Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

CÁC VƯƠNG QUỐC ẤN ĐỘ ĐẦU TIÊN Từ Khởi Thủy Cho Đến Giữa Thế Kỷ Thứ tư_3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.47 KB, 8 trang )

CÁC VƯƠNG QUỐC ẤN
ĐỘ ĐẦU TIÊN
Từ Khởi Thủy Cho Đến
Giữa Thế Kỷ Thứ Tư





Các yếu tố khác nhau được phân tích ở chương trước đã dẫn đến sự
tạo lập các quốc gia Ấn Độ nhỏ được cai trị bởi các lãnh tụ mang tên
bằng tiếng Phạn (Sanskrit) (*a). Các quốc gia này bắt đầu xuất hiện
vào lúc khởi đầu của thế kỷ thứ ba sau Dương Lịch, do đó xác nhận
các dữ liệu trong các danh biểu địa dư của Ptolemy (1) (*b).

Các quốc gia này chỉ để lại một ít vết tích khảo cổ học hay văn bia từ
thời kỳ trước thế kỷ thứ năm. Chúng ta biết rất ít về phần lớn các
vương quốc đó trước nhật kỳ nêu trên ngoại trừ các quốc hiệu được
đề cập tới bởI Ptolemy, bởi Nghĩa Thích Kinh Niddesa (*c), và, quan
trọng hơn hết, bởi các sử ký biên niên của các triều đại Trung Hoa, có
ghi chép một cách kỹ lưỡng các sứ đoàn ngoại giao đến từ vùng biển
Nam Hải. Vị trí của phần lớn các quốc gia này không chắc chắn hay
chỉ được phỏng chừng.

Vương quốc nhỏ nhất của các xứ sở này thường sẽ lọt vào quỹ đạo
của các vương quốc hùng mạnh nhất những vương quốc nhất thiết
có một tương lai tươi sáng, mà lịch sử của chúng có thể được phác
họa lại từ các văn bản và văn bia của Trung Hoa.

1. KHỞI THỦY CỦA PHÙ NAM (THẾ KỶ THỨ NHẤT SAU DƯƠNG
LỊCH):



Vương quốc quan trọng nhất trong những vương quốc này hiển nhiên
là quốc gia mà Trung Hoa gọi là Phù Nam (Funan). Danh xưng này là
sự phát âm theo Quan Thoại hiện nay của hai từ đã từng được đọc là
b’iu-nâm (2), vốn là ký tự của chữ Khmer cổ bnam, có cách viết hiện
đại là phnom, “núi đồi”. Các vị vua của xứ sở này bao gồm trong
vương hiệu của họ thành ngữ “vua núi” (king of the mountain) –trong
Phạn ngữ (Sanskrit) là parvatabhupala hay sailaraja, trong tiếng
Khmer là kurung bnam (3). Người Trung Hoa đã đi đến việc chỉ danh
xứ sở bằng vương hiệu này.

Trung tâm của xứ sở tọa lac tại vùng hạ lưu và đồng bằng sông Cửu
Long, nhưng lãnh địa của nó vào thời cực thịnh bao gồm cả miền nam
Việt Nam, miền trung sông Cửu Long, và phần lớn Thung Lũng sông
Menam cùng bán đảo Mã Lai. Thủ đô của nó trong một thời kỳ là
Vyadhapura, “thành phố của những người săn bắn” (the city of
hunters) (4) – trong Hán ngữ là T’e mu, có thể là ký tự của một từ
ngữ trong tiếng Khmer (dmâk, dalmâk) có cùng một ý nghĩa (5).
Thành phố tọa lạc ở vùng lân cận ngọn đồi Ba Phnom và làng Banam,
hai địa điểm trong tỉnh Prei Veng của Căm Bốt mà, trong danh xưng
của chúng, được lưu truyền mãi đến thời đại chúng ta để ghi nhớ địa
danh cổ xưa này. Theo Sử Ký nhà Lương (History of the Liang) (6) thủ
đô này nằm cách bờ biển 500 lí (dặm) (200 km). Khoảng cách này
gần tương đương với khoảng cách từ Ba Phnom với địa điểm Óc Eo
(7), nơi có tọa lạc, nếu không phải chính là một hải cảng, thì ít nhất
cũng là một thị trường có các thương nhân ngoại quốc đến cư ngụ.

Những tin tức đầu tiên về Phù Nam đến từ một bản tường trình bởi
phái bộ của các sứ giả Trung Hoa K’ang T’ai và Chu Ying là những kẻ
đã đến thăm viếng xứ sở này vào giữa thế kỷ thứ ba (8). Bản gốc của

sự tường thuật của họ đã thất lạc, nhưng vẫn còn lại các đoạn trích
dẫn nằm rải rác trong các biên niên sử và trong nhiều bộ toàn thư.
Những tài liệu này, cùng với một bản văn bia bằng tiếng Phạn hồi thế
kỷ thứ ba, tạo thành tư liệu căn bản của chúng ta về hai thế kỷ đầu
tiên trong lịch sử của vương quốc này.

Theo K’ang T’ai, nhà vua đầu tiên của Phù Nam là một kẻ nào đó tên
là Hun-t’ien, tức là Kaundinya, đến hoặc từ India hay từ Bán Đảo Mã
Lai hay các hòn đảo ở phương nam (9). Vị vua này, nằm mơ thấy vị
thần bổn mạng trao một nỏ thần cho ông ta và chỉ thị ông leo lên một
thương thuyền lớn, ra đi trong buổi sáng để tiến đến một ngôi đền,
nơi mà ông ta tìm thấy một cái nỏ dưới gốc cây của vị thần. Rồi thì
ông ta đã bước lên một chiếc thuyền, mà vị thần đã cho cập bến vào
Phù Nam. Vị hoàng hậu của xứ này, Liu-ye, “Willow Leaf: Liễu Diệp
(?)”, muốn cướp đoạt chiếc thuyền và cầm giữ nó, vì thế Hun-t’ien đã
bắn một mũi tên từ nỏ thần của mình xuyên qua chiếc thuyền của
Liu-ye. Qúa sợ hãi, hoàng hậu bèn đầu hàng, và Hun-t’ien đã lấy bà
ta làm vợ. Nhưng, không hài lòng khi thấy bà ta trần truồng, ông đã
dùng một mảnh vải gấp lại làm thành quần áo mà ông đã bắt bà ấy
mặc chui qua đầu. Sau đó ông cai trị đất nước và truyền ngôi lại cho
các hậu duệ của mình.

Đây là dịch bản của Trung Hoa về các nguyên ủy vương triều xứ Phù
Nam. Bản dịch này rõ rệt là một bản dịch sai lệch từ một chuyện thần
thoại của Ấn Đô, được kể lại một cách trung thực hơn bởi một văn bia
bằng Phạn Ngữ của xứ Chàm (10). Theo bản dịch này, vị tăng lữ
Kaundinya, nhận được một cây dáo (lao) dài từ vị tăng lữ
Asvatthaman, con của Drona, đã phóng lao đi để đánh dấu địa điểm
của kinh đô tương lai của mình, sau đó đã cưới một công chúa con
của vi vua Nagas [vua Rắn trong truyền thuyết của Ấn Độ?, chú của

người dịch] tên là Soma, người đã sản sinh ra một giòng dõi hoàng
tộc (11) . Sự phối hôn huyền bí này vốn vẫn còn được truy niệm tại
triều đình Angkor vào cuối thế kỷ thứ mười ba trong một nghi lễ được
nhắc tới bởi vị sứ giả Trung Hoa tên Chou Ta-kuan (Châu Đạt Quan)
(12), và các biên niên sử hiện đại của Căm Bốt vẫn còn lưu giữ truyền
ức này (13) thì giống hệt với câu chuyện mà các vị vua Pallava của
vùng Kanchi, miền Nam Ấn Độ, xác nhận mình là hậu duệ (14). Tuy
nhiên, đã có những ý kiến khác nhau về nguồn gốc mơ hồ của chủ đề
thần thọai này (15).

Trong bất kỳ trường hợp nào, các biến cố lịch sử bó buộc phải phù
hợp với bố cục này đã không thể nào xảy ra sau thế kỷ thứ nhất theo
Dương Lịch, bởi ngay từ lúc khởi đầu của thế kỷ thứ nhì kế đó chúng
ta tìm thấy các nhân vật lịch sử Phù Nam với sự xuất hiện được ghi
nhận bởi văn bia và các sử gia Trung Hoa.

Theo Sử Ký nhà Lương (History of the Liang), một trong những hậu
duệ của Hun-t’ien, tên là Hun-p’an-huang trong Hán ngữ, đã hơn chín
mươi tuổi vào lúc từ trần. Ông này được kế vị bởi “con trai thứ nhì của
mình tên P’an-p’an, là kẻ đã giao thác việc trông coi sự cai trị của
mình cho vị tướng quân tài giỏi là Fan Man,” (16) vốn có tên đầy đủ là
Fan Shi-man, theo Sử Ký của nhà Ch’i phương Nam (History of the
Southern Ch’i). (17)” Sau ba năm trị vì, P’an-p’an băng hà. Toàn thể
thần dân của vương quốc đã tuyển chọn [Fan Man] làm vua. Ông ta là
một người can đảm và có khả năng. Một lần nữa, với đội quân hùng
mạnh của mình, ông ta đã tấn công và khuất phục các vương quốc
láng giềng; và tất cả các vương quốc này đều trở thành nước thần
phục ông ta. Ông tự đặt vương hiệu của mình là Đại Quốc Vương của
Phù Nam. Sau đó ông ra lệnh đóng chiếc thuyền lớn, và lái thuyền
trên khắp vùng biển mênh mông ông đã tấn công hơn mười vương

quốc, trong đó bao gồm cả Ch’u-tu-k’un, Chiu-chihm và Tien-sun.
Ông đã mở rộng lãnh thổ của mình đến năm hay sáu nghìn lý ( li:
dặm)” (18)

2. CÁC VƯƠNG QUỐC ẤN ĐỘ TẠI BÁN ĐẢO MÃ LAI TRONG THẾ
KỶ THỨ NHẤT KỶ NGUYÊN THIÊN CHÚA

Rolf Stein đã tin rằng trong văn bản trên Ch’u-tu-k’un phải được đọc
là Ch’u-tu, Tu-k’un, vân vân, và rằng Ch’u-tu phải được xác định là
Ch’u-tu-ch’ien (hay –kan), là xứ mà ông tin là tương ứng với xứ
Kattigara của Ptolemy (19). Xứ sở này, được tạo lập bởi các di dân từ
vùng Chu-wu (bắc Quảng Trị, giữa Cửa Tùng và Cửa Việt), phải được
truy tìm tại vùng Cochin-china, nơi mà những cuộc nghiên cứu gần
nhất cũng có khuynh hướng xác định địa điểm của Kattigara (20).
Nhưng có lẽ phải tách rời Ch’u-tu-k’un với Ch’u-tu-ch’ien.(21)

Tien-sun chắc chắn là đồng nhất với Tun-sun, xứ mà một bản văn thời
thế kỷ thứ năm- đến thế kỷ thứ sáu mô tả như là một xứ lệ thuộc của
Phù Nam (22). Chúng ta có thể chấm định xứ này với một vài xác
xuất trên vùng Bán Đảo Mã Lai, và một cách khá chính xác hơn trên
hai bờ biển của eo đất Kra (23); các dữ liệu rải rác có được về các xứ
sở khác cũng chỉ hướng về cùng chiều hướng này (24). Các cuộc chinh
phục của Fan Shih-man khi đó môt phần sẽ phải xảy ra trên vùng bán
đảo, nơi mà một số văn bản khác của Trung Hoa đã tiết lộ sự hiện
hữu của nhiều tiểu vương quốc Ấn Độ hóa ở một thời kỳ rất sớm.

Một trong những nước cổ xưa nhất này có vẻ là nước Lang-ya-hsiu,
mà sự thành lập đã được Sử Ký nhà Lương (502-556) ghi nhận vào
khoảng “hơn 400 năm trước đó.” (25) Vương quốc này, sẽ tái xuất
hiện vào cuối thế kỷ thứ bẩy dưới các tên Lang-chia-shu, Lang-ya-

ssu-chia, vân vân, chính là vương quốc Langkasuka trong các biên
niên ký của Mã Lai và đảo Java (26); danh xưng của nó tồn tại trong
địa dư hiện đại dưới tên của một chi lưu chảy vào nhánh thượng
nguồn của giòng sông Perak River (27). Xứ này phải nằm dọc theo hai
bên sườn của bán đảo và có sự tiếp cận cùng một lúc với Vịnh Thái
Lan nơi miền Pattani (28) và với Vịnh Bengal, phía bắc Kedah, nhờ thế
kiểm soát được một trong những con đường chuyển vận trên đất liền
như đã thảo luận trong chương trước đây.

Tambralinga, nằm bên bờ biển phía đông của Bán Đảo Mã Lai giữa
Chaiya ở hướng bắc và Pattani ở hướng nam, có trung tâm tại vùng
Ligor (29), nơi có một văn bia bằng tiếng Phạn có nhật kỳ từ thế kỷ
thứ sáu hay sau đó (30). Sự đề cập đến nó trong kinh Phật Giáo bằng
tiếng Pali (*d) (Niddesa; Nghĩa Thích Kinh) bằng danh từ
“Tambalingam” (31) chứng tỏ rằng vương quốc này đã sẵn hiện hữu
vào khoảng thế kỷ thứ nhì.

Trường hợp tương tự cũng xảy ra với Takkola (32), được trích dẫn
trong một văn bản Phật Giáo khác, với tên Milindapanha; đã có một
sự đồng ý chung rằng thị trấn này tọa lạc tại Takuapa nằm bên bờ
biển phía tây của eo đất Kra hay có thể xa hơn về phía nam (33). Về
hải cảng mà địa danh được ký tự sang Hán ngữ là T’ou-chu-li và đôi
khi được đồng nhất hóa với Takkola, Paul Wheatley (34) vạch cho
thấy rằng danh từ này trong thực tế là Chu-li và rằng nó tương đương
với địa danh Koli của Ptolemy, có lẽ ở vùng cửa sông Kuantan. Chính
từ địa điểm này mà sứ đoàn được Phù Nam phái đi sang Ấn Độ hồi thế
kỷ thứ ba đã bước xuống tàu.

Nếu chúng ta không kể đến các ngôi mộ bằng đá tảng khổng lồ tại
Perak và Pahang và những sự khám phá các ngọc trai Ấn Độ và “La

Mã” tại Kota Tingi vùng Johore (35), vốn thuộc vào lãnh vực lịch sử
nguyên thủy (proto-history), chính là từ vùng Kedah và vùng Perak
mà các di tích khảo cổ và văn bia cổ xưa nhất của Bán Đảo Mã Lai đã
được phát hiện.

Những sự khám phá đó tại Kedah thuộc về nhiều thời kỳ khác nhau.
Chúng chứng thực tính cổ xưa của địa điểm này, mà chúng ta sẽ lại
đựoc nghe thấy sau này dưới tên trong Phạn ngữ là Kataha và trong
tên bằng Hán ngữ là Chieh-ch’a. Nhưng, như các văn bia và các khám
phá khảo cổ khác (36), chúng cũng không có nhật kỳ lùi xa như của
Ptolemy, của Nghĩa Thích Kinh Niddesa, hay các văn bản của Trung
Hoa, tức, lùi xa mãi đến tận thời kỳ có các cuộc chinh phục của Phù
Nam trên vùng bán đảo. (37)



×