngôn ngữ biểu đạt qua giọng nói ở Hà Nội khác với
Nghệ An, Huế, thành phố Hô Chí Minh, hoặc âm tiết của
ngôn ngữ cũng khác nhau rất đặc trưng ở ngay cả các xã,
thôn, làng trong một khu vực.
Dựa vào phương ngôn người ta có thể hiện được thành
phần của cư dân địa phương, nguồn gốc của những nhóm
người từ nơi khác tới địa phương, những ảnh hưởng qua lại
của từng nhóm cư dân trong thột cộng đồng nhất định.
Phương ngôn còn cho ta biết sự gần gũi về nguồn gốc của
một số dân tộc ở khu vực miền núi, những sắc thái chung,
riêng trong thói quen, phong tục của các dân tộc ở địa bàn
cư trú.
3. Phương pháp sưu tầm tư liệu.
Công việc trước tiên của sưu tầm tư liệu là nghiên cứu
kỹ để cương sưu tầm để xác định vị trí không gian và thời
gian liên quan tới chủ để nghiên cứu. Nếu để tài nghiên
cứu, biên soạn thông sử, lịch sử Đảng bộ địa phương thì
không gian nghiên cứu được giới hạn trong khung giới của
các đơn vị hành chính (huyện, xã, thành phố, quận). Cũng
cần lưu ý sự thay đổi ranh giới các đơn vị hành chính do sự