Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tổ chức dạy học hội thoại cho học sinh lớp 2 theo hướng phân tích và hướng thực hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.74 KB, 77 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hội thoại có vai trò quan trọng trong đời sống. Nó là hoạt động thường
xuyên và phổ biến của loài người khi sử dụng ngôn ngữ. Nếu thống kê, hội
thoại chiếm khoảng 70 – 80% thời gian con người sử dụng ngôn ngữ trong
một ngày. Không có hoạt động ngôn ngữ, mọi sự giao lưu sẽ đình trệ. Vì thế
hội thoại cũng là hình thức chủ yếu của hoạt động giao tiếp.
Có thể khẳng định rằng chúng ta không thể sống nếu như thiếu hội
thoại vì đây là nhu cầu tất yếu, giúp chúng ta trao đổi tâm tư, tình cảm, những
nhu cầu, hiểu biết của bản thân từ đó nâng cao mối quan hệ với mọi người
trong cộng đồng và thêm cái nhìn rộng mở ra thế giới bên ngoài để trưởng
thành hơn và sống tốt hơn. Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ càng
hiện đại thì nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin càng trở nên cấp bách và cần
thiết. Hội thoại là chìa khóa để chúng ta mở ra cánh cửa văn minh tiếp cận tri
thức của loài người.
Hội thoại có vai trò quan trọng như thế, vậy mà có thời gian, người ta
không quan tâm đến việc dạy hội thoại cho học sinh. Người ta nghĩ rằng, trẻ
dùng được tiếng mẹ đẻ đương nhiên đã biết nói và nghe, đã biết hội thoại.
Trong nhà trường tuy hội thoại cũng là nội dung được dạy nhưng lại bị bỏ
quên. Nội dung dạy hội thoại chưa được chú ý đúng mức, chưa nhận được
nhiều sự quan tâm từ các nhà giáo dục.
Ở Việt Nam, việc đưa hội thoại chính thức dạy trong nhà trường chậm
hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chỉ từ cuối thế kỉ XX và
những năm đầu thế kỉ XXI, hội thoại mới được đưa vào chương trình môn
Tiếng Việt, được dạy thử nghiệm rồi dạy chính thức ở các cấp học. Hiểu biết
của giáo viên về hội thoại sơ lược, kinh nghiệm dạy hội thoại của giáo viên
1
còn ít ỏi, nhiều giáo viên đang gặp khó khăn khi dạy vấn đề này. Vì thế tôi
nhận thấy tầm quan trọng của việc dạy hội thoại trong trường học và tính cần
thiết phải đưa hội thoại trở thành một nội dung giảng dạy cơ bản.
Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, việc dạy hội


thoại giữ một vai trò quan trọng. Vì các em thuộc giai đoạn đầu bậc học, vừa
chuyển từ chơi sang học, khả năng nhận thức còn hạn chế, tư duy cụ thể vẫn
chiếm ưu thế nên cần phải uốn nắn và tạo được nền tảng vững chắc phục vụ
cho việc học ở những lớp cao hơn. Hội thoại sẽ giúp các em hình thành năng
lực giao tiếp, những kĩ năng cơ bản khi thiết lập mối quan hệ với mọi người
xung quanh. Tuy nhiên để dạy hội thoại thành công thì cần nhiều yếu tố, trước
tiên phải có phương pháp, cách tổ chức dạy học phù hợp. Hiện nay hai cách tổ
chức dạy hội thoại thường dùng là dạy theo hướng phân tích và dạy theo
hướng thực hành. Vậy bản chất của hai cách dạy này là như thế nào, nó có
những ưu điểm và hạn chế gì? Cách áp dụng nó trong một bài giảng tiến hành
ra sao? Nhằm trả lời những câu hỏi đó tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tổ
chức dạy học hội thoại cho học sinh lớp 2 theo hướng phân tích và hướng
thực hành”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu hội thoại
Trên thế giới hội thoại đã được nhắc đến từ lâu và là vấn đề đã được
nghiên cứu trong suốt một thời gian dài.
Đầu tiên, hội thoại được Xã hội học, Xã hội ngôn ngữ học, Dân tộc
ngôn ngữ học Mĩ nghiên cứu. Từ 1970 nó là đối tượng chính thức của một
phân ngành ngôn ngữ học Mĩ, phân ngành phân tích hội thoại (conversation
analysis). Sau đó phân tích hội thoại được tiếp nhận ở Anh với tên gọi phân
tích diễn ngôn (discourse analysis), ở Pháp (khoảng 1980) và ở các nước
2
thuộc cựu lục địa. Cho đến nay thì ngôn ngữ học của hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều bàn đến hội thoại.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu và tìm hiểu về hội thoại chưa
nhiều.
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, Nxb
Giáo dục, 2008) có đề cập đến những vấn đề cơ bản về lý thuyết hội thoại.
Tác giả chú trọng và đi sâu vào phân tích những yếu tố cấu thành cuộc thoại,

các phương châm hội thoại… để có cái nhìn khái quát nhất về hội thoại. Tuy
nhiên tác giả chưa đề cập đến việc dạy hội thoại trong nhà trường, chưa nói về
cách tổ chức và hướng dạy hội thoại hiện nay.
2.2. Lịch sử nghiên cứu dạy hội thoại cho học sinh Tiểu học
Ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới việc nghiên cứu và dạy hội
thoại cho học sinh Tiểu học diễn ra từ khá lâu và được duy trì và phát triển
triển đến tận ngày nay.
Ở Việt Nam, việc đưa hội thoại chính thức dạy trong nhà trường chậm
hơn. Chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học ban hành năm 2001 mới đưa việc
học hội thoại thành một nội dung quan trọng. Chương trình ban hành năm
2006 tiếp tục khẳng định phương hướng trên. Sách Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI
đã có nhiều loại bài tập và bài học dạy hội thoại. Đó là bước tiến mới trong
lịch sử dạy tiếng Việt.
Tác giả Nguyễn Trí trong cuốn Một số vấn đề dạy học Tiếng Việt theo
quan điểm giao tiếp ở Tiểu học (Nxb Giáo dục, 2009) và cuốn Một số vấn đề
dạy hội thoại cho học sinh Tiểu học (Nxb Giáo dục, 2008) có đề cập vấn đề
dạy hội thoại cho học sinh Tiểu học. Trong hai cuốn sách này, tác giả đã chỉ ra
được nội dung và phương pháp dạy hội thoại ở Tiểu học đồng thời nêu ra các
kiểu bài tập dạy hội thoại ở các lớp 1, 2, 3, 4, 5 và quy trình chung cho một
bài dạy hội thoại.
3
Đề cập đến vấn đề tổ chức dạy học hội thoại, tác giả Nguyễn Trí có đề
cập đến hai hướng là hướng phân tích và hướng thực hành. Tuy nhiên tác giả
chỉ dừng lại ở việc đưa ra lý thuyết và một số ví dụ minh họa tiêu biểu chứ
không đi vào nghiên cứu sâu ở bất kì lớp nào.
Như vậy, hội thoại là một vấn đề đã được thế giới nghiên cứu trong thời
gian dài. Vấn đề dạy học hội thoại cho học sinh Tiểu học cũng được đề cập
đến, tuy nhiên dạy hội thoại cho học sinh lớp 2 theo hướng phân tích và
hướng thực hành là nội dung chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Đây là
cơ sở để chúng tôi đi sâu tìm hiểu và phát triển.

3. Mục đích nghiên cứu
- Nắm vững việc tổ chức dạy học hội thoại cho học sinh lớp 2 theo
hướng phân tích và hướng thực hành.
- Vận dụng hai hướng phân tích và thực hành vào trong tổ chức dạy học
hội thoại lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng dạy học hội thoại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Vận dụng hướng phân tích và hướng thực hành vào tổ
chức dạy học hội thoại cho học sinh lớp 2.
- Phạm vi: Trong khuôn khổ, giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ xin
nghiên cứu sự vận dụng trong giảng dạy một số nội dung hội thoại ở lớp 2.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài.
- Vận dụng hai hướng phân tích và thực hành trong tổ chức dạy học hội
thoại cho học sinh lớp 2.
- Thiết kế một số giáo án thể nghiệm hai hướng phân tích và thực hành.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chung: quy nạp, diễn dịch
- Phương pháp cụ thể:
4
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận
+ Phương pháp phân tích ngôn ngữ
+ Phương pháp so sánh – tổng hợp
+ Phương pháp hệ thống
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Dạy học hội thoại cho học sinh lớp 2 theo hướng phân tích
và hướng thực hành
Chương 3: Thể nghiệm dạy học hội thoại lớp 2 theo hướng phân tích
và hướng thực hành


5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Các vấn đề lí thuyết về hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Khái niệm hội thoại đã được nhiều tác giả đề cập đến. Sau đây chúng
tôi xin đưa ra một số định nghĩa:
- Theo tác giả Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán trong cuốn “Đại cương
ngôn ngữ học”, tập một (Nxb Giáo dục – Hà nội, 1995 – tr.122) thì “Hội
thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp
nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đề ra”.
- Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học”, tập hai
(Nxb Giáo dục, 2003) cũng đưa ra khái niệm“Hội thoại là hình thức giao tiếp
thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác”.
- Tác giả Nguyễn Trí trong cuốn “Một số vấn đề dạy hội thoại cho học
sinh tiểu học” (Nxb Giáo dục, 2008) đề cập đến hội thoại và cho rằng“Hội
thoại là cuộc giao tiếp bằng lời (ở dạng nói hay dạng viết) tối thiểu giữa hai
nhân vật về một vấn đề nhằm đạt đích đã đặt ra”.
1.1.2. Bản chất của hội thoại
Hội thoại vừa là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn ngữ vừa là một
hiện tượng xã hội. Cả hai bản chất đó đều bộc lộ và chi phối các hoạt động
hội thoại.
Sở dĩ nói hội thoại là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn ngữ vì chính
trong hội thoại (và độc thoại), ngôn ngữ mới thực hiện được chức năng quan
trọng của nó - chức năng giao tiếp. Chính trong hội thoại, ngôn ngữ mới phát
huy đầy đủ đặc điểm, sức mạnh, vẻ đẹp… của nó. Nói cách khác thì ngôn ngữ
6
trở thành ngôn ngữ sống nhờ vào hội thoại. Một ngôn ngữ nếu không được ai

sử dụng để giao tiếp, nó sẽ trở thành ngôn ngữ chết. Trên thế giới đã có hàng
trăm ngôn ngữ đi vào “cõi vĩnh hằng” do không còn ai sử dụng chúng để giao
tiếp, để hội thoại và nó trở nên mất dần vị trí vốn có. Bất kì cuộc hội thoại nào
muốn tiến hành được cũng phải dựa vào một ngôn ngữ cụ thể, cũng sử dụng
một tiếng nói cụ thể.
Nói đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại, về mặt sư phạm, là nói đến
mối quan hệ giữa kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và hội thoại của
cá nhân học sinh khi bước chân đến trường và yêu cầu dạy hội thoại của nhà
trường. Khi vào học lớp 1 cũng như các lớp học trên, mặc dù chưa được học
hội thoại nhưng học sinh vẫn sử dụng ngôn ngữ để tham gia trò chuyện với
nhau, với bố mẹ, trao đổi về mọi vấn đề các em gặp phải trong đời sống, để
giãi bày, yêu cầu, đòi hỏi, ra lệnh, dọa nạt, quát tháo… Dường như các em đã
nắm được một phần nào đó các quy tắc, quy luật… về hội thoại.
Tuy nhiên đó chỉ là con đường tiếp nhận tự phát, các em chưa ý thức rõ
ràng về sự tiếp nhận của mình. Muốn dùng ngôn ngữ cho chính xác, linh hoạt,
đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị thì các em phải trải qua cả một quá trình rèn luyện
và trau dồi. Học sinh phải được học, được luyện tập về hội thoại. Muốn hiểu
các quy tắc, quy luật hội thoại sâu, kĩ, tự giác, học sinh phải học tập. Do đó
dạy hội thoại cho học sinh là một yêu cầu tất yếu nhà trường phải thực hiện.
Con đường để dạy hội thoại nhanh, có hiệu quả chính là phải từ kinh nghiệm
sẵn có của học sinh phát triển lên, luyện tập thêm.
Nói đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại chính là nói đến tính chất giao
tiếp của nó, là phải quan tâm đến các nhân tố tham gia vào cuộc giao tiếp, vào
cuộc hội thoại như ngữ cảnh, ngôn ngữ và văn bản.
Hội thoại là một hiện tượng xã hội vì nó nảy sinh và tồn tại chỉ trong
các cộng đồng người, trong xã hội loài người. Để trao đổi thông tin, giao lưu
7
tình cảm, gắn kết từng cá thể với nhau tạo thành một cộng đồng, một xã hội
thì con người đã sử dụng một công cụ đắc lực chính là hội thoại. Nếu không
có công cụ này thì có lẽ mọi hoạt động của con người sẽ khó mà diễn ra như ý

muốn. Chúng ta sẽ không bộc lộ được suy nghĩ, không giao lưu tình cảm để
gần gũi, thân thiện và thiết lập các mối quan hệ cần thiết trong cuộc sống.
Bàn đến bản chất xã hội của hội thoại là bàn đến chức năng, mục đích
và nội dung hội thoại, là gắn hội thoại với các hoạt động xã hội.
Hoạt động hội thoại là hoạt động giao tiếp gắn rất chặt với các quy tắc
ứng xử trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh của con người. Học các quy
tắc hội thoại, từ quy tắc luân phiên lượt lời đến các phương châm điều hành
nội dung hội thoại, từ phép lịch sự đến việc thực hiện các quy luật cấu trúc
hội thoại, người học thực ra đã tiếp nhận nhiều quy tắc đạo đức, nhiều phép
ứng xử văn minh như sự tôn trọng thể diện người hội thoại, sự phối hợp, hợp
tác trong cuộc sống… Vì thế dạy hội thoại cho học sinh đồng thời cũng là dạy
đạo đức, dạy văn hóa ứng xử.
Hai bản chất nêu trên của hội thoại gắn chặt với nhau đến mức ở nhiều
nhân tố hoặc nhiều giai đoạn khó tách bạch đâu là tính chất ngôn ngữ, đâu là
tính chất xã hội. Điều ấy không có nghĩa là không nhận thấy hai bản chất này
trong hiện tượng hội thoại.
1.1.3. Các nhân tố giao tiếp và hội thoại
Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ có vị
trí quan trọng nhất. Vì thế các nhân tố tham gia vào cuộc giao tiếp (như ngữ
cảnh, ngôn ngữ, văn bản) cũng là các nhân tố tham gia vào cuộc thoại.
1.1.3.1. Ngữ cảnh
Bàn đến ngữ cảnh hội thoại là bàn đến nhân vật hội thoại (giao tiếp) và
hiện thực bên ngoài hội thoại (hay hiện thực ngoài văn bản, ngoài diễn ngôn).
Đó là các nhân tố có tác động lớn đến hội thoại (văn bản).
8
• Nhân vật hội thoại (giao tiếp)
- Nhân vật hội thoại (giao tiếp) là những người tham gia hội thoại (giao
tiếp). Có hai yếu tố của nhân vật hội thoại ảnh hưởng đến cuộc hội thoại là
vai hội thoại (giao tiếp) và quan hệ liên cá nhân.
- Nói đến vai hội thoại (giao tiếp) là nói đến vị trí của nhân vật trong

cuộc hội thoại. Có hàng vạn, hàng triệu cuộc giao tiếp, cuộc hội thoại khác
nhau nhưng tham gia vào các cuộc hội thoại đó chỉ có hai vai: người nói và
người nghe. Thông thường người nói đưa ra lời trao còn người nghe (khi
được nói) sẽ đưa ra lời đáp. Sau đó, người nói (ban đầu) trở thành người
nghe. Nghe xong họ đưa ra lời trao. Cuộc hội thoại cứ thế tiếp diễn. Như vậy
luôn có sự đổi vai trong một cuộc hội thoại. Một người có lúc đóng vai người
nghe, lúc khác lại đóng vai người nói.
Tuy nhiên không phải lúc nào cuộc đổi vai này cũng suôn sẻ. Lại có lúc
người nghe khi trở thành người nói không đưa ra lời đáp đúng với lời trao họ
vừa tiếp nhận. Ngược lại, họ lại đưa ra lời đáp là một câu hỏi để buộc người
nói khi trước phải đưa ra câu trả lời.
- Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật tham gia hội thoại biểu hiện ở
các phạm vi: vị thế xã hội, vị thế giao tiếp và quan hệ thân cận.
+ Vị thế xã hội của những người tham gia hội thoại phụ thuộc vào
chức quyền, tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, địa vị trong gia đình… của
họ. Các yếu tố này thường tác động trực tiếp đến cuộc giao tiếp và hội thoại.
Các yếu tố khác như chức quyền, nghề nghiệp, địa vị xã hội… cũng có tác
động tương tự. Tuy nhiên, ở mỗi cuộc hội thoại, các yếu tố này tác động đậm
nhạt, mạnh yếu khác nhau. Điều đáng chú ý là các yếu tố thể hiện vị thế xã
hội của người tham gia không có bất cứ sự thay đổi nào trong suốt cuộc hội
thoại.
9
+ Quan hệ thân cận là quan hệ thiên về tình cảm giữa những người
tham gia cuộc hội thoại. Quan hệ thân cận biểu hiện trên các mức độ: thân
hay sơ, nồng nàn, thắm thiết hay lạnh nhạt, quý mến hay xa lạ… Mối quan hệ
này có thể có sự biến đổi trong và sau cuộc hội thoại. Có nghĩa là trong hoặc
sau cuộc hội thoại, những người tham gia có thể từ sơ thành thân, từ xa lạ trở
nên quý mến… hoặc ngược lại.
+ Những người tham gia hội thoại còn bị chi phối bởi vị thế giao
tiếp. Trong một cuộc giao tiếp bao giờ cũng có người ở vị thế mạnh, người ở

vị thế yếu. Người ở vị thế giao tiếp mạnh sẽ chi phối một cách tự giác hoặc
ngẫu nhiên, có chủ đích hoặc không có chủ đích cuộc giao tiếp, cuộc hội
thoại. Ngược lại, người ở vị thế giao tiếp yếu sẽ bị chi phối, bị lôi theo các nội
dung hội thoại do người ở vị thế giao tiếp mạnh nêu ra.
• Hiện thực bên ngoài hội thoại
Bất kì cuộc hội thoại nào cũng xoay quanh một phạm vi hiện thực nhất
định. Phạm vi hiện thực đó trở thành hiện thực – đề tài của hội thoại. Các
cuộc hội thoại lại diễn ra trong một hoàn cảnh xã hội nào đó, một môi trường
hội thoại xác định, một tình huống hội thoại cụ thể. Các yếu tố trên hợp thành
hiện thực bên ngoài hội thoại nhưng có tác động quan trọng đến hội thoại. Có
yếu tố tác động trên phạm vi rộng, theo cách gián tiếp như hiện thực – đề tài
của hội thoại, hoàn cảnh xã hội. Có yếu tố tác động trên phạm vi hẹp, theo
cách trực tiếp như môi trường hội thoại, tình huống hội thoại.
Các yếu tố hiện thực bên ngoài hội thoại bao gồm:
- Hiện thực – đề tài hội thoại
Hiện thực – đề tài hội thoại bao gồm toàn bộ thế giới tự nhiên và xã
hội, thế giới tâm linh và các biểu hiện tâm lí của con người, ngôn ngữ và việc
sử dụng ngôn ngữ… được đưa vào làm đề tài của hội thoại.
10
Mỗi cuộc hội thoại chỉ có thể đề cập đến một bộ phận của hiện thực
làm đề tài hội thoại.
- Hoàn cảnh xã hội
GS. Đỗ Hữu Châu gọi hoàn cảnh xã hội là hoàn cảnh giao tiếp rộng.
Như vậy, xét về mặt tên gọi thì hai cách gọi này là khác nhau nhưng chúng
đều giống nhau về mặt ý nghĩa.
Hoàn cảnh xã hội bao gồm các đặc điểm về lịch sử, địa lí, văn hóa,
nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, quân sự, giáo dục, tâm lí dân tộc và xã hội,
ngôn ngữ, trang phục, âm nhạc… của dân tộc, bộ tộc, cộng đồng người… nơi
diễn ra hội thoại. Các điều kiện trên có ảnh hưởng ít, nhiều, đậm, nhạt khác
nhau… đến các cuộc hội thoại.

Đối với mỗi cuộc hội thoại, thường chỉ có một vài điều kiện nêu trên để
lại dấu ấn rõ ràng.
- Môi trường hội thoại
GS. Đỗ Hữu Châu gọi môi trường hội thoại là hoàn cảnh giao tiếp hẹp.
Như vậy, xét về mặt tên gọi thì hai cách gọi này là khác nhau nhưng chúng
đều giống nhau về mặt ý nghĩa.
Bất kì cuộc thoại nào cũng diễn ra trong một không gian và một thời
gian xác định, cụ thể. Một số không gian và thời gian mang đặc trưng chung
đặc thù (thành văn hay bất thành văn) do xã hội hoặc cộng đồng quy định.
Người ta gọi các không gian và thời gian ấy là môi trường hội thoại.
Mỗi môi trường hội thoại sẽ quy định một cách thức sử dụng ngôn ngữ
phù hợp với nó. Các quy định này đều có tính đặc thù so với quy định chung
của xã hội. Những người tham gia hội thoại tại các môi trường đó phải hiểu
và tuân theo các quy định đặc thù đó mới có thể thành công trong giao tiếp,
đạt đích đề ra trong hội thoại.
11
- Tình huống hội thoại
Tình huống hội thoại (dạng đặc biệt của tình huống giao tiếp) là tình
huống cụ thể, xác định được các nhân vật tham gia hội thoại ý thức và làm
nảy sinh cuộc hội thoại.
1.1.3.2. Ngôn ngữ
Hội thoại là quá trình sử dụng ngôn ngữ làm công cụ giao lưu giữa
người với người. Để có thể sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong hội
thoại, người tham gia hội thoại cần chú ý đến những vấn đề như: đặc điểm
của ngôn ngữ nói, ngữ vực và ngôn ngữ cá nhân.
• Đặc điểm của ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ có hai dạng là ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói. Hai dạng của
ngôn ngữ có nhiều đặc điểm chung (cùng dùng chung kho từ vựng, hệ thống
các quy tắc ngữ pháp và phong cách, cùng chịu sự chi phối của các đặc điểm
về truyền thống và văn hóa dân tộc), nhưng mỗi dạng ngôn ngữ lại có những

đặc điểm riêng khác nhau. Ngôn ngữ nói có những đặc thù:
o Có thể sử dụng tất cả các lớp từ trong vốn từ của một ngôn ngữ.
o Thường sử dụng các cấu trúc ngữ pháp đơn giản, giản lược… kể cả các
cách diễn đạt đơn giản không theo quy tắc ngữ pháp chuẩn mực, nói tắt…
o Chú trọng sử dụng ngữ điệu để diễn đạt một số nội dung thông tin và
nội dung liên quan đến tình cảm, biểu đạt thái độ… của người nói.
o Được sự phụ trợ rất có hiệu quả của các yếu tố phi ngôn ngữ của người
tham gia hội thoại.
• Ngữ vực
Trong giao tiếp, có những chuẩn mực ngôn ngữ được cả xã hội hoặc
cộng đồng thừa nhận, bên cạnh đó lại có các phương ngữ địa lí, các loại biệt
ngữ xã hội… Còn căn cứ vào cách dùng có thể nói đến các ngữ vực khác
nhau:
12
o Ngữ vực quy thức: dùng để nói với những người quen biết ít hoặc chưa
quen biết.
o Ngữ vực thân tình: dùng để giao tiếp giữa những người có quan hệ
thân thiết với nhau.
o Ngữ vực quy nghi thức: dùng để giao tiếp giữa những người tuy có
biết nhau nhưng không thân thiết.
• Ngôn ngữ cá nhân
Ngôn ngữ mỗi cá nhân dùng khi giao tiếp, hội thoại đều có dấu ấn của
ngôn ngữ chuẩn mực, của phương ngữ, của ngữ vực, thậm chí của cả biệt ngữ
xã hội, đồng thời kèm theo là những sáng tạo riêng của cá nhân.
1.1.4. Vị trí của hội thoại trong đời sống, trong văn chương và trong nhà
trường
1.1.4.1. Vị trí của hội thoại trong đời sống
Hội thoại có vai trò quan trọng trong đời sống. Có thể khẳng định rằng
chúng ta không thể sống nếu thiếu đi hội thoại vì đó là nhu cầu tất yếu và hoạt
động thường xuyên của con người. Qua hội thoại chúng ta có cơ hội giao lưu

tình cảm, bày tỏ suy nghĩ, thái độ, quan điểm về các vấn đề xảy ra thường
ngày xung quanh cuộc sống. Hội thoại giúp chúng ta gần gũi với nhau hơn từ
đó tạo lập các mối quan hệ trong cộng đồng. Xã hội càng phát triển thì nhu
cầu hội thoại, nhu cầu giao tiếp càng trở nên cần thiết. Trong một ngày, một
tháng, một năm, một đời người, thời gian dành cho hội thoại rất lớn, lớn hơn
thời gian dành cho độc thoại nhiều lần. Con người chủ yếu giao tiếp với nhau
bằng hội thoại. Ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong hội thoại.
Giáo sư Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp
thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác…”
13
Nếu thống kê, có lẽ hội thoại chiếm đến 70 – 80% thời gian con người
sử dụng ngôn ngữ trong một ngày. Không có hoạt động ngôn ngữ này, mọi sự
giao lưu sẽ đình trệ. Vì thế hội thoại cũng là hình thức chủ yếu của hoạt động
giao tiếp.
Chúng ta có thể không giao tiếp, không hội thoại trong một giờ, hai
giờ… nhưng không thể im lặng trong một tháng, một năm bởi tất những
thông tin chúng ta tiếp nhận từ thế giới bên ngoài đều phải qua hội thoại.
Ngay cả một đứa trẻ khi tập nói cũng có nghĩa là nó đang muốn hội thoại,
muốn nói chuyện với mọi người xung quanh. Muốn nhờ cậy, yêu cầu hay bày
tỏ lòng biết ơn, sự cảm thông của ta đến mọi người trong từng hoàn cảnh ta
đều phải qua hình thức hội thoại. Có thể coi đó là chìa khóa để chúng ta mở
cánh cửa cuộc sống.
Như vậy, hội thoại thực sự chiếm lĩnh vai trò quan trọng trong đời sống.
Chúng ta không thể thay thế hội thoại bằng bất cứ hình thức nào khác. Sự
sống còn tồn tại thì hội thoại còn tiếp diễn và sẽ được nâng lên một tầm cao
mới phù hợp với sự đổi thay của thời đại.
1.1.4.2. Vị trí của hội thoại trong văn chương
Trong văn chương, hội thoại cũng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.
Các nhân vật trò chuyện, trao đổi với nhau tạo nên nhiều cuộc hội thoại khác

nhau trong dòng diễn biến của cốt truyện. Các cuộc hội thoại góp phần bộc lộ
tính cách nhân vật. Tức là với mỗi một cuộc hội thoại giữa các nhân vật hay
ngay cả khi nhân vật trong truyện độc thoại nội tâm thì phần nào cho độc giả
hiểu được tâm trạng của nhân vật và từ đó có thể đánh giá về nhân vật với các
tính cách như hiền hậu, nhu mì, thẳng thắn, trung thành hay độc ác, thâm
hiểm… Đối với một số truyện thì có thể trong mỗi cuộc thoại lại thể hiện một
tâm trạng khác nhau của nhân vật như: buồn, vui, lo lắng hay hờn ghen, giận
dỗi… Đó là do hoàn cảnh, tình tiết trong cốt truyện tạo nên. Tất cả những
14
cuộc thoại đó góp phần tạo sự đa sắc màu trong tính cách từng nhân vật khiến
người đọc cảm thấy thu hút và muốn tìm hiểu, theo dõi.
Ngoài ra, các cuộc hội thoại còn nhằm bộc lộ mâu thuẫn, thúc đẩy sự
phát triển của tình tiết truyện. Mỗi một truyện hay một lớp kịch đều tồn tại
những mâu thuẫn và tình tiết nhất định, mâu thuẫn, tình tiết càng gay cấn,
càng nóng bỏng thì càng lôi cuốn độc giả.
Như vậy, mỗi một truyện đều cần thiết phải có những cuộc hội thoại.
Dù những cuộc thoại đó có diễn ra trong thời gian ngắn hay dài thì đều có ý
nghĩa quan trọng. Đó là một yếu tố cơ bản để tạo nên thành công cho truyện.
Nếu truyện mà không có các cuộc thoại giữa các nhân vật thì rất buồn tẻ và
nhàm chán, khó đi vào nội tâm của người đọc.
Cũng qua hội thoại người đọc sẽ phần nào hình dung được bối cảnh
giao tiếp, không gian giao tiếp để có cái nhìn, sự đánh giá khách quan hơn về
thực tế truyện kể. Có những cuộc thoại mà tác giả xây dựng thành công tới
mức khắc họa rõ ràng đặc điểm, lối sống của một số vùng miền dân tộc qua
cách nói, qua ngôn ngữ của các nhân vật.
Giống như trong đời sống, trong văn chương không thể thiếu đi hội
thoại bởi hội thoại chính là linh hồn của tác phẩm. Tác phẩm hay phải là tác
phẩm xây đựng được tình tiết hấp dẫn, ý tưởng mới lạ… và điều đó chỉ có thể
được tạo nên thông qua các cuộc hội thoại giữa các nhân vật.
1.1.4.3. Vị trí của hội thoại trong nhà trường

Trong đời sống và trong văn chương hội thoại có vị trí quan trọng vậy
trong nhà trường dạy hội thoại cho học sinh có cần thiết?
Một thời gian dài hội thoại không được giới ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu, không được các nhà sư phạm đưa vào giảng dạy trong nhà
trường. Người ta nghĩ rằng trẻ dùng được tiếng mẹ đẻ đương nhiên đã biết nói
và nghe, đã biết hội thoại. Vì thế nhà trường nên tập trung dạy đọc, viết, dạy
15
độc thoại. Đó là một quan niệm phiến diện. Cần phải dạy cho học sinh cách
nói có văn hóa, lịch sự. Học nói là học từ cách phát âm, đến ngữ điệu, giọng
đọc, học cả độc thoại và hội thoại.
Hội thoại giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ngôn ngữ nói của
học sinh. Học sinh muốn phát triển toàn diện nhất thiết phải có các kĩ năng
hội thoại, phải biết hội thoại. Đối với học sinh Tiểu học thì việc dạy hội thoại
trong nhà trường lại càng cần thiết bởi các em đang ở độ tuổi hình thành lời
nói và các kĩ năng giao tiếp cơ bản. Các em cần được dạy hội thoại một cách
cẩn thận và tỉ mỉ để có nền tảng vững chắc phục vụ cho việc thiết lập các mối
quan hệ với mọi người trong xã hội. Dạy học hội thoại trong nhà trường là
giúp các em biết chào hỏi, tự giới thiệu bản thân mình, biết đáp lời cảm ơn,
xin lỗi, đề nghị, yêu cầu hay an ủi mọi người khi họ gặp chuyện không vui…
với thái độ phù hợp.
Có thể nói nhà trường là môi trường giáo dục tốt nhất, dạy hội thoại có
hiệu quả nhất đối với học sinh. Việc đưa hội thoại vào nhà trường đã tạo ra
những thay đổi quan trọng trong nội dung cũng như phương pháp dạy tiếng
mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ. Chương trình dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ trên
thế giới ngày càng chú ý dạy hội thoại, nhờ vậy học sinh giao tiếp ngày càng
linh hoạt, sinh động.
Ở Việt Nam, việc đưa hội thoại chính thức dạy trong nhà trường chậm
hơn. Chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học ban hành năm 2001 mới đưa việc
học hội thoại thành một nội dung quan trọng. Chương trình ban hành năm
2006 tiếp tục khẳng định phương hướng trên. Sách Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI

đã có nhiều loại bài tập và bài học dạy hội thoại. Đó là bước tiến mới trong
lịch sử dạy tiếng Việt.
16
1.2. Vấn đề dạy học hội thoại ở lớp 2
1.2.1. Nội dung dạy hội thoại trong chương trình Tiếng Việt lớp 2
Chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học năm 2000 đặt mục tiêu “hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, nói, nghe,
viết) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.”
Xuất phát từ mục tiêu trên mà nội dung dạy Tiếng Việt ở tiểu học đã
chú trọng đến dạy phát triển lời nói cho học sinh thông qua nội dung dạy hội
thoại. Lần đầu tiên, chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học đưa hội thoại
thành một nội dung học tập. Các chương trình này quy định các kĩ năng cần
rèn luyện trong phần nội dung chương trình và mức độ cần đạt được trong
phần chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 ở Tiểu học (ban hành năm 2006) quy
định các kiến thức và kĩ năng cần học và rèn luyện phục vụ cho dạy hội thoại
như sau:
1.2.1.1. Nội dung chương trình
- Kiến thức Tập làm văn
+ Sơ giản về đoạn văn và nội dung của đoạn văn
+ Một số nghi thức lời nói: chào hỏi, chia tay, cảm ơn, xin lỗi, yêu
cầu, đề nghị, tự giới thiệu; đáp lời chào hỏi, chia tay, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu,
đề nghị, tự giới thiệu.
- Kĩ năng
 Nghe:
+ Nghe và trả lời câu hỏi về những mẩu chuyện có nội dung đơn giản
gần gũi với lứa tuổi.
+ Nghe – viết chính tả một đoạn văn, đoạn thơ hoặc bài thơ ngắn.
 Nói:
17

+ Chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, đề nghị, tự giới thiệu; đáp lời
cảm ơn, xin lỗi, lời mời… trong các tình huống giao tiếp ở trường học, gia
đình, nơi công cộng.
+ Trả lời và đặt câu hỏi đơn giản.
+ Kể một mẩu chuyện hoặc một đoạn của câu chuyện được nghe.
+ Nói lời giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, bạn bè, trường lớp
theo gợi ý.
1.2.1.2. Chuẩn kiến thức và kĩ năng
Chủ đề Mức độ cần đạt Ghi chú
Tập làm văn
- Nhận biết đoạn văn, ý chính của đoạn
văn.
- Biết cách tạo lập một số văn bản thông
thường (danh sách học sinh, tờ khai lí
lịch, thông báo, nội quy, bưu thiếp…).
- Biết một số nghi thức lời nói (chào hỏi,
chia tay, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, đề
nghị ).
Biết đặt đầu đề
cho đoạn văn
(theo gợi ý).
Nghe
Nghe - hiểu
Nghe và trả lời được câu hỏi về những
mẩu chuyện có nội dung đơn giản, gần
gũi với lứa tuổi (kết hợp nhìn hình minh
họa).
Nghe - viết
Nghe – viết được bài chính tả có độ dài
khoảng 50 chữ trong khoảng 15 phút.

Nói
Sử dụng nghi
thức lời nói
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ,
yêu cầu, bày tỏ sự ngạc nhiên, thán phục;
biết đáp lại những lời nói đó.
- Biết dùng từ xưng hô, biết nói đúng vai
18
trong hội thoại.
Đặt và trả lời
câu hỏi
- Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi: Ai?, Cái
gì? Làm gì? Thế nào? Ở đâu?, Bao giờ?
- Biết đặt và trả lời câu hỏi về những nội
dung đơn giản trong bài học.
Thuật việc, kể
chuyện
- Kể rõ ràng, đầy đủ một đoạn truyện
hoặc một câu chuyện đã học (dựa vào
tranh và câu hỏi gợi ý).
- Biết nói lời nhận xét đơn giản về nhân
vật, nội dung của câu chuyện đã nghe, đã
học; bộc lộ được tình cảm, thái độ với
nhân vật.
Phát biểu,
thuyết trình
- Biết giới thiệu vài nét về bản thân và
những người xung quanh.
Giới thiệu vài
nét về bản thân,

người thân, bạn
bè… thể hiện
được tình cảm,
thái độ trong lời
kể; cách nói tự
nhiên,mạnh dạn.
1.2.2. Các kiểu bài tập dạy hội thoại ở lớp 2
Nội dung dạy hội thoại được phân bố ở SGK Tiếng Việt lớp 2 là học
các nghi thức lời nói. Sau đây là các kiểu bài tập dạy hội thoại ở lớp 2.
1.2.2.1. Kiểu bài tập dạy nghi thức lời nói trong hội thoại
Nghi thức lời nói là những lời nói đã được xã hội quy thành chuẩn mực
được dùng phổ biến trong giao tiếp. Dùng sai nghi thức lời nói là vi phạm
chuẩn mực trong giao tiếp, điều đó dẫn tới các lỗi lầm, sai phạm trong quan
19
hệ xã hội, thất bại trong giao tiếp. Nghi thức lời nói chủ yếu dùng khi mở đầu
và kết thúc cuộc giao tiếp, nhất là trong các cuộc giao tiếp chính thức.
Dạy nghi thức lời nói là dạy văn hóa giao tiếp, là dạy tác phong văn
minh lịch sự trong quan hệ xã hội. Việc dạy nghi thức lời nói được thực hiện
bắt đầu từ cuối lớp 1 và tập trung ở lớp 2.
Nội dung dạy nghi thức lời nói được phân bố ở lớp 2 như sau:
- Chào hỏi, tự giới thiệu (tuần 1 và tuần 2); đáp lời chào, lời tự giới
thiệu (tuần 19).
- Cảm ơn, xin lỗi (tuần 4), đáp lời cảm ơn (tuần 21), đáp lời xin lỗi
(tuần 22).
- Nhờ cậy, yêu cầu, mời (tuần 8), đáp lời đồng ý (tuần 25, 26).
- Khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối (tuần 6), đáp lời khẳng định
(tuần 23), đáp lời phủ định (tuần 24), đáp lời an ủi (tuần 33).
- Chia vui, chúc mừng, khen ngợi (tuần 16, 25), đáp lời chia vui (tuần
28, 29), đáp lời khen ngợi (tuần 31).
+ Cấu trúc bài tập dạy nghi thức lời nói

 Bài tập tập sử dụng nghi thức lời nói:
Đầu bài kiểu bài tập này gồm một lời trao hay lời đáp. Cũng có khi
SGK dùng tranh ảnh mô tả tình huống giao tiếp, trong đó một nhân vật nói lời
trao hay lời đáp. HS sẽ căn cứ vào các dữ kiện đã cho, đóng vai nhân vật còn
lại để nói tiếp lời đáp hay lời trao là một nghi thức lời nói.
Ví dụ:
Đây là bài tập gồm lời trao, người làm bài cần điền lời đáp là một nghi
thức lời nói.
Viết lời đáp của Nam trong tình huống sau:
Một người lớn tuổi chào Nam:
- Chào cháu.
20
- …
(SGK Tiếng Việt 2, tập hai, tr.12)
 Bài tập lựa chọn nghi thức lời nói phù hợp tình huống giao tiếp:
Đề bài tập gồm vài ba câu miêu tả tình huống giao tiếp. Sau đó đề bài
đưa ra yêu cầu HS đưa ra một nghi thức lời nói phù hợp.
Đề bài đó có thể có tranh minh họa hay không có tranh minh họa cho
tình huống giao tiếp.
Đề bài đòi hỏi người làm bài đưa ra lời chào:
Ví dụ:
Nói lời của em chào bố mẹ để đi học.
+ Mục đích của bài tập
Bài tập nhằm rèn luyện việc vận dụng các nghi thức lời nói phù hợp với
các tình huống giao tiếp đề bài đã ra.
+ Tình huống giao tiếp
Tình huống giao tiếp chung của kiểu bài tập này có thể mô tả như sau:
Giữa các nhân vật xuất hiện những hoạt động (mua bán, trao đổi, tranh
luận…) đòi hỏi dùng nghi thức lời nói để giao tiếp. Trong hoàn cảnh ấy lời
đáp nên như thế nào nếu người mở đầu dùng nghi thức lời nói đúng chỗ?

Hoặc lời trao nên như thế nào nếu người đáp dùng nghi thức lời nói đúng
chỗ?
+ Phương pháp đáp lời hay trao lời bằng một nghi thức lời nói
Các bước triển khai: Để xác định đúng nghi thức lời nói đáp lời hay
trao lời, người làm bài cần tiến hành hai bước:
- Xác định hoàn cảnh giao tiếp được mô tả trong đề bài là hoàn cảnh
nào? (làm quen, cảm ơn, xin lỗi, đề nghị, yêu cầu…).
- Lựa chọn nghi thức lời nói phù hợp.
21
Công thức của lời trao hay lời đáp gồm: nghi thức dùng trong các hoàn
cảnh giao tiếp đặt ra (cộng với) lời tỏ rõ phép lịch sự phù hợp quan hệ cá nhân
các nhân vật giao tiếp.
• Một số lưu ý
Về cách dùng nghi thức lời nói khi làm quen: theo nguyên tắc chào hỏi
khi gặp gỡ hoặc làm quen thì người chào, dùng cách chào nào, người trả lời
phải dùng cách đó để đáp lại.
Trong nhiều trường hợp, khi nói xong một nghi thức lời nói, cần nói
thêm một vài câu để khơi mào cho đề tài giao tiếp xuất hiện.
1.2.2.2. Kiểu bài tập đáp lời hoặc trao lời trong các tình huống giao tiếp
Một cuộc hội thoại bao giờ cũng có lời trao, lời đáp. Trong một tình
huống giao tiếp, nếu đề bài đã cho lời trao thì học sinh phải đưa ra lời đáp
hoặc ngược lại. Hiểu theo nghĩa trên, kiểu bài tập sử dụng nghi thức lời nói là
một dạng đặc biệt của kiểu bài tập đáp lời hoặc trao lời trong các tình huống
giao tiếp.
+ Cấu trúc bài tập đáp lời hoặc trao lời
Có hai dạng đề bài tập loại này.
Dạng đề 1: Cho sẵn các lời trao trong một chuỗi các cặp thoại liên tiếp
nhưng lời đáp thì bỏ trống. Nhiệm vụ người làm bài là nói tiếp các lời đáp
phù hợp.
Ví dụ:

Nói hay viết lời đáp trong các trường hợp sau:
- Mẹ ơi, đây có phải con hươu sao không ạ?
- Phải đấy con ạ.
- …
(SGK Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 49)
22
Dạng đề 2: Cho một tình huống giao tiếp, yêu cầu người làm bài đưa ra
một lời đáp để hoàn chỉnh đoạn thoại phù hợp tình huống đó.
Ví dụ:
Em muốn mượn bạn quyển truyện, bạn bảo “truyện này tớ cũng đi
mượn”. Em đáp lời thế nào?
+ Phương pháp chuẩn bị lời đáp hoặc lời trao
Ở kiểu bài tập này, người làm phải trải qua bốn bước:
 Bước 1: Rút ra tình huống giao tiếp (với đề dạng 1) hay suy nghĩ về
tình huống giao tiếp (với dạng đề 2).
 Bước 2: Đưa ra lời đáp hoặc lời trao dự kiến.
 Bước 3: Xem xét tính phù hợp của lời đáp hoặc lời trao với tình huống
giao tiếp.
 Bước 4: Sửa chữa, hoàn chỉnh lời đáp hoặc lời trao.
Ví dụ:
Dự kiến lời đáp của người con trong đoạn thoại sau:
- Mẹ ơi, đây có phải con hươu sao không ạ?
- Phải đấy con ạ.
- …
SGK Tiếng Việt 2, tập hai đưa ra 3 lời đáp để HS lựa chọn:
- Trông nó dễ thương quá!
- Nó giống con hươu trong phim thế, mẹ nhỉ?
- Nó xinh quá!
1.2.3. Hai hướng dạy học hội thoại
Đây là trọng tâm nghiên cứu của đề tài, ở phần này chúng tôi chỉ xin

đưa ra một cách khái quát, chúng tôi sẽ đề cập sâu hơn trong chương 2.
1.2.3.1. Dạy hội thoại theo hướng phân tích
23
Dạy hội thoại theo hướng phân tích là cách dạy đưa ra những lời nhận
xét, đánh giá về các yếu tố giao tiếp nêu trong đề bài (gồm cả phần lời và
phần tranh minh họa). Sự phân tích này nhằm làm rõ đích giao tiếp, nhân vật
giao tiếp (trong đó có vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân), đề tài giao tiếp
(gồm nội dung hiện thực được đề cập đến (khi giao tiếp), hoàn cảnh giao tiếp
(thường là hoàn cảnh hẹp): cuộc giao tiếp xảy ra vào lúc nào, ở đâu). Từ đó
đưa ra dự kiến các lời hội thoại và lựa chọn những lời hội thoại phù hợp nhất
với đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp…
1.2.3.2. Dạy hội thoại theo hướng thực hành
Dạy hội thoại theo hướng thực hành là cách dạy dựa trên việc xây dựng
các tình huống giả định theo yêu cầu của đề bài hội thoại, GV tổ chức cho HS
thực hiện tình huống giả định đó trên lớp. Biện pháp hay phương pháp thích
hợp nhất là phương pháp đóng vai.
1.2.4. Quy trình dạy bài hội thoại
Theo PGS.TS Nguyễn Trí trong cuốn “Một số vấn đề dạy hội thoại
cho học sinh tiểu học” (Nxb Giáo dục, 2008) thì dạy hội thoại có thể được
tiến hành theo quy trình ba bước chính như sau:
 Bước 1: Phân tích tình huống hội thoại nêu ra trong đề bài.
Các nội dung cần làm rõ: Đề bài hội thoại, nhân vật tham gia hội thoại;
hoàn cảnh xã hội, môi trường xảy ra hội thoại; đích của hội thoại; vấn đề cần
giải quyết qua hội thoại.
Phương pháp chủ yếu dùng trong bước này có thể là phương pháp đàm
thoại thông qua hệ thống câu hỏi dẫn dắt của giáo viên hoặc phương pháp
thảo luận nhóm giải đáp các yêu cầu do giáo viên nêu ra.
Bước này không nên kéo dài.
 Bước 2: Phác họa diễn biến chính cuộc thoại bằng lời.
24

Bước này cố gắng làm rõ những diễn biến chính theo từng đề tài cuộc thoại
GV cho HS dựa trên kết quả phân tích tình huống hội thoại, mỗi em nêu ra
cách giải quyết vấn đề đặt ra trong đề bài. Các em dùng trí tưởng tượng kết
hợp với các hiểu biết của bản thân liên quan đến đề tài để nêu ra khái quát các
diễn biến chính trong cuộc thoại. Mỗi đề tài hội thoại theo quy ước xã hội sẽ
bao gồm một số hoạt động chính.
 Bước 3: Thực hành hội thoại
Có thể thực hành tối thiểu hai lần hoặc nhiều hơn tùy theo quỹ thời gian
dành cho bước này. Điều quan trọng là sau mỗi lần thực hành, giáo viên và
học sinh nhận xét xem các lời thoại có gắn với nội dung cuộc thoại, có phù
hợp với hoàn cảnh xã hội, môi trường và nhân vật tham gia hội thoại không,
đã giải quyết được vấn đề đặt ra cho cuộc hội thoại chưa, đạt được đích của
hội thoại không? Ngoài ra còn có thể nhận xét về cách sử dụng ngữ điệu,
các yếu tố phụ trợ cho lời nói, việc thực hiện các quy tắc và phương châm hội
thoại…Lần thực hành sau cần phát triển các kết quả đạt được, khắc phục các
nhược điểm của lần thực hành trước sao cho lần sau hoàn chỉnh hơn lần trước.
 Tiểu kết chương 1
Như vậy, trong chương 1 chúng tôi đã trình bày các vấn đề lí thuyết về
hội thoại bao gồm: một số vấn đề lí thuyết về hội thoại, vị trí của hội thoại
trong đời sống, trong văn chương và trong nhà trường. Đồng thời chúng tôi
cũng nói tới vấn đề dạy học hội thoại ở lớp 2 với các nội dung: dạy hội thoại
trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, các kiểu bài tập dạy hội thoại ở lớp này,
hai hướng dạy dạy học hội thoại thường dùng và quy trình dạy bài hội thoại.
Đây chính là cơ sở lí luận mà chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu khi thực hiện đề
tài này.
Chương 2
25

×