Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH HÀ GIANGNếu các bạn tìm trong Wikipedia, google, cổng ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.58 KB, 34 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH HÀ GIANG


Nếu các bạn tìm trong Wikipedia, google, cổng thông tin điện tử Hà
Giang sẽ thấy nhưng rất chung chung, nay mình xin được dùng chút kiến
thức chuyên môn biên tập thêm cho các bạn cùng tìm hiểu, cảm ơn đã
dành thời gian đọc bài này.
Thân ái!

I. KHÁI QUÁT CHUNG

Lịch sử

Tỉnh Hà Giang được thành lập ngày 20/8/1891 và tái thành lập ngày
1/10/1991. Vị trí địa lý: Là tỉnh miền núi cao, nằm ở cực Bắc của tổ
quốc, phía bắc giáp với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây – Trung Quốc với
đường biên giới dài 274km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía
Đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự
nhiên là 7.884,37km2


Đất Hà Giang xưa thuộc bộ Tân Hưng, một trong 15 bộ của nước Văn
Lang. Về sau, Hà Giang nằm trong phạm vi thế lực của ba Tộc tướng xứ
Thái. Trong giai đoạn Minh thuộc đầu thế kỷ 15, được gọi là huyện Bình
Nguyên, đổi thành châu Bình Nguyên từ năm 1473, sau lại đổi tên thành
châu Vị Xuyên.

Vào cuối thế kỷ 17, tộc trưởng người Thái dâng đất cho Trung Hoa, đến
năm 1728, Trung Hoa trả lại cho Đại Việt một phần đất từ vùng mỏ Tụ
Long đến sông Lô. Năm 1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như
trên bản đồ ngày nay.



Trước năm 1975, Hà Giang có các huyện Đồng Văn, Vị Xuyên, Xín
Mần, Yên Minh, Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Thanh Thủy và Quản Bạ.

Riêng miền núi thì chia thành châu và trại và vùng đất Hà Giang lúc đó
thuộc về châu Bình Nguyên. Vào đầu thời Trần, bộ máy hành chính từ
Trung ương đến địa phương được xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ
và khu vực Hà Giang – Tuyên Quang được gọi là châu Tuyên Quang, lộ
Quốc Oai. Năm 1397 thì đổi thành trấn Tuyên Quang. Năm 1407 sau khi
sâm chiếm nước ta, nhà Minh đổi châu này thành phủ Tuyên Hoá và đến
năm 1408 thì đổi lại là phủ Tuyên Hoá.

Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, để củng cố và tăng
cường chế độ Trung ương tập quyền, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành
5 đạo, dưới đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu và cuối cùng là cấp xã.
Vùng đất Hà Giang – Tuyên Quang lúc đó thuộc vào Tây đạo. Đến
năm1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đạt
nơi đây là thừa tuyên Tuyên Quang.

Năm 1940 lại đổi là xứ Tuyên Quang gồm huyện Phù Yên ( sau đổi là
Hàm Yên), 5 châu (Thu sau đổi là Thu Châu, Đại Nam – sau đổi là
Chiêm Hoá, Vị Xuyên, Bảo lạc và L?c Yờn) và phủ An Bình. Đến đời
Hồng Thuân (1509- 1526), đổi xứ Tuyên Quang thành trấn Minh Quang.
Thời Lê Trung Hưng, Qua sử sách cho thấy, khu vực Hà Giang vùng
phía Nam, phía Tây và một phần vùng phía Bắc thuộc châu Vị Xuyên,
phần còn lại phía Đông và một phần phía Bắc thuộc châu Bảo Lạc

Năm 1802, Gia Long thiết lập vương triều Nguyễn, đổi đặt xứ thành trấn
và xứ Tuyên Quang thành trấn Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ
12 (năm 1831) triều đình nhà Nguyễn thực hiện cải cách hành chính đổi

trấn thành tỉnh, đổi một số châu thành huyện và sách động thành xã. Từ
lúc này trấn Tuyên Quang mới được gọi là tỉnh Tuyên Quang. Năm
1842 thì chia tỉnh Tuyên Quang thành 3 hạt bao gồm Hà Giang, Bắc
Quang và Tuyên Quang

Tuy địa danh Hà Giang được nhắc đến lần đầu tiên trong bài minh khắc
trên chuông chùa Sùng Khánh xã Đạo Đức – Vị Xuyên đúc trong dịp
trùng tu chùa từ đầu thời vua Lê Dụ Tông (năm 1705) nhưng t?nh Hà
Giang thì mới có vào ngày 20/8/1891 với quy?t định của toàn quyền
éông Dương Đờ Lanétxăng. Theo quyết định này, Hà Giang lúc đó gồm
có phủ Tường Yên và huyện Vĩnh Tuy. Năm 1928, theo tài liệu của Ngô
Vi Liễn, Hà Giang có hai châu (Bắc quang, Vị Xuyên), 2 đại lý (Đồng
Văn, Hoầng Su Phì) với 13 tổng và 80 xã.

Sau cách mạng tháng 8 - 1945, Hà Giang là một đơn vị hành chính cấp
tỉnh trong cơ cấu hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ hai, ngày 27-
12-1975, hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được hợp nhất thành tỉnh
Hà Tuyên vào đầu tháng 4-1976. Sau đó, đến ngày 12-8-1991, tại kỳ họp
thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã ra nghị quyết chia tỉnh Hà Tuyên thành Hà
Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hà Giang được tái lập từ đó và giữ nguyên
địa danh cho đến nay. Hiện tại Hà Giang có 11 huyện thị bao gồm: thị xã
Hà Giang, các huyện Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì,
Quản Bạ, Quang Bình, Vị Xuyên, Xín Mần, và Yên Minh, với 195 xã
phường thị trấn.
Đơn vị hành chính

Tỉnh Hà Giang bao gồm 1 thành phố và 10 huyện:
Thành phố Hà Giang 5 phường và 3 xã

Huyện Bắc Mê 1 thị trấn và 12 xã
Huyện Bắc Quang 2 thị trấn và 21 xã
Huyện Đồng Văn 2 thị trấn và 17 xã
Huyện Hoàng Su Phì 1 thị trấn và 25 xã
Huyện Mèo Vạc 1 thị trấn và 17 xã
Huyện Quản Bạ 1 thị trấn và 12 xã
Huyện Quang Bình 15 xã
Huyện Vị Xuyên 2 thị trấn và 22 xã
Huyện Xín Mần 1 thị trấn và 18 xã
Huyện Yên Minh 1 thị trấn và 17 xã
Tỉnh Hà Giang có 196 đơn vị cấp xã bao gồm 5 phường, 12 thị trấn và
179 xã
Thống kê đến ngày 30/06/2004 Tỉnh Hà Giang số xã/phường/thị trấn:
102; xã: 84, phường: 9, thị trấn: 9

II. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ- ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-TÀI NGUYÊN THIÊN
NHIÊN


1.Vị trí địa lí

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp
tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp
tỉnh Tuyên Quang. Về phía Bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc
Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc
thuộc tỉnh Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Hà Giang, mảnh đất địa đầu cực Bắc của Việt Nam, nơi có những ngọn
núi cao lưng trời và nhiều sông suối.


Với diện tích 7.884,37 km2. phía bắc và tây bắc giáp nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa, có đường biên giới dài 274 km; phía đông giáp
tỉnh Cao Bằng; phía tây giáp tỉnh Lào Cai, Yên Bái; phía nam giáp tỉnh
Tuyên Quang. Tại điểm cực bắc Lũng Cú của lãnh thổ thuộc tỉnh Hà
Giang có vĩ độ 23015’00”, điểm cực nam có vĩ độ 2101’0”. Điểm cực
tây tại Xín Mần có kinh độ 104024'05 và mỏm cực đông tại Mèo Vạc có
kinh độ l05030’04”.

Bao đời nay, Hà Giang luôn là phên giậu phía bắc của Tổ quốc. Trong
tiến trình của lịch sử, vùng đất Hà Giang đã qua nhiều lần thay đổi về
cương vực và tên gọi. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà
Giang có 4 châu và 1 thị xã (Bắc Quang, Vị Xuyên, Đồng Văn, Hoàng
Su Phì, Thị xã Hà Giang). Ngày nay, Hà Giang có 10 huyện thị; với 22
dân tộc anh em cùng sinh sống.

2. Điều kiện tự nhiên

Địa hình

Do cấu tạo địa hình phức tạp, thiên nhiên tạo ra và ưu đãi cho Hà Giang
một nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên và khoáng
sản Từ những đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình Hà Giang được
chia thành ba vùng với những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác
biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng đó là:

- Vùng I: Là vùng cao núi đá phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo
Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Diện tích toàn vùng là 2.352,7 Km2, dân số
trên 20 vạn người chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do điều kiện khí
hậu rét đậm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc
phát triển các loại cây ôn đới như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; Cây

ăn quả như mận, đào, lê, táo Cây lương thực chính ở vùng này là cây
ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong.

Những giống gia súc trên đây là giống riêng của vùng ôn đới, có đặc
điểm to hơn và chịu được rét đến cả độ âm. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ
phát triển vụ hè - thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô và hoa bạc hà. Mật
ong hoa bạc hà là thứ mật ong đặc biệt có giá trị trong việc chữa bệnh và
bồi dưỡng sức khoẻ.

- Vùng II: Là vùng cao núi đất phía tây gồm các huyện Hoàng Su Phì và
Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km2, dân số chiếm 15,9%. Điều
kiện tự nhiên vùng này thích hợp cho việc phát triển cây trẩu và cây
thông lấy nhựa. Cây lương thực chính vùng này là lúa nước và ngô.

Chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và các loại gia cầm.Vùng này là
vùng đất của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là người Dao -
Một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời.

- Vùng III: Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc
Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà
Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km2, dân số chiếm 49,8%.

Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận lợi cho
việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu giấy như bồ đề,
mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất trong tỉnh
Ngoài ra đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như cam,
quýt, chanh

Khí hậu


Khí hậu: mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa vùng cao, mang nhiều sắc
thái khí hậu ôn đới.
Là tỉnh miền núi cao nên khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa, lạnh
rõ rệt so với vùng thấp và trung du kế cận. Về nhiệt độ, tháng nóng nhất
(tháng 6 và 7), nhiệt độ trung bình năm 1999 là 28,10C (trạm Hà Giang),
28,30C (trạm Bắc Quang), 27,350C (trạm Bắc Mê). Nhiệt độ tháng thấp
nhất (tháng l): 15,60C (trạm Hoàng Su Phì). Dao động nhiệt ngày và
đêm ở các thung lũng diễn ra mạnh mẽ hơn vùng đồng bằng.

Chế độ mưa ở đây nhìn chung khá phong phú. Lượng mưa hàng năm đạt
2.860 mm. Bắc Quang là nơi có lượng mưa nhiều nhất, có khi vượt quá
mức 4000 mm và số ngày mưa cũng đạt tới 180 đến 200 ngày/năm.

Hà Giang là một trong những vùng có độ ẩm cao và duy trì hầu như các
mùa trong năm. Lượng mây trung bình khoảng 7,5/10, tập trung cao
nhất là cuối mùa đông lên tới 8 – 9/10 và tương đối ít nắng. Cả năm có
l.427 giờ nắng, tháng nhiều nhất chỉ đạt 181 giờ, tháng ít nhất 74 giờ.

Nơi đây có hiện tượng mưa phùn, sương mù và sương muối. Nét nổi bật
của khí hậu Hà Giang là duy trì độ ấm trong năm cao, mưa nhiều và kéo
dài, nhiệt độ mát và lạnh, ấm hơn vùng đông bắc nhưng lạnh hơn miền
Tây bắc.

Do đặc trưng khí hậu đã tạo điều kiện tốt giúp cây trồng phát triển. Bên
cạnh những thuận lợi, về mùa đông và mùa xuân vùng cao có nơi có
sương muối, băng giá, gió lạnh, không có mưa gây thiếu nước, vào mùa
hè lại có những đợt mưa kéo dài gây lũ quét làm ảnh hưởng đến sản xuất
và đời sống.

Những thuận lợi và bất lợi về thời tiết, khí hậu trong tỉnh diễn ra có tính

quy luật khách quan mà con người chưa đủ khả năng chế ngự để thay
đổi các điều kiện tự nhiên, chỉ có lợi dụng tối đa những thuận lợi và hạn
chế mức độ thiệt hại do điều kiện bất lợi để bố trí có hiệu quả kế hoạch
sản xuất và tổ chức tốt đời sống cho nhân dân trên địa bàn.

Những đặc điểm về địa hình và khí hậu khiến cho Hà Giang có các loại
rừng nhiệt đới. Sử sách ghi chép rằng, cho đến cuối thế kỷ XIX, trên đất
Hà Giang rừng rậm phủ kín mọi khu vực từ vùng thấp đến vùng cao.

Rừng có nhiều loại cây cho gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dược liệu
quý như Tam thất, Đỗ trọng, Xuyên khung, . nhiều loại cây cho củ,
cho quả, có thể nuôi sống con người, có loại cây cho nhựa làm chất gắn,
chất thắp sáng, làm chất nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây. Các
động vật quý hiếm như hổ, báo, sơn dương cùng nhiều loại chim quý.
Như vậy, rừng Hà Giang là cả một quần thể thực vật, động vật phong
phú.

Song các loại rừng kể trên đến nay chỉ còn lại rất ít, được phân bố không
đều ở vùng cao, vùng xa dân cư, ở những nơi núi thấp chỉ còn lại các vạt
rừng tre, nứa, hoặc được bao phủ bởi lau, sậy, cỏ tranh.

* Sinh thái:

Hà Giang một địa danh du lịch với những cảnh quan thiên nhiên hùng
vĩ, những nét sinh hoạt truyền thống lâu đời đặc sắc của đồng bào các
dân tộc mà nhiều khách du lịch còn chưa biết đến. Một trong những thế
mạnh khác của Hà Giang chính là tài nguyên du lịch sinh thái.

Trước hết phải kể đến thảm thực vật phong phú và đa dạng cùng nhiều
chủng loại động vật quý hiếm, chính đây là nguồn lợi đáng kể đóng góp

vào kinh tế địa phương đồng thời cũng là tiềm năng để xây dựng những
khu bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học. Hà Giang được xếp vào hệ
thống các khu bảo tồn thiên nhiên điển hình của hệ rừng núi đá điển hình
của đông bắc Việt Nam.

Bên cạnh những thảm động thực vật phong phú ở những huyện vùng
thấp tạo nên dáng vẻ và cảnh quan hấp dẫn cho du khách khi mới lên tới
Hà Giang thì cảnh quan vùng cao ở Hà Giang cho đến nay vẫn mang
đậm nét hoang sơ, thuần khiết.

Đấy là một địa hình karst tiêu biểu với bạt ngàn những dãy núi đá tai
mèo nhấp nhô ở các huyện phía Bắc, hay những dãy núi đất hùng vĩ với
những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau ở những huyện miền Tây và
cùng cả một hệ thống những thác nước, hang động đẹp không chỉ có giá
trị về cảnh quan mà còn chứa đựng những dấu ấn di tích lịch sử, khảo cổ
học.

Bên cạnh đó Hà Giang nổi tiếng được biết đến với những cổng trời cao
vời vợi mà đến đó ta có cảm giác như đang cưỡi mây cưỡi gió và thấy
minh thật nhở bé trước thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Tất cả đang chờ đợi
du khách khám phá khi đến với Hà Giang

3. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên đất

Bên cạnh đó thổ nhưỡng ở Hà Giang khá phong phú với 9 nhóm đất
chính, trong đó nhóm đất xám chiếm diện tích lớn nhất với 585.418 ha
(chiếm 74,28%) diện tích tự nhiên. Đấy là nhóm đất thích hợp để trồng
và phát triển các loại cây ăn quả cây công nghiệp và cây dược liệu.


Nhìn chung đất đai của Hà Giang còn dồi dào, trong chiến lược phát
triển tổng thể sử dụng đất đai của tỉnh, ngoài diện tích cần dành để sử
dụng vào mục đích đô thị hoá, công nghiệp hoá, xây dựng kết cấu hạ
tầng như đường giao thông thuỷ lợi, trường học thì diện tích đất chưa
sử dụng còn khoảng 400.000 ha (chiếm trên 50% tổng diện tích tự nhiên
của tỉnh), trong đó có khoảng 300.000 ha là đồi núi, đất rất phù hợp cho
việc trồng cây nguyên liệu giấy như thông, mỡ, bồ đề , trồng cây công
nghiệp dài ngày như chè, cà phê, quế các cây dược liệu như đỗ trọng,
thảo quả , cây ăn quả có múi như cam, quýt, lê, mận đào, thảo quả

Tài nguyên nước

Do địa hình phức tạp đã tạo cho Hà Giang có nhiều sông, suối, hồ phục
vụ đời sống cư dân và thuận tiện cho tưới tiêu đồng ruộng.

Ngoài những sông chính chảy qua địa phận tỉnh Hà Giang là sông Lô,
bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua Thanh Thuỷ, Thị xã Hà
Giang và sông Gâm bắt nguồn từ Trung Quốc qua Cao Bằng, Bắc Mê
chảy xuống Tuyên Quang, còn có một số sông ngắn và nhỏ chảy trong
tỉnh như đoạn nguồn sông Chảy, sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc,
sông Chừng cùng với nhiều suối to, nhỏ nằm xen giữa núi rừng.

Sông ở Hà Giang có độ nông sâu không đều, độ dốc lớn nhiều thác
ghềnh, không thuận lợi cho giao thông đường thuỷ, nhưng đó cũng là
nguồn nước chính phục vụ cho sinh hoạt, tưới tiêu đồng ruộng, đảm bảo
môi trường sinh thái.

Tài nguyên rừng


Do đặc trưng khí hậu đã tạo điều kiện tốt giúp cây trồng phát triển. Bên
cạnh những thuận lợi, về mùa đông và mùa xuân vùng cao có nơi có
sương muối, băng giá, gió lạnh, không có mưa gây thiếu nước, vào mùa
hè lại có những đợt mưa kéo dài gây lũ quét làm ảnh hưởng đến sản xuất
và đời sống.

Những thuận lợi và bất lợi về thời tiết, khí hậu trong tỉnh diễn ra có tính
quy luật khách quan mà con người chưa đủ khả năng chế ngự để thay
đổi các điều kiện tự nhiên, chỉ có lợi dụng tối đa những thuận lợi và hạn
chế mức độ thiệt hại do điều kiện bất lợi để bố trí có hiệu quả kế hoạch
sản xuất và tổ chức tốt đời sống cho nhân dân trên địa bàn.

Những đặc điểm về địa hình và khí hậu khiến cho Hà Giang có các loại
rừng nhiệt đới. Sử sách ghi chép rằng, cho đến cuối thế kỷ XIX, trên đất
Hà Giang rừng rậm phủ kín mọi khu vực từ vùng thấp đến vùng cao.
Rừng có nhiều loại cây cho gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dược liệu
quý như Tam thất, Đỗ trọng, Xuyên khung, . nhiều loại cây cho củ,
cho quả, có thể nuôi sống con người, có loại cây cho nhựa làm chất gắn,
chất thắp sáng, làm chất nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây.

Các động vật quý hiếm như hổ, báo, sơn dương cùng nhiều loại chim
quý. Như vậy, rừng Hà Giang là cả một quần thể thực vật, động vật
phong phú. Song các loại rừng kể trên đến nay chỉ còn lại rất ít, được
phân bố không đều ở vùng cao, vùng xa dân cư, ở những nơi núi thấp
chỉ còn lại các vạt rừng tre, nứa, hoặc được bao phủ bởi lau, sậy, cỏ
tranh.

Cho đến nay, nhờ nhiều nỗ lực, diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là
262.956,9 ha, rừng trồng 21579,7 ha góp phần đưa diện tích tự nhiên
được che phủ lên 36, 1%.


Diện tích đất trống đồi núi trọc có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp
còn tới 326.887,3 ha. Kế hoạch và khả năng tái sinh rừng đang được
thực hiện tích cực, trồng mới 19.157 ha và 18,5 triệu cây phân tán, chú
trọng trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, đưa độ che phủ lên 50% vào
những năm tới là một hiện thực góp phần bảo vệ môi trường sinh thái
của địa phương.

* Thảm động - thực vật

Do đặc trưng khí hậu đã tạo điều kiện tốt giúp cây trồng phát triển. Bên
cạnh những thuận lợi, về mùa đông và mùa xuân vùng cao có nơi có
sương muối, băng giá, gió lạnh, không có mưa gây thiếu nước, vào mùa
hè lại có những đợt mưa kéo dài gây lũ quét làm ảnh hưởng đến sản xuất
và đời sống.

Những đặc điểm về địa hình và khí hậu khiến cho Hà Giang có các loại
rừng nhiệt đới. Sử sách ghi chép rằng, cho đến cuối thế kỷ XIX, trên đất
Hà Giang rừng rậm phủ kín mọi khu vực từ vùng thấp đến vùng cao.
Rừng có nhiều loại cây cho gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dược liệu
quý như Tam thất, Đỗ trọng, Xuyên khung, . nhiều loại cây cho củ,
cho quả, có thể nuôi sống con người, có loại cây cho nhựa làm chất gắn,
chất thắp sáng, làm chất nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây. Các
động vật quý hiếm như hổ, báo, sơn dương cùng nhiều loại chim quý.

Như vậy, rừng Hà Giang là cả một quần thể thực vật, động vật phong
phú. Song các loại rừng kể trên đến nay chỉ còn lại rất ít, được phân bố
không đều ở vùng cao, vùng xa dân cư, ở những nơi núi thấp chỉ còn lại
các vạt rừng tre, nứa, hoặc được bao phủ bởi lau, sậy, cỏ tranh.
Đến nay, nhờ nhiều nỗ lực, diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 262.956,9

ha, rừng trồng 21579,7 ha góp phần đưa diện tích tự nhiên được che phủ
lên 36, 1%.

Diện tích đất trống đồi núi trọc có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp
còn tới 326.887,3 ha. Kế hoạch và khả năng tái sinh rừng đang được
thực hiện tích cực, trồng mới 19.157 ha và 18,5 triệu cây phân tán, chú
trọng trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, đưa độ che phủ lên 50% vào
những năm tới là một hiện thực góp phần bảo vệ môi trường sinh thái
của địa phương.

Tài nguyên khoáng sản

Do cấu tạo địa chất phức tạp, trong quá trình thành tạo lòng đất, Hà
Giang đã hình thành nhiều mỏ khoáng. Nguồn khoáng sản trong đất Hà
Giang tuy chưa được điều tra có hệ thống toàn diện và chưa có mỏ nào
được thăm dò chi tiết.

Với tiềm năng cho thấy trữ lượng khoáng sản nhiên liệu, gồm có sắt ở
dạng manhetit - hematit - sunfua ở Tùng Bá (Bắc Mê), mănggan ở vùng
Đồng Tâm, chì ở Bằng Lang (Bắc Quang), thiếc còn ở dạng sa khoáng,
còn mỏ thì tìm thấy ở Việt Lâm và Nà Moi; chì - kẽm ở Tùng Bá (Bắc
Mê); mỏ than ở Phố Bảng (Đồng Văn); vàng sa khoáng tập trung ở
nhiều nơi, gặp nhiều ở sông Lô và sông Gâm các tài nguyên này hiện
nay chưa có điều kiện khai thác và, chưa xác định được trữ lượng.

II. DÂN CƯ VÀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI

1.Dân cư

Dân số: Trên 680.000 người.

Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng về
bản sắc văn hoá. Trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm
24,9%, Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%

mật độ trung bình khoảng 90 người/km2 , tuy nhiên mật độ dân số
không đồng đều sự chênh lệch mật độ giữa thành thị và nông thôn là rất
lớn. Sự tăng nhanh dân số ở Hà Giang nói chung và các dân tộc thiểu số
nói riêng trước hết liên quan tới mức sinh đẻ tương đối cao của các cư
dân ở đây, bên cạnh đó cũng phải kể đến một bộ phận không nhỏ nhân
dân các tỉnh miền xuối lên khai hoang phát triển vùng kinh tế mới tại Hà
Giang trong những thời kỳ khác nhau và đặc biệt là trong những thập kỷ
gần đây.

Qua những cứ liệu khảo cổ học cho thấy Hà Giang là một vùng đất cổ,
từ lâu đã có người sinh sống, có lịch sử văn hoá lâu đời. Trong quá trình
phát triển của lịch sử, Hà Giang là nơi hội tụ của các dân tộc di cư từ
nhiều vùng đất khác nhau vào các thời điểm khác nhau. Có những dân
tộc thiểu số là đông nhất cả nước, nhưng cũng có những dân tộc ít người
nhất cả

nước và chỉ có ở Hà Giang, tất cả đã làm nên diện mạo văn hoá nhân
văn ở Hà Giang rực rỡ, đa sắc màu tạo nên những nét độc đáo và riêng
biệt mà chỉ có ở Hà Giang

Theo số liệu thống kê 2008, hiện nay ở Hà Giang có tất cả là 22 dân tộc
thuộc 6 nhóm ngôn ngữ khác nhau, đông nhất là người Hmông (chiếm
tới trên 30% dân số), sau đến người Nùng, Tày, Dao, Kinh, Giáy, La
Chí, Hoa Hán, Pà Thẻn, Ngạn, Cờ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu Péo,
Mường, Cao Lan, Thái, Sán Dìu.


Các nhóm ngôn ngữ và các dân tộc tiêu biểu của Hà Giang bao gồm:
- Nhóm ngôn ngữ Mông Dao, gồm các dân tộc: Mông, Dao, Pà thẻn
- Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Giáy, Bố Y
- Nhóm ngôn ngữ Ka - Đại, gồm các dân tộc: La chí, Cờ lao, Pu Péo
- Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, gồm các dân tộc: Lô Lô, Phù Lá
- Nhóm ngôn ngữ Hán, gồm dân tộc: Hoa
- Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, gồm dân tộc: Kinh

Cũng như các dân tộc thiểu số ở nước ta, các dân tộc thiểu số ở Hà
Giang có đặc điểm là cư trú phân tán và xen kẽ. Mỗi dân tộc có thể phân
bố ở nhiều điạ phương khác nhau trong tỉnh, nhưng cũng có nhưng dân
tộc chỉ phân bố ở những khu vực nhất định.

Đời sống dân cư: Tăng trưởng GDP đạt tốc độ tăng trưởng cao, giai
đoạn 2001-2005 đạt bình quân 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu
người năm 2005 khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện- đường -
trường - trạm được tập trung đầu tư đáp ứng được nhu cầu của người
dân. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ nghèo từ 26% xuống còn
15%.

2.Điều kiện kinh tế xã hội

tỷ Cơ cấu kinh tế: Đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông –
lâm nghiệp, tăng trọng công nghiệp và dịch vụ.

Hà giang là vùng miền núi nên dân số trong tỉnh không đông, đồng bào
Kinh chiếm đa số, còn lại là đồng bào các sắc dân Thổ, Mèo, Tày, Dao,
Mán, Nùng, Giấy và Lô Lô. Phần đông đều thờ cúng tổ tiên, thần linh;
và đều có những sắc thái văn hóa đặc thù.


Một trang trại ở Hà Giang, tiêu biểu cho mô hình nông-lâm kết hợp.
Cũng vì địa thế toàn rừng núi nên kinh tế Hà Giang tương đối kém phát
triển. Lâm sản chính là vài loại gỗ quý như lát hoa, lát da đồng; và các
loại gỗ cứng như lim, sến, trai, táu, đinh. Củ nâu, vầu, nứa ở đâu cũng
có.

Nông sản gồm lúa, ngô, khoai và các loại đậu đỗ. Vùng chân núi Tây
Côn Lĩnh trồng nhiều trà. Dân chúng cũng trồng cây ăn trái, mận và lê ở
vùng Đồng Văn, Hoàng Su Phì rất nổi tiếng. Nghề nuôi ong lấy mật khá
thịnh hành. Rừng Hà Giang có nhiều động vật hoang dã như phượng
hoàng, trăn, rắn, công, trĩ

Khoáng sản có mỏ chì, đồng, thủy ngân và cát trộn vàng. Sông Năng và
Bảo Lạc có các kỹ nghệ lọc vàng nhưng vẫn còn thô sơ, ngoài ra chỉ
toàn những tiểu công nghệ sản xuất vật dụng hàng ngày. Nền thương
mại Hà Giang chỉ giới hạn ở sự trao đổi lâm sản với miền xuôi và với
Trung Quốc.
Các vùng núi thấp như Vị Xuyên, Bắc Quang có kinh tế phát triển hơn
vùng núi.

Dựa vào sông Lô và lượng mưa lớn, các ngành nông nghiệp ở khu vực
này rất phát triển, không kém gì vùng núi trung du. Nơi đây có vùng
trồng cam sành nổi tiếng, những cánh đồng phì nhiêu


III. DU LỊCH

Thắng cảnh và Di tích

Hang Phương Thiện: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) xuôi về

phía nam. Đây là nơi có nhiều phong cảnh, nhiều hang động tự nhiên.
Các loại quả đặc sản: mận, lê, cam, táo và các loại chè tuyết san cổ thụ
mọc trên độ cao 900 m (2.700 ft).

Hang Chui: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) về phía nam.
Hang ăn sâu vào lòng núi khoảng 100 m (300 ft). Cửa hang hẹp phải
lách người mới qua được. Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang cao
vút, nhiều nhũ đá rủ xuống đủ mọi hình thù. Đặc biệt hang có nhiều dơi,
có dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác.

Động Tiên và Suối Tiên: Động cách thành phố Hà Giang 2 km (1.25
dặm). Động có Suối Tiên rất đẹp. Tương truyền xưa, các tiên nữ vẫn
thường xuống động này để tắm vào dịp Tết nên được đặt tên là Động
Tiên. Nhân dân quanh vùng vẫn thường đến Động Tiên lấy nước và cầu
may mắn vào lúc giao thừa.

Động Én: Động cách thành phố Hà Giang 60 km (37,5 dặm) thuộc địa
phận huyện Yên Minh. Từ thành phố Hà Giang qua cổng trời Quản Bạ,
qua những cách rừng thông sẽ tới động Én. Hang động còn mang nhiều
nét hoang sơ nhưng đẹp.

Đồng Văn - "Cổng Trời": Là một huyện vùng cao biên giới của Hà
Giang. Độ cao vùng khoảng 1.000 m (3.000 ft) so với mặt biển, địa hình
hầu như chỉ thấy núi đá. Huyện lỵ cách thành phố Hà Giang 146 km
(91,25 dặm) giao thông rất khó khăn. 9 trong 19 xã thuộc huyện có
đường biên giới với Trung Quốc.

Mùa đông nhiệt độ có lúc xuống đến 1 °C, nhưng mùa hè nóng nhất chỉ
khoảng 24 °C. Bầu trời hầu như quanh năm mưa và mù nên ở đây người
dân có câu: "thấy nhau trong tầm mắt, gặp nhau mất nửa ngày" và "đất

không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng". Đồng Văn có điểm cực
bắc của Việt Nam tại xã Lũng Cú.

Người ta nói rằng nếu chưa lên Lũng Cú thì coi như chưa đến Đồng
Văn, bởi Lũng Cú là "nóc nhà của Việt Nam" nơi mà "cuối mặt sát đất,
ngẩng mặt đụng trời". Đồng Văn nổi tiếng về trái ngon quả ngọt: đào,
mận, lê, táo, hồng về dược liệu: tam thất, thục địa, hồi, quế Đồng
Văn còn nổi riếng về phong cảnh như núi non, hang động, những rừng
hoa đủ sắc màu

Thung lũng Quản Bạ
Núi đá Mèo Vạc, đèo Mã Pí Lèng

Núi Đôi (Thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà
Giang) Danh thắng Núi Đôi thuộc thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ,
huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

Cách thành phố Hà Giang 46km về phía Bắc. Khi vượt qua cổng trời
Quản Bạ, du khách có dịp dừng chân chiêm ngưỡng Núi Đôi Quản Bạ,
với “đôi gò Bồng Đào” do thiên tạo thật cân đối, quyến rũ. Đây thực sự
là một cảnh quan karst độc đáo của thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ và
của cả khu vực cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc.

Cũng bắt đầu từ đây là cánh đồng Quản bạ thấp, phẳng, vì thế càng tạo
không gian thoáng đãng cho “đôi gò” nhô cao, bay bổng. Theo đánh giá
của các nhà khoa học địa chất thì Núi Đôi được cấu tạo bằng đá
Đôlômít. Do quá trình phong hóa đá lăn đồng đều theo sường núi làm lùi
dần sườn và hạ thấp dần đỉnh núi. Cuối cùng tạo nên hình nón như hiện
nay.


Đá Đôlômít bị phong hóa (do quá trình tự vỡ) thành các hạt sạn và cát
rất dễ dàng di chuyển theo sườn xuống dưới chân do trọng lực và nước
chảy tràn trong mùa mưa. Đặc biệt, còn đóng vai trò trọng trong việc
hình thành hình nón của Núi Đôi nói riêng và của các ngọn núi có hình
chop nón nói chung là có sự đan xen của các đứt gãy, hướng khác nhau
làm đá bị phá hủy dễ dàng hơn.

Núi Đôi thuộc kỷ Đệ Tứ - có niên đại cách ngày nay khoảng 1,6 triệu
đến 2 triệu năm trở lại đây. Ngoài Núi Đôi ra còn có một mực cao hơn
gồm các đồi dạng nón được hình thành theo con đường tương tự nhưng
ở giai đoạn cổ hơn, thể hiện rõ nhất là ba ngọn núi đang tồn tại ở khu
vực thị trấn Tam Sơn hiện nay. Danh thắng Núi Đôi Quản Bạ xếp hạng
quốc gia ngày 16/11/2009.

Thành phố Hà Giang: Thành phố Hà Giang là một thành phố đẹp nằm
trong một thung lũng, bốn bên là núi, có dòng sông Lô chảy qua thành
phố. Thành phố Hà Giang là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của
tỉnh. Thành phố có khu di chỉ khảo cổ học Đồi Thông nằm ngay trong
lòng thành phố, nơi đây đã tìm thấy hàng ngàn di vật từ thời tiền sử và
được xác định là một trong những vùng văn hóa sớm nhất của Việt Nam.

Di tích kiến trúc nghệ thuật phố cổ Đồng Văn (Thị trấn Đồng Văn,
huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang) Từ thành phố Hà Giang ngược lên
phía Bắc theo đường quốc lộ 4C (Hà Giang – Đồng Văn) 155km là đến
phố cổ. Phố cổ Đồng Văn nằm ở thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang.

Phố cổ phân bố trên diện tích hơn 10.000 km2, bao gồm khu chợ và
những ngôi nhà thuộc hai thôn Quyết Tiến và Đồng Tâm. Trước đây, khi
chưa hình thành Phố cổ, mảnh đất thung lũng hình lòng chảo này cây cối

rậm rạp, nhà cửa dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
với ý đồ của chính quyền đô hô là xây dựng Đồng Văn trở thành một
trung tâm giao thương trên vùng cao nguyên đá, cũng thời kỳ này Phố cổ
được hình thành và xây dựng.

×