Tải bản đầy đủ (.doc) (180 trang)

Nâng cao hiệu quả thanh tra người nộp thuế ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.95 KB, 180 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây luôn đạt được tốc độ tăng trưởng
cao so với khu vực do chủ trương phát triển kinh tế hiện đại hóa, công nghiệp hóa
và hội nhập kinh tế thế giới. Chính phủ khuyến khích đầu tư, liên kết, phát triển
kinh tế, tự do hóa thương mại không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà
còn ở nước ngoài. Với chủ trương khuyến khích đầu tư, Chính phủ đã nới lỏng các
quy định pháp lý, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển tất cả các lĩnh vực
kinh doanh, đan xen hỗn hợp phong phú. Với sự thông thoáng của Luật Doanh
nghiệp trong việc cho phép thành lập doanh nghiệp, số lượng các tổ chức, cá nhân
kinh doanh ngày càng tăng, nhiều nghiệp vụ kinh tế mới xuất hiện, phát sinh. Hàng
năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp và hộ kinh doanh mới ra đời thuộc diện quản
lý thu thuế. Mặt trái của sự phát triển nhanh về số lượng người nộp thuế (NNT) là
một số NNT có ý thức tuân thủ pháp luật thuế không tốt, có hành vi gian lận ngày càng
tinh vi và phức tạp, thủ đoạn trốn- tránh thuế khó phát hiện hơn trước nhiều lần.
Thanh tra thuế được coi như bộ phận chủ lực của ngành thuế trong phòng
ngừa, răn đe gian lận trong chống trốn-tránh thuế, nâng cao tính tuân thủ của NNT.
Thanh tra thuế được sử dụng như chức năng đảm bảo pháp chế thuế, giúp tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong lĩnh vực thuế, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về
thuế, phải được xác định như một nhân tố tất yếu của công tác quản lý thuế.
Thanh tra thuế được coi như một biện pháp hữu hiệu của cơ quan thuế
(CQT) nhằm răn đe, phát hiện, xử lý, hạn chế những sai phạm của NNT, nâng cao
tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho NNT tự giác tuân thủ, đảm bảo sự công
bằng khách quan cho NNT, nhờ vậy mà tác động ngược trở lại thúc đẩy nền kinh tế
phát triển lành mạnh, bền vững.
Việc nâng cao hiệu quả thanh tra thuế là hết sức cần thiết, vì:
Thứ nhất, do mâu thuẫn giữa sự gia tăng số lượng NNT và số lượng cán bộ
làm công tác thanh tra.
Số lượng NNT hoạt động trong nền kinh tế tăng rất nhanh và đa dạng, nhiều
lĩnh vực kinh doanh mới ra đời: kinh doanh qua mạng phát triển, các giao dịch, hợp


2
đồng và thanh toán được thực hiện bằng điện tử; việc hạch toán kế toán và lưu giữ
chứng từ càng được điện tử hoá. Hoạt động của NNT đa dạng, phức tạp làm cho
công tác thanh tra thuế càng gặp nhiều khó khăn, chưa theo kịp yêu cầu phát triển
rất nhanh chóng của nền kinh tế. Trong khi đó, số lượng công chức làm công tác
thanh tra thuế còn ít. Mâu thuẫn về số lượng NNT phát triển và hạn chế về nguồn
lực, cán bộ thanh tra (CBTT) đã gây khó khăn và thách thức cho công tác thanh tra thuế.
Thứ hai, do tình trạng gian lận, trốn-tránh thuế, không tuân thủ pháp luật
thuế ngày càng tinh vi, phức tạp.
Một bộ phận NNT đã lợi dụng “kẽ hở” của các Luật thuế và sự chưa quyết
liệt giám sát chặt chẽ của CQT để “lách” luật, trốn-tránh nghĩa vụ khai, nộp thuế,
chưa thực sự tự giác tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, “chây ỳ” nợ đọng tiền
thuế, hoạt động liên kết, chuyển giá xảy ra trong nhiều loại hình NNT khác nhau …
với mức độ ngày càng tinh vi và phức tạp, hành vi, thủ đoạn cũng ngày càng khó
phát hiện hơn, gây nhức nhối cho nền kinh tế, xã hội và trật tự quản lý kinh tế, đòi
hỏi các ngành, các cấp phải cùng vào cuộc phòng chống… Các hành vi trốn-tránh,
gian lận thuế của NNT chưa được CQT kịp thời phát hiện và ngăn chặn đã phần
nào làm giảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật thuế, chưa có tác động thúc
đẩy tính tự giác tuân thủ của NNT. Nhìn chung hiện nay thanh tra thuế đang “đi
sau” doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng chống, hạn chế,
phòng ngừa gian lận thuế. Nguyên nhân của những yếu kém này một phần do thẩm
quyền xử lý của thanh tra thuế còn hạn hẹp, cách thức tổ chức hoạt động thanh tra
chưa khoa học, phương pháp thanh tra chưa khoa học và lực lượng thanh tra còn
mỏng, trình độ cán bộ thanh tra (CBTT) còn hạn chế,…
Thứ ba, do yêu cầu của đổi mới cơ chế quản lý thuế và sự thay đổi của chính
sách thuế.
Sự thay đổi cách thức vận hành của cơ chế quản lý thuế mới đòi hỏi tất yếu
công tác thanh tra thuế (một trong các chức năng cơ bản của quản lý thuế) đổi mới,
nâng cao hiệu quả. Do đó, để thực hiện tốt chức năng quản lý của mình, CQT buộc
phải thay đổi phương thức quản lý, để quản lý NNT phù hợp hơn. Việc quản lý

kinh tế nói chung và quản lý hoạt động của NNT nói riêng cũng phải sử dụng các
công cụ và phương pháp quản lý hiện đại. Với sự tăng trưởng về kinh tế, sự hoàn
3
thiện hệ thống chính sách thuế và xu hướng hội nhập, ngành thuế Việt Nam không
thể duy trì cách quản lý truyền thống và thủ công như hiện nay. Để khắc phục
những hạn chế, tồn tại của chính mình, công tác thanh tra thuế cần phải tất yếu đổi
mới, nâng cao hiệu quả cho phù hợp.
Ngoài ra, thanh tra thuế cần đổi mới do hàng loạt các luật thuế thay đổi: thuế
giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá
nhân (TNCN) Thời gian qua, nước ta mới chỉ tập trung nhiều vào cải cách hệ
thống chính sách thuế, tuy nhiên khâu tổ chức thực hiện vẫn còn chưa tương xứng
với mục tiêu quản lý Nhà nước về thuế, kết quả đạt được của thanh tra thuế còn hạn
chế, quy trình quản lý thuế tại một số khâu còn phức tạp, thiếu tính thống nhất giữa
các sắc thuế hoặc giữa những NNT trong việc kê khai nộp thuế, các tổ chức, cá
nhân liên quan chưa thật sự chủ động phối hợp trong việc cung cấp thông tin, chia
sẻ trách nhiệm với CQT để thu thuế… làm hạn chế tính chính xác, tính khả thi và
hiệu quả của công tác chỉ đạo thu và việc thi hành chính sách thuế.
Thứ tư, do yêu cầu quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến
tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao và là tất yếu khách quan. Theo đó
hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do
hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ
thống chính sách thuế tương thích yêu cầu hội nhập quốc tế, công tác quản lý thuế-
trong đó có thanh tra thuế- phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực
quản lý thuế quốc tế nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và
khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tạo môi trường thuận
lợi, đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế (hiện tại, sự khác biệt giữa Việt Nam và
các nước tiên tiến về hệ thống thuế và cơ chế quản lý thuế còn khá lớn).
Tình trạng cấp bách trên đặt ra cho công tác quản lý thuế nói chung và thanh
tra thuế nói riêng nhiều thách thức và buộc phải điều chỉnh cho phù hợp với thực

tiễn quản lý và phát huy vai trò, tác dụng của mình. Thanh tra thuế phải đổi mới,
nâng cao chất lượng, phát huy tính hiệu quả tương thích, phù hợp với trình độ phát
triển của doanh nghiệp và của nền kinh tế, phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế
quốc tế. Do đó, cần phải nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra thuế của CQT các
4
cấp từ trung ương đến địa phương nhằm nâng cao khả năng phát hiện gian lận,
trốn-tránh thuế, tăng thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), nâng cao tính răn đe,
phòng ngừa gian lận, nâng cao ý thức tuân thủ của NNT, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng và lành mạnh cho NNT trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Về mặt lý luận, thanh tra thuế có vai trò rất quan trọng, nhưng trong thực tế,
thanh tra thuế chưa phát huy được hết vai trò, tác dụng và chưa được đầu tư, sử
dụng như một công cụ hiệu quả để chống gian lận, chống thất thu ngân sách và răn
đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Vậy làm thế nào để CQT với điều kiện khó khăn và nguồn lực hạn chế mà
vẫn tổ chức thanh tra thuế đạt hiệu quả cao nhất trong bối cảnh số lượng NNT ngày
càng gia tăng và các thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, phức tạp? Tác giả đã chọn
đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận án
Mục đích nghiên cứu của Luận án: nghiên cứu cơ sở lý luận về hiệu quả
thanh tra thuế, xác định, đánh giá hiệu quả của thanh tra thuế và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả thanh tra thuế ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: là thanh tra thuế và hiệu quả thanh tra
thuế đối với NNT. Cụm từ “thanh tra người nộp thuế” đề cập trong Luận án được
viết gọn lại thành “thanh tra thuế” với nội hàm là tương đương.
Việc đánh giá hiệu quả thanh tra thuế về mặt định lượng trong luận án dựa
trên cơ sở đánh giá từng cuộc thanh tra thuế bởi hiệu quả thanh tra thuế nói chung
được cấu thành từ hiệu quả của từng cuộc thanh tra thuế.
Phạm vi nghiên cứu: Do phạm vi của thanh tra thuế là rất rộng nên luận án

chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về thanh tra thuế, hiệu quả
thanh tra thuế chủ yếu đối với NNT là các doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh
nghiệp. Luận án không nghiên cứu: thanh tra theo đơn thư khiếu nại, tố cáo và phúc
tra kết quả thanh tra thuế, thanh tra sau hoàn thuế.
Luận án sử dụng tài liệu, số liệu trong phạm vi của Tổng cục Thuế và của
một số Cục Thuế lớn đem lại số thu chủ yếu cho ngành thuế như TP Hà Nội, TP
5
Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2007-2012 để đánh giá thực trạng hiệu
quả thanh tra thuế. Một số giải pháp luận án đề xuất áp dụng trong giai đoạn từ
năm 2013-2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm: phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp,
phân tích, so sánh và phương pháp thống kê; phương pháp phân tích rủi ro
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học: Luận án góp phần bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận về
thanh tra thuế và hiệu quả thanh tra thuế.
Về mặt thực tiễn: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả thanh tra
thuế ở Việt Nam thời gian qua. Từ thực trạng đó, luận án phân tích, đánh giá những
ưu điểm và hạn chế, tồn tại, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại liên
quan đến hiệu quả thanh tra thuế. Luận án đưa ra các yêu cầu đặt ra đối với việc
nâng hiệu quả thanh tra thuế ở Việt Nam thời gian tới và đề xuất các giải pháp,
điều kiện để thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra thuế ở Việt
Nam.
6. Kết cấu của luận án
Tên Luận án: “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra người nộp thuế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao
gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về hiệu quả thanh tra người nộp thuế.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả thanh tra người nộp thuế

Chương 3: Thực trạng hiệu quả thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam
6
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ
HIỆU QUẢ THANH TRA NGƯỜI NỘP THUẾ
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HIỆU QUẢ THANH TRA THUẾ.
1.1.1. Các tài liệu cơ bản lý luận về thanh tra thuế, hiệu quả thanh tra thuế
Nội hàm thanh tra thuế, hiệu quả thanh tra thuế đề cập trong Luận án được
nghiên cứu, kế thừa từ một số tài liệu:
Học viện Tài chính (2005), Giáo trình Lý thuyết Tài chính; Học viện Tài
chính (2009), Giáo trình Thuế; Học viện Tài chính (2009), Giáo trình Nghiệp vụ
thuế; Học viện Tài chính (2010), Giáo trình Lý thuyết thuế; Học viện Tài chính
(2000), Giáo trình Thanh tra tài chính; Trường Cán bộ Thanh tra (2008), Nghiệp
vụ công tác thanh tra; Trường Cán bộ Thanh tra (2008), Kiểm tra tài chính trong
các doanh nghiệp; Quang Anh, Hà Đăng (2002), Những điều cần biết về thanh tra,
kiểm tra doanh nghiệp; Trường Nghiệp vụ thuế (2008), Tài liệu đào tạo nghiệp vụ
thanh tra viên thuế; Trường Nghiệp vụ thuế (2009), Tài liệu đào tạo nghiệp vụ
thanh tra viên chính thuế; Trường Cán bộ Thanh tra (2009), Nghiệp vụ công tác
thanh tra- Chương trình thanh tra viên chính, Hà Nội.
Các tài liệu này đặt nền móng cho những lý thuyết về thuế, về quản lý thuế
trong đó có thanh tra thuế mà nghiên cứu đặt ra.
Ngoài ra, theo khảo sát của tác giả, trên thế giới hiện có một số tài liệu của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Châu Âu (OECD) viết về thanh tra thuế như:
OECD (2004), Quản lý rủi ro tuân thủ: các hệ thống lựa chọn trường hợp thanh
tra; OECD (2004), Nâng cao năng lực thanh tra thuế: những nguyên tắc và
phương pháp chung, OECD (2009): Trốn- tránh thuế quốc tế; OECD (2010):
Thông lệ quốc tế về lựa chọn trường hợp thanh tra dựa trên rủi ro, Economic
Policy Analysis.
Các tài liệu trên đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thanh tra thuế

1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã công bố
Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào riêng về thanh tra
thuế và nâng cao hiệu quả thanh tra thuế đối với NNT là các doanh nghiệp. Tuy
7
nhiên cũng đã có một số công trình triển khai nghiên cứu gộp hai nội dung về thanh
tra, kiểm tra thuế dưới dạng giáo trình, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ hoặc một số
bài báo. Dưới đây là tóm tắt một số nội dung nghiên cứu của các tác giả có liên
quan đến thanh tra thuế, hiệu quả thanh tra thuế.
1.1.2.1. Nhóm luận văn nghiên cứu về đổi mới công tác kiểm tra, thanh tra thuế
Ở phạm vi toàn ngành thuế
Nhóm các tác giả viết về đề tài kiểm tra, thanh tra thuế với phạm vi nghiên
cứu là toàn ngành thuế gồm có một số tác giả:
Nguyễn Thị Lan (2009), Các giải pháp hạn chế việc trốn thuế và tránh thuế
của các công ty đa quốc gia hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Thành Xuân Lý (2006), Thanh tra, kiểm tra
thuế trong điều kiện thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp
thuế ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Phạm
Thúy Hồng (2007), Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế theo Chương
trình cải cách và hiện đại hóa ngành thuế Việt Nam đến năm 2010, Luận văn Thạc
sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Hoàng Vân Anh (2008), Một số biện pháp
đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý
thuế ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Nguyễn
Chí Dũng (2009), Thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp
thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài
chính, Hà Nội ; Lê Thị Phương Thảo (2009), Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra
đối tượng nộp thuế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài
chính, Hà Nội ; Ngô Thị Thu Hương (2011), Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra
đối với người nộp thuế trong tiến trình hiện đại hóa công tác quản lý thuế ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Những vấn đề đã được nghiên cứu:

Phạm vi hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế mà các tác giả đề cập tương đối
rộng, bao gồm: kiểm tra, thanh tra thuế nói chung và kiểm tra, thanh tra nội bộ và
giải quyết khiếu nại tố cáo.
Các tác giả đã đánh giá được khái quát thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế
trên các mặt: bộ máy, kết quả thu, quy trình nghiệp vụ, cơ sở dữ liệu… và chỉ ra tồn
8
tại chủ yếu ở khâu lực lượng kiểm tra, thanh tra thuế, công tác lập kế hoạch, chất lượng
cuộc kiểm tra, thanh tra thấp và những nguyên nhân từ cơ chế chính sách và đối tượng
nộp thuế. Ở từng luận văn, các tác giả đã đạt được các kết quả cụ thể:
Luận án của tác giả Nguyễn Thị Lan đã hệ thống hóa lý luận về vấn đề trốn
thuế, tránh thuế của các công ty đa quốc gia. Phần thực trạng, luận án nhấn mạnh:
các công ty đa quốc gia là các đối tượng nộp thuế có nguy cơ trốn thuế và tránh
thuế rất cao, hiện tượng lợi dụng việc định giá chuyển giao để trốn, tránh thuế là
khá phổ biến. Công tác kiểm tra, thanh tra thuế đối với các công ty đa quốc gia còn
nhiều hạn chế, chưa hữu hiệu và đáp ứng yêu cầu quản lý đối với các đối tượng
này. Phần giải pháp, luận án có đề cập đến biện pháp đổi mới công tác thanh tra
thuế đối với các công ty đa quốc gia theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung
vào vấn đề định giá chuyển giao giữa công ty ở Việt Nam với công ty liên kết,
thành lập bộ phận thanh tra về giá chuyển giao.
Luận văn của tác giả Thành Xuân Lý đã đánh giá được khái quát thực trạng
kiểm tra, thanh tra thuế trên các mặt: bộ máy, kết quả thu, quy trình nghiệp vụ, cơ
sở dữ liệu… và chỉ ra tồn tại chủ yếu ở khâu lực lượng kiểm tra, thanh tra thuế,
công tác lập kế hoạch, chất lượng cuộc kiểm tra, thanh tra thấp và những nguyên
nhân từ cơ chế chính sách và đối tượng nộp thuế.
Luận văn của tác giả Phạm Thúy Hồng có phạm vi nghiên cứu là hoàn thiện
công tác kiểm tra, thanh tra thuế theo Chương trình cải cách, hiện đại hóa ngành
thuế đến năm 2010. Tác giả đã đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của kiểm tra,
thanh tra thuế theo hai giai đoạn từ 1999-2004 và từ 2004-2006 qua các mặt: trình
độ của CBTT, việc lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế qua các năm.
Luận văn của tác giả Hoàng Vân Anh đã đánh giá khái quát thực trạng kiểm

tra, thanh tra thuế trên phạm vi toàn quốc theo hai giai đoạn: từ trước khi có Luật
Quản lý thuế và sau khi có Luật Quản lý thuế.
Luận văn của tác giả Nguyễn Chí Dũng đã phân tích kiểm tra, thanh tra thuế
dưới giác độ tuân thủ của NNT, đã nêu được một số vai trò của kiểm tra, thanh tra
thuế đối với việc nâng cao tính tuân thủ của NNT. Tác giả đã đề cập các giải pháp điều
kiện để nâng cao tính tuân thủ như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm
tra, thanh tra thuế như tỷ lệ NNT tiến hành thanh tra, kiểm tra trong vòng một năm. Tỷ
lệ phần trăm (%) độ chính xác tại khâu phân tích hồ sơ so với kết quả thanh tra.
9
Luận văn của tác giả Lê Thị Phương Thảo đã đánh giá thực trạng kiểm tra,
thanh tra thuế qua ba nội dung: kiểm tra đăng ký thuế; chấp hành chế độ kế toán sổ
sách chứng từ, hóa đơn; kê khai, tính thuế và nộp thuế. Qua đó, luận văn đã phân
tích những ưu điểm và hạn chế của khâu lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế các
năm từ 2005-2008. Phần giải pháp đổi mới kiểm tra, thanh tra thuế luận văn tập
trung vào một số giải pháp như: phân cấp quản lý doanh nghiệp, xây dựng tiêu chí,
đánh giá, lựa chọn xếp loại doanh nghiệp để có chiến lược kiểm tra, thanh tra thuế
cụ thể cho từng loại hình doanh nghiệp.
Luận văn của tác giả Ngô Thị Thu Hương có hàm lượng nghiên cứu về hiệu
quả kiểm tra, thanh tra thuế là đáng kể so với các công trình trước đó. Tác giả đã kế
thừa, đưa ra những tiêu chí định lượng và định tính về hiệu quả kiểm tra, thanh tra
thuế, nêu lên được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế như
điều kiện kinh tế xã hội, trình độ dân trí, mô hình quản lý thuế, cơ chế quản lý thuế.
Những vấn đề chưa được nghiên cứu
Nhìn chung, do các luận văn trên nghiên cứu gộp chung kiểm tra và thanh
tra thuế nên chưa tách bạch riêng được hiệu quả thanh tra thuế và hiệu quả của hoạt
động kiểm tra thuế. Các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê tên các tiêu chí hiệu
quả kiểm tra, thanh tra thuế mà chưa nêu rõ công thức tính, ý nghĩa của các tiêu chí
về mặt định lượng cũng như định tính.
Các luận văn chưa đánh giá thực trạng hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế theo
các tiêu chí hiệu quả mà dừng lại ở việc đánh giá thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế

nói chung qua số thuế truy thu. Việc đánh giá hiệu quả thanh tra thuế cần dựa trên
rất nhiều tiêu chí định tính và định lượng, nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích tiêu chí
số thuế truy thu thì chưa đủ.
Các giải pháp các luận văn đề xuất chủ yếu về đổi mới hoạt động kiểm tra,
thanh tra thuế mà ít đề cập đến các giải pháp trực tiếp để nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm tra, thanh tra thuế, đa phần là các giải pháp điều kiện như hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng CBTT, kiểm tra. Một số luận
văn đề xuất giải pháp "tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chí đánh giá
hiệu quả công tác thanh tra" một cách chung chung mà chưa đưa ra các tiêu chí
đánh giá cụ thể.
10
Số liệu kết quả kiểm tra, thanh tra thuế là kết quả của toàn ngành thuế,
nhưng nếu các luận văn đưa ra số liệu kết quả của một số CQT địa phương thì sẽ
cho thấy bức tranh toàn cảnh của hiệu quả kiểm tra thuế, thanh tra thuế rõ nét hơn.
Một số luận văn được thực hiện trong bối cảnh Luật Quản lý thuế chưa ban
hành và chưa có quy trình thanh tra thuế riêng nên nên tính thời sự, cấp thiết đã
không còn, một số giải pháp đã không còn phù hợp với thực tế hoặc đã được áp
dụng, triển khai từ trước khi có kiến nghị, đề xuất.
Ở phạm vi các CQT địa phương
Nhóm các tác giả viết về đề tài kiểm tra, thanh tra thuế ở các địa phương
gồm: Đàm Thị Thu Hương (2005), Đổi mới công tác thanh tra- kiểm tra tại CQT
địa phương, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội ; Nguyễn Thị
Nhung (2006), Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế,
Học viện Tài chính, Hà Nội; Nguyễn Thị Thanh Minh (2007), Đổi mới thanh tra,
kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, Luận văn
Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Nguyễn Lan Anh (2009), Tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm
nâng cao hiệu lực quản lý thuế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà
Nội ; Phan Bùi Kim Thoa (2011), Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong

quản lý thuế ở Cục Thuế Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính,
Hà Nội; Đặng Đình Long (2012), Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác
thanh tra, kiểm tra ở Cục Thuế Nam Định, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài
chính, Hà Nội ; Phạm Đức Long (2012), Hoàn thiện công tác kiểm tra, thanh tra
thuế tại Cục Thuế Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà
Nội ; Phan Thị Minh Hiền (2012), Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
thuế của Cục Thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Những vấn đề đã được nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của của các luận văn rất rộng, gồm hoạt động kiểm tra,
thanh tra thuế tại các địa phương, không đề cập đến thanh tra ở văn phòng Tổng
cục Thuế và kiểm tra, thanh tra thuế ở các Chi cục Thuế.
11
Nội dung nghiên cứu: ngoài thanh tra, kiểm tra NNT bao gồm kiểm tra, thanh tra
thuế nội bộ ngành và thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực thuế.
Liên quan đến hiệu quả thanh tra thuế: các luận văn đã đánh giá được kết
quả kiểm tra, thanh tra thuế theo số thuế truy thu bình quân trên một cuộc thanh tra
như một chỉ tiêu hiệu quả.
Các giải pháp của các luận văn đề xuất chủ yếu liên quan đến vấn đề đổi mới
công tác kiểm tra, thanh tra thuế như tổ chức bộ máy, quy trình, công tác phối
hợp… trên một số địa bàn: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Tiền Giang, Nam Định. Các kết
quả nghiên cứu cụ thể của từng luận văn như sau:
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Nhung đã phân tích cụ thể kiểm tra, thanh
tra thuế trong quy trình CQT tính thuế và ra thông báo thuế và trong quy trình tự
tính, tự kê khai và tự nộp thuế.
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Thanh Minh phân tích vai trò của kiểm tra,
thanh tra thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp, chỉ rõ một số mục tiêu cần đạt được của
kiểm tra, thanh tra thuế. Đã đánh giá được thực trạng công tác kiểm tra, thanh tra
thuế giai đoạn 2002-2006 ở Cục Thuế tỉnh Tiền Giang qua các mặt tổ chức bộ máy,
kết quả thu, hành vi vi phạm… và chỉ ra tồn tại, nguyên nhân như việc lập kế hoạch

kiểm tra, thanh tra thuế còn dựa vào cảm tính, thời gian cần thiết để lập biên bản
kiểm tra, thanh tra thuế chưa chính xác, báo cáo kết quả thanh tra kiểm tra quá
nhiều, nội dung trùng lắp…
Luận văn của tác giả Nguyễn Lan Anh đã đánh giá kết quả của công tác
kiểm tra, thanh tra thuế theo một tiêu chí định lượng là số NNT được kiểm tra,
thanh tra và số thuế truy thu, nợ đọng.
Luận văn của tác giả Hoàng Thị Hiền đề cập trực tiếp đến việc nâng cao hiệu
quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế, đã có những phân tích khái quát về thực trạng tình
hình kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế Hưng Yên theo các nội dung của kiểm tra,
thanh tra thuế: mã số thuế, khai thuế, tính thuế, nợ…và đã chỉ ra được những tồn tại,
yếu kém, nguyên nhân của những hạn chế này trong thanh, kiểm tra thuế.
Luận văn của tác giả Phan Bùi Kim Thoa: Phần giải pháp luận văn đề cập
đến việc nâng cao hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ khi tiến hành kiểm tra, thanh
tra thuế tại cơ sở của NNT, đồng thời cần thường xuyên tổng kết, đánh giá hiệu quả
công tác kiểm tra, thanh tra.
12
Luận văn của tác giả Đặng Đình Long đã đánh giá khái quát thực trạng kiểm
tra, thanh tra thuế tại Nam Định từ năm 2010 đến 2011 qua số thuế truy thu và
phạt, đồng thời đã chỉ ra những hạn chế, tồn tại ở hai hình thức kiểm tra, thanh tra
thuế: tại CQT và tại cơ cở của NNT. Các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra,
thanh tra thuế chủ yếu tập trung vào tổ chức lại bộ máy, công tác chuyên môn và
hoàn thiện chính sách.
Luận văn của tác giả Phạm Đức Long trình bày lý luận tương đối phong phú
và chi tiết các phương pháp kiểm tra, thanh tra thuế. Luận văn nêu lên được bốn
tiêu chí định lượng và ba tiêu chí định tính về hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế,
trình bày cách tính và ý nghĩa của từng tiêu chí là điểm nổi bật của luận văn.
Luận văn của tác giả Phan Thị Minh Hiền đã trình bày lý luận hiệu quả kiểm
tra, thanh tra thuế với các nội dung: khái niệm và các tiêu chí xác định hiệu quả
kiểm tra, thanh tra thuế. Hiệu quả của kiểm tra, thanh tra thuế được xác định qua
các tiêu chí: số thu tăng, chi phí thấp, mức độ thực thi pháp luật, công bằng xã hội.

Những vấn đề chưa nghiên cứu
Cũng như các luận văn nghiên cứu về kiểm tra, thanh tra thuế trên phạm vi
toàn ngành, các luận văn viết về kiểm tra, thanh tra thuế ở phạm vi địa phương
chưa tách bạch riêng hoạt động thanh tra và kiểm tra nên khó đánh giá được hiệu
quả riêng từng hoạt động trong quản lý thuế.
Hàm lượng viết về hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế của các luận văn chưa
nhiều. Các luận văn chưa nêu được cụ thể cách tính toán, ý nghĩa của các tiêu chí
hiệu quả của kiểm tra, thanh tra thuế, chưa phân biệt giữa tiêu chí định lượng và
tiêu chí định tính. Khi đánh giá thực trạng chi phí kiểm tra, thanh tra thuế, các tác
giả chưa lượng hóa được chi phí thực hiện một cuộc thanh tra, kiểm tra.
Phần thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế: các tác giả chưa đánh giá kết quả
đạt được theo các tiêu chí hiệu quả nêu ra ở phần lý luận nên chưa cho người đọc
thấy được tổng quát về hiệu quả của hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. Đồng thời,
các luận văn chưa so sánh kết quả kiểm tra, thanh tra thuế của các CQT địa phương
khác có cùng quy mô, đặc điểm với kết quả kiểm tra, thanh tra thuế của CQT địa
phương nghiên cứu hoặc chỉ tiêu của toàn ngành để thấy được hiệu quả mà ngành
thuế địa phương làm được đang ở mức độ nào trong tổng thể hiệu quả khách quan
thanh tra thuế nói chung.
13
Phạm vi nghiên cứu của các luận văn tương đối hẹp, giới hạn ở việc đánh giá
công tác kiểm tra, thanh tra thuế trong nội bộ trong địa bàn từng tỉnh cụ thể, Các
giải pháp đề xuất của các luận văn mang tính khái quát toàn ngành chưa cao vì chỉ
đề xuất áp dụng cho riêng điều kiện của địa phương nghiên cứu.
Các giải pháp các luận văn đưa ra ít đề cập đến giải pháp nâng cao hiệu quả
kiểm tra, thanh tra thuế hoặc không phân biệt rõ giải pháp trực tiếp hay gián tiếp,
chủ yếu đề cập đến các giải pháp đổi mới kiểm tra, thanh tra thuế nói chung. Các
luận văn mới chỉ dừng lại ở kiến nghị áp dụng tên một số tiêu chí về hiệu quả kiểm
tra, thanh tra thuế mà chưa nêu rõ cách tính toán, trường hợp áp dụng.
Một số luận văn phân tích về kiểm tra, thanh tra thuế trong bối cảnh chưa có
Luật Quản lý thuế và thanh tra thuế vẫn chưa có quy trình riêng biệt mà áp dụng

chung cả hai quy trình kiểm tra và thanh tra thuế, một số giải pháp luận văn đưa ra
đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
1.1.2.2. Nhóm luận văn nghiên cứu về quản lý rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế
Nhóm các tác giả viết về đề tài quản lý rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế
gồm có một số tác giả: Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Áp dụng quản lý rủi ro trong
thanh tra, kiểm tra thuế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; Vũ
Thị Đến (2011), Công tác kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro
trong điều kiện tự tính, tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế,
Học viện Tài chính, Hà Nội ; Nguyễn Thu Thủy (2010), Các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác kiểm tra thuế trên cơ sở áp dụng kỹ thuật phân tích rủi ro tại Chi
cục Thuế Cầu Giấy, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Những vấn đề đã được nghiên cứu
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Thu Vân đã nêu được khái quát lý luận về
quản lý rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế, phân tích thực trạng quản lý rủi ro ở
cấp chiến lược (Tổng cục Thuế) và cấp hoạch định triển khai (các Cục Thuế địa
phương), cấp chiến thuật (ở các Chi cục Thuế). Luận văn đã đưa ra ba nhóm tiêu
chí đánh giá rủi ro gồm: phân loại NNT, đánh giá mức độ rủi ro về thuế và tiêu chí
đánh giá mức độ rủi ro tờ khai thuế. Phần giải pháp, luận văn nhấn mạnh “để hoạt
động kiểm tra, thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, cần phải tổ chức hoạt động kiểm tra,
thanh tra thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp”.
14
Luận văn của tác giả Vũ Thị Đến đã góp phần làm rõ lý luận về hoạt động
kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro ở Việt Nam, đánh giá những kết
quả đạt được từ khi triển khai kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro
từ 2007-2011 trên các mặt: tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, cơ sở dữ liệu, tiêu chí
đánh giá rủi ro. Các giải pháp đề xuất của luận văn nhấn mạnh: xây dựng cập nhật
cơ sở dữ liệu về NNT, hoàn thiện kỹ thuật quản lý rủi ro. Đặc biệt ở phần giải pháp
tác giả có đề cập đến việc xây dựng một số tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm tra,
thanh tra thuế.
Luận văn của tác giả Nguyễn Thu Thủy đề cập đến kỹ thuật phân tích rủi ro

trong kiểm tra thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
đối với các doanh nghiệp thuộc sự quản lý của Chi cục Thuế quận Cầu Giấy. Tác
giả nêu bật tầm quan trọng của phân tích rủi ro trong kiểm tra thuế, góp phần nâng
cao hiệu quả của kiểm tra thuế. Các lý luận về rủi ro của tác giả tương đối đầy đủ,
đã đưa ra được một số tiêu chí đánh giá rủi ro và xếp hạng rủi ro theo chấm điểm
doanh nghiệp. Tác giả nhấn mạnh việc hoàn thiện kỹ thuật phân tích rủi ro là một
giải pháp quan trọng để công tác kiểm tra thuế có hiệu quả.
Những vấn đề chưa được nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của các luận văn là phân tích rủi ro trong kiểm tra,
thanh tra thuế, các tác giả ít đề cập đến thanh tra thuế và hiệu quả thanh tra thuế,
không phân tích hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra thuế mà nêu gián tiếp
thông qua việc áp dụng phân tích rủi ro. Tuy nhiên, ngoài áp dụng phân tích rủi ro,
còn rất nhiều giải pháp khác quan trọng để góp phần nâng cao hiệu quả kiểm tra,
thanh tra thuế thì các tác giả lại ít đề cập.
Các đề tài luận văn áp dụng phân tích rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế
của toàn ngành khai thác số liệu chung toàn ngành mà chưa đưa ra số liệu cụ thể
của một số địa phương để so sánh, ngược lại, các luận văn viết về kiểm tra, thanh
tra thuế của các CQT địa phương lại không so sánh với số liệu bình quân chung về
kết quả kiểm tra, thanh tra của toàn ngành thuế để thấy được vị trí, kết quả đạt được
của mình trong tổng thể chung.
Một số tiêu chí đánh giá rủi ro mà các luận văn đề cập đến nay đã không
mang tính cập nhật. Hiện nay, các tiêu chí lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra dựa trên
rủi ro đã được ngành thuế thay đổi, bổ sung tương đối nhiều. Phần giải pháp, các
tác giả chưa đề xuất các giải pháp trực tiếp có liên quan để nâng cao hiệu quả kiểm
tra, thanh tra thuế trong thời gian tới.
15
1.1.3. Các kết quả chính đã đạt được của các công trình liên quan và mối liên
hệ giữa các nghiên cứu này
Nghiên cứu các công trình này, các tác giả đã đề cập ở mức độ nhất định về
lý luận và thực tiễn của hoạt động kiểm tra thuế và thanh tra thuế nói chung. Các lý

luận dẫn dắt cho các công trình này là gần giống nhau (ví dụ: phân biệt sự giống và
khác nhau giữa kiểm tra và thanh tra thuế, phương pháp, nội dung, các nguyên
tắc…của kiểm tra thuế, thanh tra thuế) với một số phương pháp nghiên cứu truyền
thống đã được áp dụng, cho một số kết quả tích cực đối với việc đổi mới hoạt động
kiểm tra, thanh tra thuế toàn ngành nói chung hoặc từng CQT địa phương nói riêng
(Hà Nội, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Tiền Giang, Hưng Yên, Cầu Giấy, Hà Nam, Thái
Bình, Nam Định…). Các tác giả luận văn hầu hết là những người làm việc liên quan
đến việc xây dựng chính sách, xây dựng luật hoặc những nhà quản lý, điều hành hệ
thống thuế của Việt Nam. Các nghiên cứu của các tác giả đã có đóng góp một phần
học thuật và thực tiễn đối với nghiên cứu kiểm tra, thanh tra thuế trong quản lý thuế
ở Việt Nam.
Hầu hết các công trình đều nghiên cứu chung về kiểm tra thuế, thanh tra thuế
(lý luận, thực trạng và giải pháp). Các đề tài khai thác khía cạnh đổi mới hoạt động
kiểm tra, thanh tra thuế dưới các góc độ khác nhau, ít nhiều đều có liên quan đến
hiệu quả của kiểm tra, thanh tra thuế. Các luận văn đều kế thừa các nghiên cứu
trước đó về hiệu quả kiểm tra, thanh thuế (ví dụ: các tiêu chí, các mặt hiệu quả).
Các giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế cũng được đề cập tương
đối khái quát, gián tiếp và đều thấy được tầm quan trọng của việc đổi mới và nâng
cao hiệu quả của kiểm tra, thanh tra thuế.
1.1.4. Các vấn đề chưa được nghiên cứu về hiệu quả thanh tra thuế
Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào riêng, độc lập về
thanh tra thuế và hiệu quả thanh tra thuế (đối với NNT là doanh nghiệp) trên phạm
vi toàn quốc mà nghiên cứu gộp hai nội dung về thanh tra, kiểm tra thuế nói chung
ở cấp độ luận văn thạc sĩ hoặc các công trình nghiên cứu dưới dạng bài báo nghiên
cứu công tác kiểm tra, thanh tra thuế ở một số địa phương, ở một số vấn đề hạn chế
nhất định của nội dung quản lý thuế.
16
Phạm vi của kiểm tra, thanh tra thuế rất rộng, tuy nhiên hầu hết các công
trình nghiên cứu của các tác giả trước đây đều nghiên cứu gộp chung lý thuyết về
kiểm tra, thanh tra thuế (trong đó bao gồm kiểm tra nội bộ và thanh tra giải quyết

khiếu nại tố cáo), trong khi phạm trù thanh tra thuế và kiểm tra thuế là khác nhau
về nội dung, chủ thể, phạm vi hoạt động… nên việc nghiên cứu gộp như vậy chưa
làm rõ và làm nổi bật được từng hoạt động trong công tác quản lý thuế. Thanh tra
thuế được xác định là mũi nhọn, kiểm tra thuế được coi là nền tảng của quản lý
thuế, do đó vị trí và tầm quan trọng của thanh tra thuế cần được nghiên cứu riêng
và sâu sắc hơn với cấp độ nghiên cứu cao hơn.
Đồng thời, hầu hết các công trình của các tác giả đã công bố trước đây đều
nghiên cứu chung về đổi mới kiểm tra, thanh tra thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ
của NNT, chưa có đề tài nào làm rõ lý luận về hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế
(các tiêu chí đánh giá hiệu quả, cách tính, cách áp dụng, ý nghĩa, các nhân tố ảnh
hưởng…), thực trạng hiệu quả kiểm tra, thanh thuế thời gian qua cũng như thiếu
các giải pháp cụ thể, trực tiếp, mang tính áp dụng để nâng cao hiệu quả kiểm tra,
thanh tra thuế.
Tác giả luận án nhận thấy: nghiên cứu về thanh tra thuế cần luôn đặt trong
mối liên hệ với thanh tra chuyên ngành vì theo quy định của Luật thanh tra số
56/2010/QH12 ngày 15/11/2010 (gọi tắt là Luật Thanh tra) thì thanh tra thuế thuộc
thanh tra chuyên ngành, chịu sự điều chỉnh của Luật Thanh tra chuyên ngành và
Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (gọi tắt là Luật Quản lý
thuế). Các nghiên cứu của các tác giả trước đây về kiểm tra, thanh tra thuế chưa
phân tích được mối liên hệ giữa thanh tra thuế và thanh tra chuyên ngành, chưa đặt
thanh tra thuế dưới sự điều chỉnh của Luật Thanh tra chuyên ngành. Do Luật Thanh
tra thay đổi, thẩm quyền của thanh tra thuế, quy trình thanh tra thuế, phương pháp
tiến hành thanh tra thuế… cũng thay đổi theo. Do đó, khi nghiên cứu về thanh tra
thuế cần có sự nghiên cứu và phân tích sâu sắc sự điều chỉnh, tác động của các Luật
liên quan (bao gồm cả các luật thuế) đến thanh tra thuế và hiệu quả của công tác
thanh tra thuế hiện nay.
Tóm lại, nghiên cứu các công trình của các tác giả trước đã công bố gần đây
cho thấy các tác giả chưa nghiên cứu thanh tra thuế nói chung và hiệu quả thanh tra
17
thuế nói riêng một cách sâu sắc, chuyên sâu và toàn diện, trên phạm vi toàn ngành.

Do đó, tác giả Luận án nhận thấy việc sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa và phân tích
làm rõ hơn một số vấn đề về lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả thanh tra NNT trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cần tiếp tục được
nghiên cứu, hoàn thiện, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay số lượng NNT gia tăng,
các thủ đoạn gian lận, trốn tránh thuế của NNT ngày càng tinh vi, phức tạp đòi hỏi
thanh tra thuế cần phải đi vào chiều sâu, chất lượng, hiệu quả.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là: “Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thanh tra thuế ở Việt Nam trong thời gian tới?”
Để trả lời được câu hỏi nghiên cứu trên, luận án cần phải trả lời được các câu
hỏi liên quan:
- Hiệu quả thanh tra thuế là gì? Thể hiện trên những mặt nào ?
- Các tiêu chí xác định hiệu quả thanh tra thuế gồm có những tiêu chí nào
(tiêu chí định tính, định lượng)?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng tới hiệu quả thanh tra thuế?
- Thực trạng hiệu quả thanh tra thuế thời gian qua đạt được và chưa đạt được
cái gì? Nguyên nhân của những hạn chế đó ?
- Để nâng cao hiệu quả thanh tra thuế đáp ứng cải cách hiện đại hóa thanh
tra thuế đến 2020 cần đưa ra yêu cầu gì ?
- Các giải pháp cụ thể có thể áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của
thanh tra thuế trong thời gian tới? Điều kiện để thực hiện các giải pháp?
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và theo tuyên ngôn của ngành thuế : “Minh
bạch- chuyên nghiệp- liêm chính và đổi mới”.
1.2.2. Sự khác biệt với các nghiên cứu khác
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về hiệu quả thanh tra
thuế ở Việt Nam với hàm lượng nghiên cứu lớn. Luận án khác các nghiên cứu khác
là phần lý luận đã phân tích khái quát, toàn diện, riêng biệt về thanh tra thuế và

hiệu quả thanh tra thuế, đưa ra một số lý luận mới về hiệu quả thanh tra thuế, nêu
cách tính cụ thể, ý nghĩa của các tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra thuế về mặt
18
định lượng và định tính, nêu bật được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thanh tra
thuế, các nhân tố ảnh hưởng này là mấu chốt để tác giả đề ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả thanh tra thuế trong thời gian tới.
Khác các luận án trước, luận án đánh giá một cách có hệ thống thực trạng
thanh tra thuế ở Việt Nam theo hai nhóm tiêu chí hiệu quả (định lượng và định
tính), phân tích các ưu điểm và hạn chế của yếu tố hiệu quả theo thứ tự các tiêu chí
hiệu quả, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế liên quan đến hiệu quả
thanh tra thuế.
Luận án đề xuất trực tiếp các giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra thuế
thông qua tác động, nâng cao các nhân tố làm nâng cao hiệu quả thanh tra thuế, hạn
chế các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực. Các giải pháp nhấn mạnh đến giải pháp nội tại
từ phía CQT (bộ phận thanh tra) thực hiện, coi việc nâng cao hiệu quả phải cải cách
từ chính cơ quan thuế chứ ít đề cập đến nhân tố NNT, đồng thời tác giả nêu lên
những điều kiện để thực hiện các giải pháp đó…là cách tiếp cận chưa được nghiên
cứu sâu, khoa học và có hệ thống ở các công trình nghiên cứu đã công bố. Đặc biệt,
việc kiến nghị nâng cao chất lượng cuộc thanh tra, cải tiến khâu lập kế hoạch thanh
tra thông qua việc áp dụng một số tiêu chí phân tích rủi ro, giám sát hoạt động
thanh tra thông qua việc áp dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thanh tra thuế, sắp
xếp lại bộ máy thanh tra thuế theo mô hình mới… là những giải pháp mang tính
khả thi, là những điểm rất khác biệt với các luận án khác trước đây.
19
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
HIỆU QUẢ THANH TRA NGƯỜI NỘP THUẾ
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THANH TRA THUẾ.
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm thanh tra thuế
2.1.1.1. Khái niệm

Thanh tra xuất phát từ nguồn gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là "nhìn
vào bên trong", chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một số
đối tượng nhất định. Theo Từ điển Pháp luật Anh - Việt động từ "inspect" có
nghĩa là "thanh tra" và được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê
đối với đối tượng bị thanh tra; còn theo nghĩa của danh từ “inspectorate” trong
Từ điển Anh- Anh- Việt "thanh tra" lại có nghĩa là một cơ quan, tổ chức, bộ
phận thanh tra ví dụ như ban thanh tra, cơ quan thanh tra… Từ điển Luật học
(tiếng Đức) giải thích "thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và
đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định - sự
tác động có tính trực thuộc".
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với vai trò là danh từ chung có thể
được hiểu là một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà nước về thanh tra để chỉ cơ
quan, tổ chức thanh tra hoặc bộ phận, lĩnh vực thanh tra nhất định.
Khái niệm thanh tra tồn tại từ khi có quản lý Nhà nước. Các quốc gia đều có
nhận thức chung: thanh tra là một loại hình, công cụ của quyền lực của Nhà nước.
Nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng thanh tra, nhưng với cách thức khác
nhau, đa phần, do cấu trúc Nhà nước hoặc cơ cấu kinh tế (thậm chí là quan niệm về
quyền lực) khác nhau nên cấu tạo hoạt động cũng như các tổ chức thanh tra cũng
khác nhau. Có nước chỉ sử dụng thanh tra Nhà nước (thanh tra của Quốc hội),
thanh tra của Chính phủ (thanh tra hành pháp), kiểm toán; có nước chỉ sử dụng thanh
tra chuyên ngành; có nước sử dụng thanh tra như một lực lượng cảnh sát (hoặc bán
cảnh sát) hoặc phân về các ngành quản lý để phục vụ quản lý; thậm chí có một số
quốc gia coi thanh tra là một loại hoạt động mang tính hiệp hội thám tử (detective)
20
Theo Từ điển tiếng Việt “thanh tra” được hiểu là “kiểm soát, xem xét tại
chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [13, tr1170], với nghĩa này,
thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm “xem xét và phát hiện, ngăn chặn những
gì trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: người
làm nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền hành của một
chủ thể nhất định.

Theo Giáo trình Nghiệp vụ (2008) của Trường Cán bộ Thanh tra: “Thanh tra
là một chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét,
đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; được thực hiện bởi một cơ quan
chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị các biện pháp khắc phục; phát huy
nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý Nhà
nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân” [52, tr.12]. Theo tác giả luận án, đây là một khái niệm tương đối
đầy đủ thể hiện bản chất của hoạt động thanh tra.
Thanh tra là hoạt động nhân danh quyền lực công tác động đến đối tượng
quản lý để nâng cao tính tuân thủ, bảo vệ pháp luật, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức. Tuỳ theo tính chất quản lý, ngành, lĩnh vực khác nhau và điều kiện cụ thể
ở mỗi nước mà người ta lựa chọn mô hình thanh tra khác nhau.
Ở nước ta, Hiến pháp Việt Nam ngày 18/12/1980 sử dụng thuật ngữ “thanh
tra” với một nội dung là một chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước. Hiến pháp
ngày 15/04/1992 (Điều 112) quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo
công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra Nhà nước…”
Theo Pháp lệnh thanh tra ngày 29/03/1990, hoạt động thanh tra của các tổ chức
thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước
Theo Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15/11/2010, thanh tra gồm có
thanh tra Nhà nước, thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
21
hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn –kỹ thuật, quy tắc quản lý
thuộc ngành, lĩnh vực đó” (Điều 3). Theo đó, Luật Thanh tra xác định thanh tra
chuyên ngành là một loại Thanh tra Nhà nước được thành lập theo ngành, lĩnh vực.
“Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan

thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục
thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”.
Theo Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ: Tổng
cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực thuế (Điều 6, Điều 7, Điều 8).
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính: “Thanh tra thuế là
hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của CQT đối
với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp
luật”[18, tr.491].
Từ việc tổng hợp, phân tích các khái niệm, luận án đưa ra khái niệm riêng về
thanh tra thuế:
Thanh tra thuế là một loại hình thanh tra chuyên ngành, theo đó CQT (chủ
thể quản lý) thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các đơn vị, tổ chức và
cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, xử lý các vi phạm
pháp luật thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT, đồng thời đề xuất hoàn thiện
cơ chế chính sách pháp luật thuế”.
2.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra thuế
Thanh tra thuế mang những đặc điểm chung giống đặc điểm của thanh tra
nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng, đó là:
Thứ nhất, thanh tra thuế luôn mang tính quyền lực của Nhà nước: là một
chức năng của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế, thanh tra thuế thực hiện
quyền lực của chủ thể quản lý (CQT) đối với đối tượng quản lý (NNT). Thanh tra
thuế “luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình hoạt động của
mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó”[52, tr.11].
Thứ hai, thanh tra thuế là một chức năng, một giai đoạn của chu trình quản
lý thuế. Thanh tra thuế là một là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế,
là khâu hậu kiểm, thực hiện tốt chức năng giám sát tuân thủ của CQT. Thanh tra
22
thuế có tác động tới hầu hết các giai đoạn của chu trình quản lý thuế: kê khai thuế,
tuyên truyền hỗ trợ và cưỡng chế nợ thuế. Xét theo chức năng của quản lý thuế thì

thanh tra thuế là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế là một hoạt động mang tính chuyên môn hóa cao,
được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ. Các bước công việc cụ thể để thực hiện
một cuộc thanh tra thuế được chuẩn hóa từng khâu, quy định trách nhiệm rõ ràng
cho từng bộ phận, từng cán bộ tham gia quy trình. Để có thể đáp ứng được quy
trình thanh tra thuế, đòi hỏi CBTT cũng phải được chuyên nghiệp, có trình độ cao,
nắm vững được chính sách, pháp luật, am hiểu về kế toán và phải có kỹ năng phân
tích, phát hiện, xử lý gian lận của đối tượng thanh tra.
Thứ tư, thanh tra thuế có tính độc lập tương đối: đây là đặc điểm vốn có,
xuất phát từ bản chất của thanh tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra thuế với các
bộ phận chức năng khác trong bộ máy quản lý thuế. Thanh tra thuế chủ động và
độc lập trong việc lập kế hoạch thanh tra, phân bổ nguồn lực thanh tra, trong việc
ra quyết định và kết luận thanh tra và độc lập trong cách quan hệ ứng xử với đối
tượng được thanh tra khi cần thiết. Thanh tra thuế là thanh tra chuyên ngành, trực
tiếp giúp việc cho Thủ trưởng CQT và chịu sự quản lý trực tiếp của Thủ trưởng
CQT và có tính chất độc lập tương đối.
Thứ năm, thanh tra thuế được tiến hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá
nhân hoạt động trong phạm vi điều chỉnh của các luật thuế, chịu sự quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực thuế: ví dụ đơn vị sản xuất kinh doanh, đơn vị hành chính sự
nghiệp, tổ chức chính trị, xã hội…. Đây chính là điểm khác giữa hoạt động thanh
tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra hành chính (Thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối
với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp).
Thanh tra thuế khác với thanh tra các lĩnh vực khác ở một số nội dung có thể
phân biệt được như sau:
Thanh tra thuế được tiến hành dựa vào các quy định của các luật thuế và luật
quản lý thuế hiện hành, có thể vận dụng một số luật liên quan khi tính toán nghĩa
vụ thuế phải nộp của NNT.
Đo đặc điểm của NNT- đối tượng được thanh tra thuế- tương đối rộng, hoạt
động ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau vì vậy đòi hỏi kiến thức sử dụng

trong thanh tra thuế phải bao quát và đa dạng.
23
Thanh tra thuế không chỉ chấn chỉnh việc thực thi pháp luật mà còn nhằm
mục đích chống thất thu, góp phần làm tăng thu cho NSNN. Qua thanh tra thuế,
CQT truy thu vào NSNN số thuế thất thu, tiền phạt, tăng tỷ lệ đóng góp vào
NSNN.
Thanh tra thuế không chỉ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong lãnh thổ Việt Nam mà còn tác động đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế.
2.1.1.3. Phân biệt giữa thanh tra thuế với kiểm tra thuế
(Việc phân biệt thanh tra và kiểm tra thuế ở đây được ngầm hiểu là phân biệt
theo Pháp luật Việt Nam hiện hành, trong phạm vi giới hạn ở Việt Nam).
Trong thực tế, người ta thường hay nhầm lẫn giữa khái niệm thanh tra thuế
và kiểm tra thuế, do đó, cần phân biệt điểm giống và khác nhau giữa hoạt động
thanh tra thuế và kiểm tra thuế trong CQT.
Kiểm tra thuế “là hoạt động của CQT xem xét tình hình thực tế của đối
tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối
tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá”. [18, tr.491]
Về mặt lý luận và thực tiễn, thanh tra thuế và kiểm tra thuế là hai hoạt động
không thể thiếu được của công tác lãnh đạo, quản lý của CQT nhằm đảm bảo pháp
luật về thuế được thực thi đúng đắn và hiệu quả.
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau:
Một là, thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của
quản lý thuế. Thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều có cùng một mục đích là phát
hiện, ngăn ngừa, xử lí những vi phạm pháp luật thuế, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý thuế, thúc đẩy NNT tự giác tuân thủ pháp luật thuế, qua đó kiến nghị hoàn
thiện cơ chế quản lí thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của NNT.
Hai là, đối tượng của thanh tra thuế, kiểm tra thuế là NNT nói chung, bao

gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Ba là, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều có nội dung là kiểm tra việc chấp
hành pháp luật thuế của NNT.
24
Bốn là, về phương pháp, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt
động thực tế của đối tượng thanh tra để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng
đối tượng thanh tra một cách chính xác, khách quan, xử lí vi phạm, chỉ ra nguyên
nhân để NNT có biện pháp khắc phục.
Năm là, hoạt động thanh tra thuế, kiểm tra thuế không chỉ được thực hiện ở
một khâu trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các khâu của
quy trình quản lý thuế.
* Tuy nhiên, giữa thanh tra thuế và kiểm tra cũng có sự khác nhau nhất định:
Thứ nhất, chủ thể của thanh tra thuế là bộ phận chuyên trách về công tác
thanh tra thuộc CQT, còn chủ thể của kiểm tra thuế thường đa dạng hơn so với chủ
thể của thanh tra thuế, bao gồm bộ phận thanh tra thuế, bộ phận kiểm tra thuế và
các bộ phận chức năng khác.
Thứ hai, về phạm vi hoạt động: kiểm tra thuế thường có phạm vi rộng, diễn
ra liên tục, ở nhiều khâu với hình thức đa dạng, còn phạm vi hoạt động của thanh
tra thuế thường hẹp hơn. Thanh tra thuế thường có sự chọn lọc, đôi khi thông qua
kiểm tra thuế có thể thấy những dấu hiệu phức tạp mà nếu cứ tiến hành kiểm tra
thuế thì không làm rõ được, bởi vậy, cần chọn ra những nội dung nào đó để thanh
tra thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế thường kiểm tra những vấn đề đã xảy ra ở trong quá
khứ, khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, hoàn thành, còn nội dung của kiểm tra
thuế có thể là những vấn đề hiện tại, đang xảy ra. Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao
gồm cả những nội dung cụ thể của kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau
khi các hoạt động kinh tế phát sinh.
Thứ tư, thời gian để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn so với
thời gian một cuộc kiểm tra thuế do tính chất các vụ việc tiến hành của thanh tra
thuế phức tạp, tinh vi.

Thứ năm, về hình thức tổ chức: thanh tra thuế bắt buộc phải thành lập đoàn
thanh tra, phải có quyết định thanh tra còn kiểm tra thuế đôi khi không thành lập
đoàn kiểm tra và không cần có quyết định kiểm tra.
Thứ sáu, về trình độ nghiệp vụ: thanh tra thuế đòi hỏi cán bộ thuế phải có
nghiệp vụ giỏi, am hiểu tình hình kinh tế- xã hội, có khả năng chuyên sâu vào lĩnh
25
vực thanh tra hướng đến do nội dung thanh tra thuế thường là những vấn đề phức
tạp, bản chất vấn đề thường được che giấu có chủ ý nên khó nhận biết. Còn nội
dung của hoạt động kiểm tra thuế ít phức tạp hơn nên không nhất thiết đòi hỏi trình
độ nghiệp vụ như thanh tra thuế.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra các nhận xét sau: Thanh tra thuế và
kiểm tra thuế- mặc dù có sự phân biệt nhưng chỉ là tương đối; khi tiến hành cuộc
thanh tra thuế, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ, thao tác nghiệp vụ
đó thực chất là kiểm tra thuế. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra thuế để làm rõ
vụ, việc lại chọn lựa được những nội dung đưa vào thanh tra thuế.
Việc phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành để
tránh sự chồng chéo giữa thanh tra và kiểm tra, giảm phiền hà cho các tổ chức cá
nhân là đối tượng thanh tra và kiểm tra, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
thanh tra, kiểm tra.
Tóm lại, thanh tra thuế và kiểm tra thuế là hai khái niệm khác nhau nhưng có
liên hệ qua lại, gắn bó và đều là những hoạt động không thể thiếu trong công tác
quản lý thuế.
2.1.2. Vai trò của thanh tra thuế.
Thanh tra thuế đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu của
CQT, đó là chống thất thu thuế, phát hiện ra các gian lận, sai sót, khuyến khích
NNT tuân thủ tự nguyện, phát hiện ra những bất cập của chính sách thuế để kiến
nghị sửa đổi cho phù hợp Nhìn chung, thanh tra thuế có những vai trò chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, thanh tra thuế góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà

nước trong lĩnh vực thuế.
Nhà nước thực hiện quản lý thuế thông qua hệ thống các luật, các chính
sách, chế độ quản lý để điều chỉnh các quan hệ và thậm chí có thể cưỡng chế các tổ
chức và cá nhân trong xã hội phải tuân thủ nhằm bảo vệ các lợi ích của Nhà nước.
Trong đó thanh tra thuế được sử dụng như một công cụ để đảm bảo pháp luật thuế
được thực thi nghiêm túc, quyền và lợi ích Nhà nước, của NNT được bảo đảm.
Thanh tra thuế nhằm kiểm soát việc chấp hành pháp luật thuế của NNT, giúp phòng

×