Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khuynh hướng đề cao tính chân thực và tình cảm tự nhiên trong quan niệm văn học thế kỉ XVIII-XIX pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.95 KB, 5 trang )

Khuynh hướng đề cao tính
chân thực và tình cảm tự
nhiên trong quan niệm văn
học thế kỉ XVIII-XIX




Sáng tác văn học ra đời trong bối cảnh Nho giáo không còn được đề cao và
tinh thần duy vật, khoa học đã chừng mực nào phát triển, do đó văn học không thể
chỉ giáo huấn đạo đức suông mà phải tăng cường chức năng nhận thức của nó. Văn
học phải nhận thức cuộc sống và phản ánh cuộc sống. Đó là những chuyển biến cơ
bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX so với các giai
đoạn trước đó. Những tác phẩm văn học của giai đoạn này không phải nhằm thuyết
lý cho một nguyên tắc đạo đức nào mà có khuynh hướng đề cao tình cảm tự nhiên
của con người. Thơ văn thời kỳ này có giá trị nhận thức và phản ánh rõ rệt. Chinh
phụ ngâm được sáng tác do nhà thơ cảm thời thế mà làm ra. Cung oán ngâm
khúc với những câu thơ dằn vặt, đau đớn không đem đến cho người đọc một sự giáo
hóa nào về đạo đức mà chỉ cho thấy sự mục ruỗng trên đà sụp đổ của xã hội phong
kiến. Thơ Hồ Xuân Hương là khát vọng được yêu, được sống, đồng thời là những
cảnh éo le, ngang trái trong cuộc đời người phụ nữ dưới chế độ phong kiến…
Sự biến chuyển về quan niệm văn học ở giai đoạn này không phải là ngẫu
nhiên, mà có những nguyên do từ sự phát triển theo một khuynh hướng mới của nền
văn học dân tộc trong thế kỷ XVIII, thậm chí từ thế kỷ XVI, XVII. Nền văn học
trung đại nước ta lấy tư tưởng Nho giáo làm nền tảng, với ý nghĩa lý tưởng nhất là
vua thi hành nhân nghĩa, kẻ sĩ tu thân, thần dân giữ đạo trung hiếu để ổn định trật
tự xã hội, giữ nền thái bình thịnh trị. Kẻ sĩ chuyển tải những đạo lý đó vào thơ văn
để góp phần xây dựng xã hội theo chí hướng chính thống của Nho giáo, xây dựng
nhân cách theo đạo Thánh hiền.
Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta, từ thế kỷ XVI, thế kỷ XVII và rõ ràng hơn
từ thế kỷ XVIII, Nho giáo đã dần rơi vào giai đoạn suy vi. Loạn lạc liên miên, cuộc


nội chiến kéo dài giữa đàng trong và đàng ngoài, khởi nghĩa nông dân xuất hiện ở
nhiều miền trên đất nước, v.v Các nhà Nho đã thất vọng về vai trò mà họ vẫn hằng
tin tưởng vào đạo Thánh hiền đối với sự nghiệp xây dựng quốc gia, xã hội và tu
dưỡng nhân cách. Sự vỡ mộng của tầng lớp tri thức nho sĩ đã dẫn đến những biến
chuyển về tư tưởng làm thay đổi quan niệm về bản chất và chức năng văn học. Sự
thay đổi của quan niệm văn học đã dẫn đến sự đổi mới trong đề tài văn học, nhân
vật văn học, ngôn ngữ văn học từ đó xuất hiện những thể loại văn học mới. Trong
tiến trình nền văn học trung đại nước ta, các thể loại văn học mang tính chức năng
như: kinh nghĩa, tứ lục, văn sách là những thể loại văn học thể hiện những quan
điểm chính thống của Nho giáo. Những đề tài truyền thống mà những thể loại văn
học mang tính chức năng đó chuyển tải là đề tài văn thể và khoa cử.
Nền văn học trung đại nước ta giai đoạn từ thế kỷ XV trở về trước có ý hướng
xây dựng con người theo hình mẫu thánh nhân. Ý hướng đó được thể hiện trong cả
thơ thiền và thơ nhà nho. Manh nha từ thế kỷ XVI, XVII và đến thế kỷ XVIII, XIX
mẫu hình chủ đạo của văn học nước ta là con người trần thế.
Văn học đời Lý mang nặng ảnh hưởng của Phật giáo. Nhiều tác phẩm văn học
là của các nhà sư. Và trong các tác phẩm văn học Phật giáo đời Lý, nhiều khi ta tìm
thấy những nội dung liên quan đến việc xây dựng nhân phẩm theo các hình mẫu
Thánh nhân với ý nghĩa tích cực và đề cập đến những vấn đề của đời sống xã hội,
của vận mệnh dân tộc, tức là vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo. Lý Thái Tổ trong
bài Chiếu dời đô đã nêu rõ “muốn đóng nơi trung tâm, mưu toan lập nghiệp lớn,
tính kế lâu dài cho con cháu muôn đời” với ý chí muốn xây dựng đất nước một cách
quy mô và phát huy quyền lực của chính quyền phong kiến trung ương.
Sang đến đời Trần, nền văn học có tính chất quan phương được dần hình
thành và ngày một rõ nét. Đặc biệt là vào thế kỷ XV, dưới thời Lê Thánh Tông, Nhà
nước phong kiến rất mực đề cao Nho giáo. Việc học tập và thi cử được tổ chức với
quy mô lớn. Đây là thời hoàng kim của Nho giáo ở nước ta. Chính sách văn hóa
giáo dục của Lê Thánh Tông nhằm mục đích củng cố ý thức hệ phong kiến và đào
tạo một đội ngũ quan liêu phục vụ bộ máy cai trị. Lê Thánh Tông đã hạ dụ khuyến
học, đã ca ngợi Nho giáo, nhấn mạnh tác dụng có tính chất nguyên lý đối với việc

hành đạo giúp đời của kinh điển Nho giáo. Dụ Khuyến học lưu ý rằng, các nho sinh
phải cần dùi mài kinh sử sao cho thật nhuyễn để được ghi danh bảng vàng, để được
đem văn chương tô điểm đạo vua, lấy đạo đức sinh hòa trị hóa. Giúp dân tôn chúa,
ân trạch khắp cả đương thời.
Trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca, vua Lê Thánh Tông đã khen ngợi hai mươi
tám vị văn thần của mình. Cho rằng tác phẩm văn chương của họ có lối “văn
chương khúc chiết mà khoáng dật, theo lối đời xưa, thân mật yêu chuộng những
người tài giỏi, để nối theo lời ca khuyên răn của đời Đường, đời Ngu”
Nói chung, văn học giai đoạn thế kỷ XV trở về trước chủ yếu nêu cao đức
giáo hóa, xây dựng con người theo mẫu hình thánh nhân với quy chuẩn và lý tưởng
của Nho giáo. Khi đó trật tự của xã hội phong kiến đang ổn định. Nho giáo đang
đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng nền thái bình thịnh trị với mô hình xã hội
vua sáng tôi hiền. Các nho sĩ bằng sáng tác thơ văn đã chuyển tải những đạo lý
cương thường của xã hội phong kiến và dùng thơ văn để tự tu dưỡng nhân cách kẻ
sĩ của mình. Nguyễn Trãi và các nho sĩ dưới thời Nho giáo hưng thịnh đã có một
quan niệm văn học ca ngợi và biểu dương cho chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến.
Nguyễn Trãi gắn liền văn học với ngôn luận của thánh hiền, với đức nhân nghĩa, với
đạo trung hiếu:
Văn chương chép lấy đôi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có chí, có anh hùng.
(Bảo kính cảnh giới)
Thân Nhân Trung khi bình phẩm bài thơ Thần tiết của Lê Thánh Tông có nói:
“Xưa nay các bậc vua giỏi tôi hiền đều ca ngợi lẫn nhau. Không có ông vua nào mà
không lấy sự trung, cần, tiết, nghĩa để khuyến khích bề tôi. Cũng không có bề tôi
nào mà lại không lấy những công nghiệp to lớn để mong mỏi đức vua. Tất cả đều
thể hiện ra thơ ca dưới nhiều hình thức”
(1)
.

Ở nước ta, từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, giai cấp phong kiến mặc dù là giai cấp
thống trị, nhưng về bản chất giai cấp vốn có của nó trong thời kỳ đó đã thực sự đại
diện cho quyền lợi của nhân dân, của dân tộc. Giai cấp phong kiến Việt Nam từ thế
kỷ X đến thế kỷ XV đã biểu hiện tính chất tiến bộ của mình ở những mặt như lãnh
đạo các cuộc kháng chiến cứu quốc chống bọn bành trướng phương Bắc xâm lược,
thống nhất tổ quốc, mở mang đất đai, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa…
Chính sách “khoan dân” và “thân dân” cũng được biểu hiện rất rõ trong thời kỳ này.

×