Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quan hệ Thương mại Việt Mỹ và vấn đề xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ - 7 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.05 KB, 12 trang )

kế mẫu mã, khả năng bán hàng theo phương thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm,
liên kết mạng lưới bạn hàng trong việc cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may,
Nhà nước vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu tư, ưu đãi thuế, khuyến khích
sản xuất mặt hàng mới.
Đối với hàng giày dép: Thị trường Mỹ rất coi trọng các tiêu chuẩn về kỹ
thuật đòi hỏi chất lượng rất cao. Hàng hoá phải được phía Mỹ kiểm tra rồi mới
chấp nhận cho nhập. Việc ký kết Hiệp định thương mại vừa qua, Nhà nước chỉ mới
tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong quá trình trao
đổi thương mại, còn bản thân các doanh nghiệp phải tự lo liệu hết các khâu từ việc
tìm đối tác, tìm nhu cầu sản phẩm trên thị trường tới việc thoả thuận giá cả, làm
hàng mẫu Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp tìm được đối tác và bắt đầu sản
xuất hàng mẫu, chỉ chờ khi Hiệp định được thông qua là sẽ xuất khẩu. Một số ít
doanh nghiệp da giày có sản phẩm giày xuất khẩu sang thị trường Mỹ hoặc qua đối
tác trung gian xuất khẩu sang Mỹ sẽ có điều kiện mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và
tăng kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có
điều kiện xuất khẩu số lượng lớn sang Mỹ sẽ giãn bớt ở thị trường EU và trước
mắt tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp của ta duy trì và phát triển sản
xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp giày
Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao trình độ
quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trường vào Mỹ.
Hiện nay, ngành Da giày Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn,
đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trung Quốc. Trình độ kỹ thuật, quản lý sản xuất chưa cao, chi phí lớn làm cho giá
thành cao, điều này rất bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Phần lớn các
doanh nghiệp của ta còn phụ thuộc vào đối tác gia công nên việc thâm nhập thị
trường Mỹ chưa chủ động. Đối với số đông các doanh nghiệp, việc hiểu biết các
quy định, các luật trong thương trường Mỹ còn ít. Nếu các doanh nghiệp ngành Da
giày không nhanh chóng có kế hoạch đầu tư chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng
công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập được vào thị


trường Mỹ khó tính nhưng nhiều triển vọng về lâu dài này.
Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển
dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng
xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về
ngành thực phẩm và da giày để hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối ưu, bao
gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến
sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng
yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ
Tổng công ty Da giày Việt Nam đã thành lập và hoạt động được một thời
gian; bởi vậy, cần đúc rút những kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề
ra phương hướng đầu tư phù hợp trong thời gian tới.
Tổng công ty Da giày đã và đang đầu tư xây dựng mới từ 2 đến 3 nhà máy
sản xuất mũ giày phục vụ sản xuất giày xuất khẩu. Các trường hợp đầu tư mở rộng
trong ngành giày nên được hưởng ưu đãi (theo Luật khuyến khích đầu tư trong
nước như đối với đầu tư xây dựng cơ sở mới).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư thì không bắt buộc phải có
vốn tự có tương đương 30% khoản vay. Đề nghị hạ mức này xuống 10% hoặc bãi
bỏ hoàn toàn điều kiện này. Ngân hàng sẽ tư thẩm định dự án đầu tư và cho vay
dựa trên những tính toán về hiệu quả đầu tư.
Đối với hàng thuỷ sản: Theo các chuyên gia, để có thể trụ vững ở thị trường
này, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng
nâng cao chất lượng bởi hệ thống kiểm soát chất lượng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự
cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhập từ nước khác là vô cùng quyết liệt.
Về chất lượng, theo quy định của Mỹ, tất cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước
ngoài vào Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm chế biến, trong đó có hàng thuỷ
sản, đều phải qua khâu kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ của Cơ quan Kiểm soát
chất lượng thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Mặt khác, riêng đối với mặt hàng
thuỷ sản, Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát HACCP (chương trình
kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng của riêng nước này), chứ không chấp nhận

bất cứ một tiêu chuẩn nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng được coi là
rất khắt khe của Liên minh Châu âu (EU). Chính vì vậy, hiện chỉ có 25 doanh
nghiệp Việt Nam xây dựng được tiêu chuẩn chế biến thủy, hải sản theo chương
trình HACCP có thể xuất sang thị trường Mỹ, trong khi đó có rất nhiều doanh
nghiệp khác mặc dù đã được EU đưa vào danh sách nhóm 1 (được xuất trực tiếp
sản phẩm thuỷ hải sản sang toàn bộ 15 nước EU mà không cần kiểm tra), nhưng
vẫn không được thị trường này chấp nhận. Ngay cả khi đặt chân vào thị trường
Mỹ, hàng Việt Nam vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với rất nhiều sản phẩm của các
nước khác như Thái Lan và các nước AESAN khác cùng có mặt trên thị trường
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
này. Theo một số doanh nghiệp đã và đang có mặt trên thị trường Mỹ, nếu xét về
chất lượng, hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam hoàn toàn không thua kém so với các
nước khác, song do phải chịu thuế suất đầu vào cao (20- 40%), nên giá thành bị
đội lên quá cao, khiến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm đáng kể. Các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải xây dựng cho được tiêu chuẩn hệ thống kiểm
soát chất lượng theo chương trình HACCP. Nhưng đó mới là “ tiêu chuẩn đầu
vào”. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy
đủ các thông tin về thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng Mỹ, trên cơ sở đó
xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nước khác, vừa được
người tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình”.
Bộ Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội chế biến thuỷ sản đã xác
định rõ là để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, trước hết phải nâng cao chất lượng và
tính cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời phải tăng cường xúc tiến thương mại để
mở rộng thị trường.
Ngành thuỷ sản đã sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống
mới về quản lý chất lượng sản phẩm như để từng bước thay thế các phương thức
kiểm soát chất lượng truyền thống. Từ năm 1991, thuỷ sản Việt Nam đã tiếp cận
với hệ quản lý chất lượng của Mỹ đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang các thị
trường lớn và khó tính như Mỹ, EU. Cụ thể, Bộ thuỷ sản đã có quy định là từ ngày

1/1/2000, tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản trong nước bắt buộc phải áp dụng các
tiêu chuẩn này.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm
máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều
triển vọng mà ta với Mỹ có những tương đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà
nước cần có các biện pháp mạnh mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ
tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Thị phần của thương mại điện tử ở Mỹ đang
trên đà tăng trưởng mạnh và trong một số năm tới có thể lên đến hàng ngàn tỷ
USD mỗi năm.
II.các giảI pháp từ phía nhà nước .
Để hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu, Nhà nước cần tạo môi
trường quốc tế thuận lợi cho kinh doanh, hình thành hành lang pháp lý song
phương và đa phương Đối với riêng thị trường Mỹ, Nhà nước cần có các biện
pháp hỗ trợ sau để giúp các doanh nghiệp tiến vào thị trường này:
2. Cải cách hệ thống ngân hàng.
Ngành ngân hàng Việt Nam là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế, nổi bật là đẩy
lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, làm nòng
cốt trong huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp để chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường ở quy mô lớn hơn trong
và ngoài nước, hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng Mỹ trong quan hệ đại lý ngân
hàng như vay vốn ngoại tệ, điều tra khách hàng Mỹ, xác nhận L/C, thanh toán
quốc tế để hỗ trợ và phục vụ có hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam tham
gia kinh doanh với Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.
Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, chúng ta cần hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng, từng bước nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP lên ngang bằng các nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trong khu vực (tỷ lệ này của Việt Nam hơn 32%, các nước khoảng 50%). Hạ thấp
chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản “Có” xuống tương đương với mức bình
quân của khu vực (tỷ lệ này của Ngân hàng Thương mại Việt Nam là 9%, các nước

trong khu vực khoảng 2,5-3%). Tiếp đến là hình thành các thị trường chứng khoán
để đáp ứng nhu cầu thu hút vốn trong và ngoài nước; tận dụng các nguồn tài trợ
thương mại, nguồn vốn vay của các ngân hàng nước ngoài để cho các doanh
nghiệp vay kinh doanh sản xuất và xuất khẩu. Và cuối cùng là lành mạnh hoá hệ
thống tài chính tiền tệ, cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, tăng cường tiềm lực tài
chính, khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của ngân hàng trước những biến động
của thị trường trong nước và quốc tế.
2. Tăng cường quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại.
Bộ Thương mại và một số bộ ngành có liên quan cần thành lập các nhóm
nghiên cứu thị trường Mỹ, tập trung vào các vấn đề như môi trường pháp luật,
hàng hoá, kinh doanh, giá cả, phương thức tiếp cận thị trường Mỹ để giúp đỡ các
doanh nghiệp Việt Nam .
Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững
nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh
tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật
Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hạn ngạch của Mỹ. Mỹ
có một hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật
Thương mại (Uniform Commerical Code) được coi như xương sống của hệ thống
pháp luật về thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp rất cần những thông tin hỗ trợ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
này từ phía Nhà nước, đặc biệt các doanh nghiệp chưa xuất khẩu sang thị trường
Mỹ lần nào và chuẩn bị thâm nhập thị trường này.
Hoạt động xúc tiến thương mại nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu trên
cơ sở giảm chi phí về thời gian và tiền của cho các doanh nghiệp, cụ thể gồm các
giải pháp sau:
- Đưa vào Website những thông tin có giá trị thương mại để quảng cáo cho
các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Tập hợp các nhu
cầu xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam, đảm bảo hàng hoá nhập khẩu là công nghệ
tiên tiến và mang lại hiệu quả cao cho phát triển kinh tế đất nước.
- Tổ chức hội chợ triển lãm theo nhu cầu của các doanh nghiệp Việt Nam

và Mỹ muốn thâm nhập thị trường của nhau và chuẩn bị các phương án làm ăn lâu
dài sau khi có Quy chế Tối huệ quốc.
- Tổ chức mạng lưới du lịch Việt Nam - Mỹ một cách có hiệu quả, phục vụ
tốt các nhu cầu của giới kinh doanh và du khách, trong đó tổ chức các chuyến đi
khảo sát thị trường cho các doanh nghiệp.
- Thành lập Quỹ xúc tiến thương mại do Nhà nước và doanh nghiệp cùng
đóng góp. Quỹ này lập tài khoản riêng không nằm trong ngân sách của Bộ tài
chính, chuyên dùng cho mục đích xúc tiến thương mại.
Để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các biện pháp và chính sách chung, đối với thị
trường Mỹ cần lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn
như NewYork, Los Angeles, San Francisco, Chicago tạo cầu nối và giảm chi phí
giao dịch cho các công ty Việt Nam . Các trung tâm này có thể do Nhà nước ta bảo
trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều, hoặc kết hợp giữa một số doanh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày, giao dịch giới thiệu và ký
hợp đồng.
Để hoạt động xúc tiến thương mại gặt hái được thành công, Việt Nam cần
tăng cường khả năng tiếp cận với các thông tin thương mại. Chính những thông tin
thương mại này cho phép một chuyên gia có thể chuyển một tiềm năng xuất khẩu
thành một hoạt động giao dịch kinh doanh thực sự. Đó là thiết lập các mối quan hệ
trong kinh doanh, thông tin về các kênh phân phối, hiếu biết về bản chất của cạnh
tranh trong nước và nước ngoài và cuối cùng là sở thích của người tiêu dùng.
Về vai trò của Đại diện thương mại ở nước ngoài, họ là phương tiện quan
trọng tạo điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thương
mại. Việt Nam cần tập trung tìm cách tăng cường hệ thống đó. Việc bố trí đội ngũ
tuỳ viên thương mại là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể không có và
chúng ta cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho việc thiết lập các Ban Đại
diện thương mại của mình ở nước ngoài.
3. Thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu (HTXK).
Mục tiêu chính của Quỹ HTXK là trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng phát

triển xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng do
không có tài sản thế chấp. Quỹ HTXK sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay, cung
cấp các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu để các doanh nghiệp đầu
tư công nghệ hiện đại và bảo đảm vốn lưu động.
II. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường
Mỹ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong quan hệ kinh tế-thương mại Việt-Mỹ, Nhà nước chỉ có tác dụng tạo
ra một khuôn khổ pháp lý ổn định và môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các
doanh nghiệp. Việc tận dụng và phát huy được những lợi thế của mình hay không
là phụ thuộc vào các doanh nghiệp. Sau đây là các giải pháp đối với các doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu:
1. Giải pháp về vốn.
Thành lập các tập đoàn công ty lớn hoặc liên kết các công ty có quy mô nhỏ để sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ lực trên quy mô sản xuất lớn, có khả năng
cạnh tranh cao, tạo ra nguồn cung cấp hàng hoá xuất khẩu ổn định và lâu dài, đáp
ứng được nhu cầu đặt hàng nhanh với số lượng lớn của các đối tác Mỹ.
Thực tiễn cho thấy đối với mặt hàng dệt may, Mỹ không đặt đơn hàng lẻ. Một đơn
hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất
nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên
cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng.
Quy mô sản xuất của ta hiện nay còn quá nhỏ để có thể cạnh tranh vì sản
xuất còn phân tán theo vùng và sản xuất thủ công là chính nên giá thành còn cao,
chất lượng chưa đồng đều và sức cạnh tranh kém. Để khắc phục nhược điểm này,
chúng ta cần tổ chức lại sản xuất ở quy mô hợp lý, kết hợp sử dụng lao động lành
nghề và giản đơn, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, đưa hệ thống sản xuất
của ta vào định hướng xuất khẩu các loại hàng hoá mà các đối tác nước ngoài cần
chứ không phải dựa vào những gì mình có, cố gắng tận dụng phát huy những lợi
thế so sánh của mình để tăng khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Để có quy mô sản xuất lớn hai yếu tố chính là vốn và thị trường. Vì vậy việc thu
hút vốn là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh nhưng nếu thiếu thị trường thì cũng
không thể tăng quy mô sản xuất.
Trung bình một công ty quy mô vừa ở Mỹ vào khoảng 100 triệu USD doanh số.
Các công ty dưới mức này thường liệt vào dạng nhỏ. Các công ty siêu quốc gia
cũng đang trên đường hội nhập và đang có xu thế sáp nhập để nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, về vốn cần phát huy nội lực là chính, đồng
thời có thể dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước, các tổ chức
tài chính, các nguồn viện trợ, các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, các nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc tiếp cận vốn trên thị trường chứng khoán. Kinh
doanh càng phát triển sẽ tích luỹ được nhiều vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về thị trường, các doanh nghiệp phải dựa một phần lớn vào hệ thống toàn cầu mới
giải quyết được trên cơ sở hội nhập tiểu khu vực, khu vực, châu lục, liên châu lục
và toàn cầu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên cơ sở giá thành hạ, chất
lượng cao thì mới có khả năng mở rộng, giữ vững và phát triển thị trường. Sau khi
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, cánh cửa thị trường Mỹ sẽ được mở
rộng với các hàng hoá xuất khẩu nếu như các doanh nghiệp của ta có khả năng sản
xuất được các mặt hàng đạt tiêu chuẩn chất lượng được phía bạn chấp nhận, giá cả
mang tính cạnh tranh.
2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hóa
của mình, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc nâng cao chất
lượng là việc giảm giá thành, đa dạng hóa mẫu mã, cải tiến bao bì sao cho phù
hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho
thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu kém của
hàng hóa của mình bởi vì còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh
tranh của sản phẩm như các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi suất, thuế khóa) và

các yếu tố vi mô (quy trình sản xuất, kinh nghiệm quản lý của từng doanh nghiệp).
Vì vậy trong tình hình hiện nay, do các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp
cần chủ động vạch ra chiến lược cạnh tranh dài hạn cho hàng hóa của mình bằng
cách tạo ra nét độc đáo cho sản phẩm dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân
trong ngành cũng như hợp lý hóa quy trình sản xuất.
Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, nền sản xuất nhỏ như ở Việt Nam có
những điểm lợi thế tương đối là giá nhân công rẻ và có thể đầu tư thêm công nghệ
để dần nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng cũng phải thấy rằng chỉ có thể làm
thuê gia công và làm vệ tinh cho các công ty lớn mà thôi. Muốn vươn lên tự chủ
cần phải tính đến quy mô sản xuất hợp lý, cần có vốn, nhân lực, công nghệ và thị
trường là những yếu tố quan trọng nhất.
3. Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, tiếp thị.
Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các
thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua Hội
thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt được nhu
cầu của thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kinh doanh, chủ động tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và
xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan
quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ giá, trợ cấp.
Việc tham gia các hội chợ triển lãm nhất là ở nước ngoài có thể gặp khó khăn về
kinh phí do giá thuê gian hàng đắt. Vì vậy các doanh nghiệp có thể chủ động nắm
bắt thông tin qua Thương vụ Việt Nam tại nước sở tại hoặc Cục Xúc tiến thương
mại thuộc Bộ Thương mại hoặc nối mạng Internet để từ đó có thể tìm được những
bạn hàng tin cậy, nắm bắt được tương đối chính xác nhu cầu thị trường đối với
hàng hóa của mình cũng như khả năng cung cấp của thị trường đó, giá cả, chất
lượng cho những mặt hàng mà doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu để
phục vụ sản xuất và kinh doanh trong nước.
Trước khi ra quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, một bước quan trọng không
thể bỏ qua là phải nghiên cứu kỹ thị trường và đánh giá nghiêm túc thực lực của

doanh nghiệp, sức cạnh tranh của sản phẩm, khả năng tiếp thị và tiềm lực tài chính.
Việc lựa chọn đúng hình thức xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhanh
chóng có chỗ đứng trên thị trường đầy tiềm năng này. Để vào được thị trường Mỹ
các doanh nghiệp có thể xuất khẩu gián tiếp qua đại lý. Khi đã quyết định xuất
khẩu hàng hoá sang Mỹ, phương án tối ưu là phải vạch ra được chiến lược để thực
hiện xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát
được toàn bộ quá trình xuất khẩu, thiết lập được quan hệ trực tiếp với mạng lưới
tiêu thụ và người tiêu dùng.
Tổng kết kinh nghiệm của các công ty nước ngoài cho thấy, con đường tiến tới
chinh phục thị trường Mỹ là phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×