Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Xây dựng chiến lược phát triển mới trong thời đại toàn cầu hóa của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.59 KB, 90 trang )

Mục Lục
CHƯƠNG IV: Xây dựng, đánh giá, lựa chọn các phương án chiến lược 56
Lời kết: 88
Lời nói đầu
1
Lý do chọn đề tài:
Ngày nay không ai có thể phủ nhận vị trí quan trọng của ngành sữa trong nền
kinh tế, vì sản phẩm từ sữa là nguồn cung cấp nhiều giá trị dinh dưỡng cho xã hội,
nâng cao sức khỏe và trí tuệ cho con người.
Ở các nước phát triển có đời sống cao như Mỹ, các nước châu âu, châu úc,
công nghiệp chế biến sữa phát triển rất mạnh và phong phú. Mức tiêu thụ sữa và
các sản phẩm từ sữa ở các nước này tính trên bình quân đầu người rất cao từ 350-
450 lít sữa/ người/năm. Đối với các nước này , sản xuất đang hướng vào xuất khẩu,
do thị trường trong nước đã bão hòa.
Đối với các nước đang phát triển kinh tế, ngành sữa cũng đang tăng cao và
dần dần chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Theo Tổ chức Nông Lương
Liên hiệp quốc thì tăng trưởng ngành sữa ở các nước đang phát triển là trên 4% và
xu hướng này càng tăng nhanh so với các nước phát triển.
Công ty sữa Việt Nam ( Vinamilk) là một doanh nghiệp nhà nước, trực
thuộc Bộ Công Nghiệp, được thành lập từ năm 1976. Công ty đã hoạt động trong
cả hai cơ chế điều hành của nền kinh tế: nền kinh tế chỉ huy, kế hoạch hóa , bao
cấp và nền kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của chính phủ. Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh nghiệt ngã, công ty vẫn tiếp tục phát triển
với một số thành tích nhất định. Chẳng hạn sản phẩm ngày càng phong phú , đa
dạng về chủng loại, chất lượng, bao bì ngày càng được cải tiến, uy tín của sản
phẩm càng được biết đến trong đại đa số người tiêu dùng Việt Nam.
Trong hơn 30 năm qua, công ty đã chọn cho mình con đường phát triển đúng
hướng, các sản phẩm của công ty không những có thể cạnh tranh được với các sản
phẩm cùng loại trong nước , mà một số mặt hàng còn cạnh tranh được với nước
ngoài trên thị trường xuất khẩu.
2


Nhưng hiện nay một số vấn đề mới cũng đã phát sinh đối với các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và Vinamilk nói riêng. Cùng với sự hội nhập vào nền
kinh tế thế giới chúng ta đã gia nhập khối ASEAN, là thành viên của APEC và của
WTO. Chúng ta đang tham gia một sân chơi bình đẳng. Như vậy thị trường và nền
công nghiệp sữa của nước ta sẻ trãi qua những thử thách mới, và một trong những
thử thách đó chính là làm sao xây dựng một hệ thống thị trường trong nước và
ngoài nước phát triển một cách bền vững, đủ sức cạnh tranh với những đối thủ
mạnh từ nước ngoài.
Nhằm mục đích hỗ trợ phần nào cho ngành sữa Việt Nam mà Vinamilk là
đại diện, vượt qua những thử thách trên, nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối
thủ trong và ngoài nước , tôi đã chọn đề tài “Xây dựng chiến lược phát triển mới
trong thời đại toàn cầu hóa của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)” với
mong muốn xây dựng các chiến lược nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho Vinamilk
thông qua đó tìm ra những giải pháp để đáp ứng với những đòi hỏi đã nêu trên.
CHƯƠNG I : Tổng quan về Công ty VINAMILK
1. Khái quát ngành sữa Việt Nam: Vị trí ngành công nghiệp chế biến sữa,
tình hình sản xuất tiêu thụ sữa và các sản phẩm sữa hiện nay của Việt
Nam:
3
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển với mức tăng trưởng GDP năm
2007 rất cao, đạt 8,5% và dự đoán sẽ đạt 6,4% trong năm 2008. Tỷ lệ tăng trưởng
này cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2001-2005 và
là một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới vào thời điểm đó. GDP tính
trên đầu người của Việt Nam năm 2007 là 835USD, tăng 103 USD so với năm
2006 và dự kiến sẽ đạt 889 USD vào năm 2008.Ngoài ra, với thu nhập ngày càng
tăng, người tiêu dùng có xu hướng mua các sản phẩm tốt cho sức khỏe hơn như
sữa. Xu hướng tiêu thụ sữa ngày càng tăng đã giúp ngành công nghiệp sữa phát
triển mạnh trong những năm gần đây.
Theo số liệu từ Bộ Công nghiệp và Thương mại, sản lượng sữa tiêu thụ bình
quân của một người Việt Nam hiện nay là 8 lít/người/năm và có thể sẽ tăng đến 10

lít vào năm 2010. Đây là những con số khá khiêm tốn so với mức tiêu thụ sữa của
người Nhật 44 lít/năm,Singapore 33 lít/năm và Thái Lan 15 lít/năm. Vì vậy ngành
công nghiệp chế biến sữa được dự đoán sẽ phát triển mạnh trong tương lai. Đặc
biệt, các phân ngành có mức tăng trưởng vượt trội là sữa tươi (20%), sữa chua
(15%), sữa bột (10%) và kem (10%). Ngoài ra, chính phủ còn có kế hoạch đầu tư
vào các trang trại nuôi bò sữa và công nghệ chế biến sữa để tăng sản lượng sữa
tươi trong nước và giảm lệ thuộc vào sữa bột nhập khẩu.
1.1.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của VINAMILK.
1.1.1.lịch sử hình thành:
Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc
Bộ Công Nghiệp, được thành lập ngày 20/8/1976, trên cơ sở tiếp quản 6
nhà máy thuộc ngành nghề chế biến thực phẩm sau ngày miền nam
hoàn toàn giải phóng:
• Nhà máy sữa Thống Nhất
• Nhà máy sữa Trường Thọ
• Nhà máy sữa Dielac
• Nhà máy Café Biên Hòa
4
• Nhà máy Bột Bích Chi
• Nhà máy bánh kẹo Lubico
1978 : Công ty được chuyển cho Bộ Công Nghiệp thực phẩm quản lý
và Công ty được đổi tên thành Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I.
1988 : Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng trẻ
em tại Việt Nam.
1991 : Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa UHT và sữa chua ăn tại
thị trường Việt Nam.
1992 : Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I được chính thức
đổi tên thành Công ty Sữa Việt Nam và thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ
Công Nhiệp Nhẹ. Công ty bắt đầu tập trung vào sản xuất và gia công các sản
phẩm sữa.

1994 : Nhà máy sữa Hà Nội được xây dựng tại Hà Nội. Việc xây dựng
nhà máy là nằm trong chiến lược mở rộng, phát triển và đáp ứng nhu cầu thị
trường Miền Bắc Việt Nam.
1996 : Liên doanh với Công ty Cổ phần Đông lạnh Quy Nhơn để
thành lập Xí Nghiệp Liên Doanh Sữa Bình Định. Liên doanh này tạo điều
kiện cho Công ty thâm nhập thành công vào thị trường Miền Trung Việt
Nam.
2000 : Nhà máy sữa Cần Thơ được xây dựng tại Khu Công Nghiệp
Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tốt hơn của
người tiêu dùng tại đồng bằng sông Cửu Long. Cũng trong thời gian này,
Công ty cũng xây dựng Xí Nghiệp Kho Vận có địa chỉ tọa lạc tại : 32 Đặng
Văn Bi, Thành phố Hồ Chí Minh.
5
2003 : Chính thức chuyển đổi thành Công ty cổ phần vào tháng 12
năm 2003 và đổi tên thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam cho phù hợp với
hình thức hoạt động của Công ty.
2004 : Mua thâu tóm Công ty Cổ phần sữa Sài Gòn. Tăng vốn điều lệ
của Công ty lên 1,590 tỷ đồng.
2005 : Mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty
Liên doanh Sữa Bình Định (sau đó được gọi là Nhà máy Sữa Bình Định) và
khánh thành Nhà máy Sữa Nghệ An vào ngày 30 tháng 06 năm 2005, có địa
chỉ đặt tại Khu Công Nghiệp Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An.
* Liên doanh với SABmiller Asia B.V để thành lập Công ty TNHH
Liên Doanh SABMiller Việt Nam vào tháng 8 năm 2005. Sản phẩm đầu tiên
của liên doanh mang thương hiệu Zorok được tung ra thị trường vào đầu
giữa năm 2007.
2006 : Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh vào ngày 19 tháng 01 năm 2006, khi đó vốn của Tổng Công ty
Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước có tỷ lệ nắm giữ là 50.01% vốn điều lệ
của Công ty.

* Mở Phòng Khám An Khang tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng
6 năm 2006. Đây là phòng khám đầu tiên tại Việt Nam quản trị bằng hệ
thống thông tin điện tử. Phòng khám cung cấp các dịch vụ như tư vấn dinh
dưỡng, khám phụ khoa, tư vấn nhi khoa và khám sức khỏe.
* Khởi động chương trình trang trại bò sữa bắt đầu từ việc mua thâu
tóm trang trại Bò sữa Tuyên Quang vào tháng 11 năm 2006, một trang trại
nhỏ với đàn bò sữa khoảng 1.400 con. Trang trại này cũng được đi vào hoạt
động ngay sau khi được mua thâu tóm.
6
2007 : Mua cổ phần chi phối 55% của Công ty sữa Lam Sơn vào
tháng 9 năm 2007, có trụ sở tại Khu công nghiệp Lễ Môn, Tỉnh Thanh Hóa.
1.1.2. Tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi:
TẦM NHÌN
“Trở thành biểu tượng niềm tin số một Việt Nam về sản phẩm dinh dưỡng
và sức khỏe phục vụ cuộc sống con người “
SỨ MỆNH
“Vinamilk cam kết mang đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt nhất,
chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách nhiệm cao của mình
với cuộc sống con người và xã hội”
GIÁ TRỊ CỐT LÕI
Chính trực
Liêm chính, Trung thực trong ứng xử và trong tất cả các giao dịch.
Tôn trọng
Tôn trọng bản thân, tôn trọng đồng nghiệp. Tôn trọng Công ty, tôn trọng đối
tác. Hợp tác trong sự tôn trọng.
Công bằng
Công bằng với nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và các bên liên quan
khác.
Tuân thủ
7

Tuân thủ Luật pháp, Bộ Quy Tắc Ứng Xử và các quy chế, chính sách, quy
định của Công ty.
Đạo đức
Tôn trọng các tiêu chuẩn đã được thiết lập và hành động một cách đạo đức.
1.1.3. Thành tích đạt được:
Thời gian Danh hiệu
Cơ quan trao
tặng
1985 Huân chương lao động hạng III Chủ tịch nước
1991 Huân chương lao động hạng II Chủ tịch nước
1996 Huân chương lao động hạng I Chủ tịch nước
2000 Anh Hùng Lao động Chủ tịch nước
2001
Huân chương Lao động Hạng III cho 3 nhà
máy thành viên VNM là Dielac, Thống Nhất,
Trường Thọ
Chủ tịch nước
2005 Huân chương Độc lập Hạng III cho Công ty Chủ tịch nước
2005
Huân chương Lao động Hạng III cho nhà
máy Sữa Hà Nội
Chủ tịch nước
2006
Huân chương Lao động Hạng II cho 3 nhà
máy thành viên VNM là Dielac, Thống Nhất,
Trường Thọ
Chủ tịch nước
2006
Được tôn vinh và đoạt giải thưởng của Tổ
chức sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO

WIPO
2006
“Siêu Cúp” Hàng Việt Nam chất lượng cao
và uy tín
Hiệp hội sở hữu trí
tuệ & Doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam
8
1991-2005
Liên tục nhận cờ luân lưu là "Đơn vị dẫn đầu
phong trào thi đua Ngành Công Nghiệp VN"
Chính Phủ
Các năm từ
1995-2009
Top 10 “Hàng Việt Nam chất lượng cao”
Báo Sài Gòn tiếp
thị
2009
Giải vàng thương hiệu an toàn vệ sinh an
toàn thực phẩm
Cục An toàn thực
phẩm
2009 Thương hiệu ưa thích nhất năm 2008-2009
Báo Sài Gòn giải
phóng cấp giấy
chứng nhận và cúp
2009
“Doanh nghiệp xanh” cho 3 đơn vị của
Vinamilk: Nhà máy sữa Sài gòn; Nhà máy

sữa Thống Nhất và nhà máy sữa Trường Thọ
Uỷ ban nhân dân
TP. Hồ Chí Minh
2009
Cúp vàng “Thương hiệu chứng khoán Uy tín
2009” và giải thưởng “Doanh nghiệp tiêu
biểu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
năm 2009”
Hiệp hội kinh
doanh chứng
khoán, Trung tâm
Thông tin tín
dụng,Tạp chí
chứng khoán VIệt
Nam
2009 Thương hiệu hàng đầu Việt Nam
Liên Hiệp các Hội
Khoa học kỹ thuật
Việt nam, Viện
KHCN Phương
Nam và tạp chí
Thương Hiệu Việt
bình chọn ngày
13/10/2009
9
2010
Hàng VNCLC SGTT
Thương hiệu mạnh VN 2010
Thời báo Kinh tế
VN

Thương Hiệu Quốc Gia Bộ Công Thương
SCANha đam và STNC100% được nhiều
NTD yêu thích
Báo Ngon bình
chọn
1 trong 10 TH nổi tiếng nhất Châu Á
Superbrands
nghiên cứu
Thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam
Tạp Chí Thương
Hiệu Việt
Cúp"Tự hào thương hiệu Việt"
Báo Đại Đoàn kết
phối hợp
1 trong 15 DN được chọn Đài THVN
200DN tốt nhất tại Châu Á-TBD
Của tạp chí Forbes
Asia,
Thượng hiệu chứng khoán uy tín 2010
HH kinh doanh
CK
31/1000 DN đóng thuế thu nhập lớn nhất VN V1000
Top 5 DN lớn nhất VN VNR
Top 10 Thương người tiêu dùng thích nhất
VN
AC
10
1.1.4. Cơ cấu tổ chức quản lý:
1.1.4.1. Cơ cấu tổ chức theo hệ thống:
1.1.4.2. Cơ cấu bộ máy quản lý:

Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) là cơ quan có thẩm quyền cao nhất
quyết định mọi vấn đề quan trọng của Công ty. Đại hội đồng cổ đông là cơ
quan thông quan chủ trương chính sách đầu tư dài hạn trong việc phát triển
công ty, quyết định cơ cấu vốn, bầu ra ban quản lý và điều hành sản xuất
kinh doanh cùa Công ty.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, nhân danh công ty quyết
định mọi vấn đề liên quan trừ những vấn đề do ĐHĐCĐ quyết định.
Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu, thay mặt cổ đông kiểm soát mọi hoạt
động kinh doanh, quản trị và điều hành công ty.
11
Tổng giám đốc quyết định các vấn dề hàng ngày của công ty.
Phòng kinh doanh: thiết lập mục tiêu kinh doanh, xây dựng chiến lược
và kế hoạch kinh doanh, theo dõi và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, xây
dựng mạng lưới kênh phân phối, chính sách phân phối, chính sách giá.
Phòng Marketing: hoạch định chiến lược xây dựng nhãn hiệu các sản
phẩm, xây dựng chiến lược giá, phân tích và xác định nhu cầu thị trường…
Phòng nhân sự: phụ trách các vần đề về nhân sự.
Phòng dự án: lập, triển khai, giám sát đầu tư dự án mới và mở rộng
sản xuất cho các nhà máy…
Phòng cung ứng điều vận: mua sắm, cung cấp nguyên nhiên liệu, vật
tư kỹ thuật, thực hiện các công tác xuất nhập khẩu, nhận đơn đặt hàng của
khách hàng…
Phòng tài chính kế toán: quản lý, điều hành các hoạt động tài chính kế
toán.
Trung tâm nghiên cứu dinh dưỡng và phát triển sản phẩm: nghiên cứu
sản phẩm mới, công bố sản phẩm, giám sát quy trình, công nghệ, nghiên cứu
và tìm hiểu thị trường.
Phòng khám đa khoa: khám, tư vấn dinh dưỡng và sức khỏe, tư vấn
các sản phẩm của Công ty cho khách hàng, phối hợp với Trung tâm nghiên
cứu dinh dưỡng và phát triển sản phẩm mới trong việc đưa ra các sản phẩm

có thành phần dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Các nhà máy: thực hiện kế hoạch sản xuất đảm bảo về số lượng và
chất lượng.
12
Phòng kiểm soát nội bộ: kiểm soát việc thực hiện quy chế, chính sách,
thủ tục của Công ty đề ra.
Xí nghiệp kho vận: thực hiện giao hàng và thu tiền, quản lý cơ sở vật
chất, nguyên vật liệu.
Các chi nhánh: giám sát việc thực hiện các chính sách, quyết định của
Công ty đề ra, đề xuất cải tiến sản phẩm.
13
1.1.4.3. Các dòng sản phẩm chính của công ty:
Vinamilk không ngừng đưa vào thị trường các sản phẩm mới thông
qua bộ phận nghiên cứu và phát triển đầu ngành của công ty để dần dần phát
triển ở các sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao và chào bán nhiều loại sản
phẩm đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của nhiều thành phần khách hàng khác
nhau trong ngành sữa. Hiện tại, các sản phẩm của Vinamilk bao gồm:
Doanh thu của Vinamilk tính theo dòng sản phẩm (2007)
Dòng sản phẩm
Thị
phần
% doanh thu
(bình quân)
Tỷ lệ tăng trưởng năm
2007
Sữa đặc 79% 34% 38%
Sữa tươi 35% 26% 18%
Sữa bột ngũ cốc ăn
liền
14% 24% -21%*

Sữa chua: uống
ăn
24%
96% 10% 10%
Sản phẩm khác 6%
*Tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 2004-2007:16%
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 của Vinamilk
14
15
Sữa đặc (chiếm 34% doanh thu)
Sữa đặc là dòng sản phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu doanh
thu trong nước của công ty. Năm 2007, dòng sản phẩm này đạt tỷ lệ tăng
trưởng 38% và chiếm 79% thị phần, phục vụ chủ yếu phân khúc thị trường
bình dân và có sức cầu lệ thuộc chủ yếu vào sự gia tăng dân số. Người tiêu
dùng chủ yếu sử dụng sữa này để làm chất tạo ngọt, uống cà phê hoặc pha
cocktail trái cây. Tại những vùng nông thôn và vùng có phần lớn dân cư có
thu nhập thấp, người tiêu dùng chủ yếu dùng sữa này để uống. Hầu hết
người tiêu dùng đều quá quen thuộc với nhãn hiệu sữa “Ông Thọ” và “ Ngôi
sao Phương Nam”. Dutch Lady là đối thủ cạnh tranh chính nhưng hiện vẫn
chưa đánh bại được Vinamilk trên thị trường sữa đặc.
Sữa tươi (chiếm 26% doanh thu)
Năm 2007, sữa tươi đạt mức tăng trưởng 18%, chiếm khoảng 26%
tổng doanh thu của công ty và có tỷ trọng đóng góp cao thứ nhì vào doanh
thu so với tất cả các dòng sản phẩm của công ty. Sữa tươi Vinamilk chiếm
35% thị phần. Đây là dòng sản phẩm có tính đa dạng cao với nhiều nhãn
hiệu. Tuy nhiên, Vinamilk đã phải nhường lại vị trí dẫn đầu trên phân khúc
thị trường này cho Dutch Lady vì công ty này có mối quan hệ công chúng
mạnh hơn và chiến lược marketing tốt hơn.
Sữa bột và ngũ cốc ăn liền (chiếm 24% doanh thu)
Sữa bột chiếm 24% doanh thu năm 2007 của Vinamilk. Vinamilk

(cùng với Abbott và Dutch Lady) là một trong ba công ty dẫn đầu thị trường
Việt Nam về doanh số sữa bột, trong đó Vinamilk chiếm 14% thị phần.
Vinamilk chào bán sữa bột và ngũ cốc ăn liền dành cho trẻ nhỏ, phụ nữ
mang thai và người lớn tuổi. Các nhãn hàng nổi tiếng gồm Dielac, Dielac
16
Mamma, Dielac Alpha, Dielac Sure, Ridielac Riadvance… Đối với dòng sản
phẩm này, Vinamilk tập trungvào các thị trường cấp trung và Dutch Lady là
đối thủ cạnh tranh sát cánh với Vinamilk với các sản phẩm Dutch Lady 123
và Dutch Lady 456. Trong khi đó, Abbott lại tập trung chủ yếu vào thị
trường cấp cao. Bất chấp sự canh tranh gay gắt đang diễn ra trong ngành
sữa, doanh thu từ sữa bột của Vinamilk trong năm 2006 vẫn tăng đáng kể so
với năm 2005. Tuy nhiên doanh thu năm 2007 đã giảm 21% do doanh thu từ
xuất khẩu, chủ yếu sang Iraq, giảm mặc dù đã hồi phục vào năm 2008.
Sữa chua (chiếm 10% doanh thu)
Sữa chua uống Vinamilk chiếm 26% thị phần và sữa chua ăn chiếm
96% thị phần. Năm 2007, dòng sản phẩm này đạt mức tăng trưởng 10%
so với năm 2006.
Các sản phẩm khác (chiếm dưới 2% doanh thu)
Nhóm sản phẩm này bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau như kem,
phô mai, bánh flan, sữa đậu nành, nước ép trái cây, nước tinh khiết và
trà. Cà phê là sản phẩm mới nhất của Vinamilk, với các nhãn hiệu như
Moment Coffee, True Coffee và Kolac Do cà phê vẫn còn trong giai
đoạn phát triển thí điểm nên chỉ chiếm 1% trong tổng doanh thu của
công ty.
Bia (được tính vào thu nhập tài chính)
Mới đây, Vinamilk đã thành lập liên doanh với SAB Miller (công ty
sản xuất bia lớn thứ nhì thế giới về sản lượng bia) để sản xuất bia Zorok
với tổng vốn đầu tư 27 triệu USD. Vinamilk đã góp khoảng 50% vốn
trong liên doanh này. Hiện nay, bia là một loại thức uống rất phổ biến
tại Việt Nam, được minh chứng qua sản lượng bia sản xuất và tiêu thụ

17
ngày càng tăng trong vài năm qua. Lượng bia sản xuất trong nước năm
2003 là 1,3 tỷ lít, tăng lên 1,4 tỷ lít trong năm 2004 và có thể sẽ đạt 2,5
tỷ lít vào năm 2010. Tuy nhiên, lượng bia tiệu thụ bình quân tính trên
đầu người tại Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước khác trong khu
vực. Bia Zorok được đưa ra thị trường vào đầu năm 2007 và đã thu hút
sự chú ý của khách hàng.
1.1.4.4. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty:
18
Năm 2010,VNM đạt 15,845 tỷ đồng doanh thu vượt 9.8% so với kế
hoạch 14,428 tỷ đồng doanh thu cả năm 2010.
Lợi nhuận từ hoạt động SXKD quý 3 tăng so với cùng kỳ là do sản
lượng bán ra của Công ty tăng 36,57% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, nhờ
19
doanh thu tài chính quý 3 tăng 43,26% so với cùng kỳ do thu nhập từ lãi tiền
gửi ngân hàng và lãi trái phiếu tăng cũng góp phần gia tăng thêm lợi nhuận
trong quý 3. Theo đó, lợi nhuận lũy kế 9 tháng của VNM đạt 2,878 tỷ đồng
vượt 7,9 % so với kế hoạch. Lợi nhuận sau thuế năm 2010 đạt 3,602 nghìn
tỷ đồng, tăng 51,27 % so với năm 2009
Công ty có EPS năm 2010 là 10,205 đồng/cp, khá ấn tượng so với các
doanh nghiệp cùng ngành trong bối cảnh nền kinh tế trong nước tăng trưởng
chậm lại. Chỉ tiêu ROE đạt 45,27%. BV đạt 22,541 đồng/CP. P/E năm 2010
đạt 8.96 lần.
20
Chương II: Phân tích môi trường bên ngoài của công ty.
2.1 Phân tích môi trường Vĩ Mô.
Tất cả các loại hình doanh nghiệp, các loại tổ chức thuộc các ngành, có quy mô
lớn hoặc nhỏ trong nền kinh tế mỗi quốc gia đều hoạt động trong một cộng đồng
xã hội nhất định và chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô nằm
ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp, nhiều yếu tố của môi trường này tác

động đan xen lẫn nhau và ảnh hưởng đến quản trị chiến lược của công ty,và
Vinamilk cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy,nhà quản trị cần phải xem xét tính
chất tác động của từng yếu tố, mối tương tác giữa các yếu tố… để dự báo mức độ,
bản chất và thời điểm ảnh hưởng nhằm xử lý tình huống một cách linh hoạt, đồng
thời có giải phát hữu hiệu để tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế hoặc ngăn chặn
kịp thời các nguy nhằm nâng cao hiệu quả và giảm thiểu tổn thất trong quá trình
quản trị chiến lược.Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố:
2.1.1 Thị trường thế giới:
Giá các sản phẩm sữa trên thế giới có xu hướng ngày càng tăng nên Việt nam
có lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu sản phẩm, giúp tăng thu ngọai tệ.
Năm 2007 được coi là năm “con lợn vàng” ở Trung Quốc và nhiều nước châu Á
khác, một năm quý giá để sinh em bé. Với số lượng những em bé mới sinh ra đời
vượt trội so với những năm trước, thị trường sữa thế giới bắt đầu giai đoạn nhu cầu
tăng mạnh, trong bối cảnh giá sữa và nhiều nông sản khác vốn đang cao ngất
ngưởng do nguồn cung khan hiếm và chi phí đầu vào tăng mạnh.
21
Trung Quốc chỉ là một ví dụ điển hình. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khiến
người dân nhiều nước châu Á, châu Mỹ La tinh và thậm chí là ở Trung Đông thoát
khỏi cảnh nghèo đói, làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ những sản phẩm mà trước đây
họ không dám mua, như sữa. Trước nhu cầu ngày càng lớn, mức cung hiện nay
không đáp ứng kịp. Theo tính toán của các chuyên gia, nhu cầu sữa trên toàn cầu
mỗi năm tăng thêm 15 triệu tấn, tức bằng tổng lượng sữa và chế phẩm từ sữa mà
New Zealand sản xuất hằng năm. New Zealand là nước xuất khẩu sản phẩm sữa và
chế phẩm từ sữa lớn nhất thế giới với 12,7 triệu tấn/năm, bằng lượng sữa xuất khẩu
của toàn châu Âu.
Hai nước xuất khẩu sữa hàng đầu thế giới là New Zealand và EU đều khó lòng
có thể tăng sản lượng sữa. Sản lượng của Áchentina năm qua rất kém, New
Zealand thì đang bị hạn hán, còn Liên minh châu Âu (EU) bị kiềm chế bởi hạn
ngạch. Như vậy, gần như tất cả các nước sản xuất sữa lớn đều không thể tăng
nguồn cung.

Trữ lượng sữa của thế giới gần như đang trống rỗng. Australia thậm chí còn lo
ngại rằng họ sẽ không còn đủ sản lượng để cung cấp cho thị trường nội địa chứ
chưa nói gì đến xuất khẩu. Thức ăn dành cho gia súc ở Australia ít đi. Mấy năm
nay nước này rơi vào tình trạng hạn hán, thiếu cỏ cho bò sữa ăn, ảnh hưởng nặng
đến ngành sản xuất sữa. Sản lượng sữa của Australia đã giảm mạnh từ mức đỉnh
cao 11,1 tỷ lít năm 2001/02 xuống chỉ khoảng 9,1 tỷ lít năm 2007/08. Một số nhà
khoa học cho rằng hiện tượng hạn hán này sẽ còn kéo dài vì là hậu quả của tình
trạng khí hậu trái đất nóng lên. Cho nên, nước Australia khó lòng sản xuất sữa
được nhiều như trước. Trong khi đó ở Ấn Độ, lũ lụt lại là nguyên nhân làm tăng
giá sữa. Ấn Độ là quốc gia sản xuất sữa (bò và trâu) và chế phẩm từ sữa số hai thế
giới với 101,4 triệu tấn/năm nhưng chỉ xuất 0,7 triệu tấn.
2.1.2 Thị trường trong nước:
22
2.1.2.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Kinh tế Việt nam tăng trưởng khá ấn tượng trong 10 năm trở lại đây,
thuộc vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và
trên thế giới.
23
Theo số liệu biểu đồ trên, GDP của Việt nam liên tục tăng ở mức từ 6-
8%, do đó GDP bình quân trên đầu người cũng liên tục tăng, đến năm 2007
đã đạt 200.6% so với năm 2000. Năm 2008, do tác động của khủng hỏang
tài chính tòan cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến. Mặc dù
tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm
2008 nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế họach. Đáng chú ý là GDP của
quý III/2009 tăng 6.04% và quý IV/2009 tăng 6.9%, cao hơn so với cùng kỳ
năm 2008, cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm, càng
về cuối càng nâng cao tốc độ tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy
thóai với nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm.
Thu nhập của người dân cũng luôn được cải thiện. Mặc dù năm 2008
và 2009 nền kinh tế Việt nam đi xuống theo xu hướng chung của kinh tế thế

giới nhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn tăng đều đặn. Điều này đã tác
động tích cực đến sức mua trong nước, trong đó có ngành chế biến sữa. Thu
nhập được nâng cao, người dân sẽ quan tâm hơn đến sức khỏe của bản thân
24
và sẵn sàng gia tăng chi tiêu cho các lọai thực phẩm giàu chất dinh dưỡng
như sữa, dẫn đến lượng khách hàng tiêu thụ sữa ngày càng gia tăng.
Lạm phát vẫn chưa bị đẩy lùi và bùng phát trở lại vào năm 2010.
không phải là vấn đề của năm 2009, nhưng năm 2010 là một năm lạm phát
bùng lên trở lại do các nguyên nhân gây ra lạm phát bị tích lũy ngày càng
nhiều trong năm 2009.Cụ thể, như các chính sách hỗ trợ lãi suất làm tăng
trưởng tín dụng, nới lỏng kiểm soát giá một số mặt hàng như điện, nước,
xăng dầu, điều chỉnh tăng lương và có thể là cả những nỗ lực phát hành tiền
mà không được công bố chính thức. Nguy cơ lạm phát càng rõ ràng hơn nếu
tiếp tục thực hiện gói kích thích kinh tế trong điều kiện mà chưa có giải pháp
dài hạn hơn để đảm bảo chắc chắn nguồn vốn đạt được hiệu quả sinh lời cao
và có khả năng tái tạo nguồn thu trong nước.
2.1.2.2 Dân số:
Theo thống kê của Tổng cục Dân số công bố ngày 04/07/2008, dân số
Việt nam đã đạt tới 86,5 triệu người; đồng thời theo các kết quả suy rộng
mẫu chủ yếu của cuộc Tổng điều tra dân số thực hiện ngày 01/04/2009, Việt
nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm dân số trong
độ tuổi lao động cao gần gấp hai lần nhóm dân số trong độ tuổi “phụ thuộc”.
So với kết quả điều tra năm 1999, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33%
năm 1999 xuống còn 25% năm 2009, trong khi tỷ trọng dân số của nhóm 15-
59 tuổi tăng từ 58% năm 1999 lên 66% và nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên
tăng từ 8% năm 1999 lên 9% năm 2009. Ngòai ra, dân số sống ở khu vực
thành thị tăng từ 23,7% năm 1999 lên 29,6% năm 2009 với tỉ lệ tăng bình
quân là 3,4%/năm trong khi ở khu vực nông thôn tỉ lệ này chỉ có 0,4%/năm.
Đây là yếu tố thuận lợi cho việc phát triển ngành sữa ở nước ta, và thực tế
25

×