Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị phẫu thuật thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng cùng gây hội chứng đuôi ngựa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 82 trang )


ĐẶT VẤN ĐỀ

Thoát vị đĩa đệm là một thể đặc biệt của bệnh lý thoái hoá đĩa đệm,
được xếp vào bệnh chung của chứng hư xương sụn cột sống. Bệnh khá phổ
biến ở Việt Nam còng nh- trên thế giới, theo Mark Greenberg (Mỹ – 2001)
[67] bệnh chỉ chiếm khoảng 1% dân số và trong đó có khoảng 10-12% phải
phẫu thuật, bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhiều nhất ở lứa tuổi
lao động 20 – 50 tuổi, chính vì vậy đã gây ảnh hưởng đến năng suất lao động
của cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Do đặc điểm sinh cơ học và vận động
của cột sống nên bệnh gặp chủ yếu vùng cột sống thắt lưng (95-98%), trong
đó thoát vị đĩa đệm L
4
-L
5
, L
5
-S
1
chiếm 81% vì đây là vị trí bản lề chịu tải
trọng cao nhất của cột sống [12], [17], [23].
Ở trong nước còng như nước ngoài đã có nhiều tác giả tiÕn hành
nghiên cứu các phương pháp phẫu thuật điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm thông
thường đã mang lại kết quả cao, nhưng còn thoát vị đĩa đệm gây hội chứng
đuôi ngựa là mét thể bệnh rất đặc biệt, phức tạp và hiếm gặp của bệnh lý thoát
vị đĩa đệm thì chưa có nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy chỉ chiếm mét tỷ lệ 2 -
3% trong tổng số các loại thoát vị đĩa đệm nói chung [75], nhưng do người
bệnh không có hiểu biết về bệnh lý thoát vị đĩa đệm hoặc được điều trị nội
khoa không đúng phương pháp, kéo dài và một số bệnh nhân không có điều
kiện hoặc sợ phẫu thuật không đến viện điều trị làm cho cơ thể suy sụp,
không đi lại được và có những rối loạn trầm trọng về vận động, cảm giác, đại


tiểu tiện do vậy mất khả năng sinh hoạt và lao động, sống phụ thuộc vào gia
đình và xã hội.
Ngày nay, nhờ những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, đặc biệt phương
pháp chụp cộng hưởng từ thì việc chẩn đoán thoát vị đĩa đệm gây hội chứng

đuôi ngựa không khó khăn, song việc điều trị còn nan giải do bệnh nhân đến
viện thường là muộn và việc điều trị phẫu thuật còn phức tạp do các rễ thần
kinh đã bị tổn thương nặng và việc phẫu thuật lấy đĩa đệm không dễ, có khi
còn gây ra nhiều tai biến và biến chứng trong và sau mổ nên kết quả phẫu
thuật không cao, khả năng phục hồi sau mổ thường chậm hơn so với các thể
thoát vị đĩa đệm thông thường, thậm chí còn bị các di chứng kéo dài như đau
do viêm dính, liệt chân hoặc rối loạn đại tiÓu tiện làm cho người bệnh chán
nản, bi quan. Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại và nâng cao hiệu quả
điều trị chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chẩn đoán và
điều trị phÉu thuật thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng - cùng gây hội chứng
đuôi ngựa” với hai mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ cột sống
thắt lưng - cùng ở bệnh nhân thoát vị đĩa đệm gây hội chứng đuôi ngựa.
2. Nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật nhằm góp phần nâng cao
chất lượng điều trị.



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử nghiên cứu bệnh
1.1.1. Nước ngoài
Cùng với sự tiến hoá của loài người, bệnh thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) có
từ lâu nhưng chỉ được nghiên cứu và công bố vào cuối thế kỷ XIX.

Năm 1555 Andreas Vesalius là người đầu tiên mô tả giải phẫu cột sống
và đĩa đệm. Sau đó Domenio Cotugno (1770) là người đầu tiên mô tả bệnh
đau thần kinh toạ trên lâm sàng.
Virchow và Vonluschka (1858) mô tả đặc tính đĩa đệm và nói tới vai
trò gây bệnh của đĩa đệm, TVĐĐ ra sau do chấn thương. Cho đến năm 1896
Kocher phát hiện di chuyển của đĩa đệm L
1
-L
2
ở một người đàn ông bị ngã
cao. Đến năm 1909 Fedor Krause và Oppenheim mô tả sự TVĐĐ ở trung tâm
[51], [54].
Gold Weith (1911) mô tả đặc điểm đau thắt lưng và đau dây thần kinh
hông là do TVĐĐ chèn Ðp vào đuôi ngựa. Cũng trong năm đó Meddleton và
Teacher đã báo cáo một ca liệt hai chân cấp sau khi nâng vật nặng gây TVĐĐ
cấp D
12
-L
1
.
Alfred Adson (1922) đã thực hiện một ca cắt cung sau lấy bỏ sự nhô ra
của đĩa đệm L
4
-L
5
, sau đó Schmorl và học trò (1929) đã mô tả và đưa ra thuật
ngữ TVĐĐ vào y văn (herniation of disk) và được dùng từ đó cho đến nay.
Năm 1929 Dandy và Harvey Cushing đã phẫu thuật cho hai bệnh nhân bị
chèn Ðp vùng đuôi ngựa do các mảnh rời từ đĩa đệm.



1.1.2. Trong nước
Nguyễn Thường Xuân và Trần Quang Vỹ (1958) là hai tác giả Việt
Nam đầu tiên thực hiện phẫu thuật lấy đĩa đệm vùng CSTL-C. Sau đó ở miền
Nam, Hoàng Tiến Bảo cũng thực hiện phẫu thuật loại bệnh này. Cho đến năm
1965 Lê Xuân Trung thông báo về bơm khí chụp tuỷ vùng cột sống thắt lưng
cùng và Trần Quang Việp (1966) thông báo hình ảnh chụp X.quang TVĐĐ
vùng CSTL-C [16], [19].
Phạm Ngọc Rao (1973) đã chụp tĩnh mạch gai sống ở bệnh nhân có
bệnh lý CSTL và năm 1978 – 1980 Trần Mạnh Chí, Phan Chúc Lâm, Vũ
Hùng Liên thông báo mổ 47 ca TVĐĐ cột sống vùng thắt lưng - cùng tại
Bệnh viện 103. Từ đó đến nay việc chẩn đoán và điều trị TVĐĐ vùng CSTL-C
không ngừng phát triển và hoàn thiện với nhiều kỹ thuật chẩn đoán có hiệu quả cao
như chụp cắt líp vi tính (CT-scanner) và chụp cộng hưởng từ (MRI). Đặc biệt tại
khoa PTTK viện 103 - HVQY là một trung tâm PTTK lớn, đã phẫu thuật hơn 7.000
bệnh nhân TVĐĐ từ năm 1977- 2006 ở hầu các thể đã đem lại kết quả khả quan.
Mặc dù vậy cũng có rất Ýt tài liệu công bố TVĐĐ gây HCĐN vùng CSTL-C.
1.2. Giải phẫu, sinh lý, sinh hoá của cột sống vùng TL-C.
Cột sống của con người là trục trung tâm của cơ thể. Cột sống thuộc bộ
xương trục bao gồm nhiều đốt sống tiếp khớp với nhau có tác dụng nâng đỡ
cơ thể giúp cho thân mình vận động được dễ dàng, uyển chuyển, nhịp nhàng,
đồng thời cột sống còn bao bọc và bảo vệ cho tuỷ sống, mét phần của thần
kinh trung ương [27],[28], [40], [51], [74]. Đối với người trưởng thành cột
sống của nữ giới dài khoảng 60cm còn ở nam giới dài khoảng 70cm. Cột sống
nằm chính giữa thành sau của thân, chạy dài từ mặt dưới xương chẩm tới tận
hết ở xương cụt, nó bao gồm 33 – 35 đốt chia làm 5 đoạn. Tuỳ theo chức năng
khác nhau mà mỗi đoạn cột sống lại có những chức năng riêng gọi là một

đoạn vận động, chúng được liên kết với nhau bằng các dây chằng và các cơ
cạnh sống [28],[34], [40].

Đoạn sống thắt lưng(Vertebae Lumbales) gồm 5 đốt (L
I
–L
V
) tạo nên
một đoạn cột sống dài khoảng 18cm lâm ra sau.

Hình 1: Cấu trúc đơn vị vận động CSTL [29]
Thành phần cơ bản của đoạn vận động là khoang giữa đốt sống, nhân
nhầy, vòng sợi và mâm sụn, hai nửa thân đốt sống trên và dưới, ống sống, các
phần trong ống sống tương ứng như mạch máu, thần kinh, hệ thống dây
chằng, khớp đốt sống, lỗ liên đốt, khe khớp liên cuống đốt sống.
Đây chính là “bộ máy giảm xóc” của cơ thể, giúp cột sống chịu được áp
lực trọng tải lớn thường xuyên theo trục dọc cơ thể, tránh được sang chấn.
1.2.1. Đặc điểm của các đốt sống thắt lưng
- Các đốt sống thắt lưng thân to, chiều ngang lớn hơn chiều trước sau.

- Lỗ đốt sống hình tam giác, rộng hơn lỗ đốt sống của các đốt sống
ngực nhưng nhỏ hơn lỗ đốt sống cổ.
- Cuống ngắn nhưng rất dày và dính vào thân đốt sống ở 3/5 trên.
Khuyết đốt sống dưới sâu hơn khuyết đốt sống trên.
- Cung đốt sống có chiều cao lớn hơn chiều rộng.
- Mám gai hình chữ nhật chạy ngang ra sau.
- Mặt khớp của mám khớp trên hơi lõm hướng vào trong và ra sau.
Mám khớp dưới có mặt hơi lồi, nhìn ra ngoài và ra trước.
- Mám ngang dài và mỏng được coi như xương sườn thoái hoá.
1.2.2. Đặc điểm của đĩa đệm thắt lưng
Đĩa gian đốt sống còn gọi là đĩa đệm có hình thấu kính hai mặt lồi
tương ứng với các mặt lõm của thân các đốt sống trên và dưới. Đoạn cột sống
thắt lưng có 5 đốt sống từ L

I
–L
V
với bốn đĩa đệm thắt lưng và hai đĩa đệm
chuyển tiếp (thắt lưng ngực và thắt lưng cùng), chiều cao của đĩa đệm thay
đổi theo từng đoạn cột sống và tăng dần từ trên xuống dưới. Ở người trưởng
thành bình thường chiều cao đĩa đệm đoạn cột sống thắt lưng 9mm, trong đó
đĩa đệm L
4
–L
5
cao nhất và đĩa đệm L
5
–S
1
thấp hơn đĩa đệm L
4
–L
5
khoảng 1/3
chiều cao. Đĩa đệm có cấu trúc không xương nằm trong khoang gian đốt, tên
của mỗi đĩa đệm được gọi theo tên của những đốt sống lân cận [1], [23].


Hình 2: Cấu tạo đơn vị vận động CSTL [29]
Do độ ưỡn của cột sống thắt lưng nên chiều cao đĩa đệm ở phía trước
lớn hơn phía sau. Khoảng gian đốt thắt lưng cùng có sự chênh lệch chiều cao
giữa phía trước và phía sau là lớn nhất nên đĩa đệm có dạng hình thang ở bình
diện đứng thẳng dọc.
Đĩa đệm là một đĩa sụn sợi gồm ba phần: phần ngoài cùng là đĩa sụn,

tiếp đến là vòng sợi và phần trung tâm là nhân nhầy [1],[28], [51].
1.2.2.1. Nhân nhầy
Có hình cầu hoặc hình bầu dục nằm trong vòng sợi ở khoảng nối 1/3
giữa với 1/3 sau của đĩa đệm chiếm khoảng 40% bề mặt cắt ngang của đĩa
đệm. Đây là yếu tố thuận lợi để TVĐĐ hay xảy ra ở phía sau. Khi cột sống
vận động nhân nhầy sẽ chuyển động dồn về phía đối diện đồng thời vòng sụn
cũng bị giãn ra.
Nhân nhầy được cấu tạo bởi một màng liên kết hình thành những
khoang mắt lưới chứa chất cơ bản nhầy lỏng (thời kỳ bào thai khoảng tuần
thứ 24) và sau này chứa tổ chức keo nhầy Mucoprotein với người trẻ tế bào
này liên kết với nhau rất chặt chẽ, còn ở người già tế bào của tổ chức nhân
nhày trở nên lỏng lẻo, dễ tách khỏi nhau, để lại những khoang rỗng. Nhờ khả
năng dịch chuyển sinh lý vốn có của nhân nhầy và tính đàn hồi của vòng sợi,

mà đĩa đệm thực hiện được chức năng làm hệ thống đệm sinh học dễ thích
nghi, có sức chịu đựng đối với các loại tải trọng tĩnh và động của cột sống.
Khi đĩa đệm bị thoái hoá vòng sợi bị rạn nứt, mất tính đàn hồi thì nhân nhầy
dễ dàng thoát ra khỏi giới hạn sinh lý và lúc đó tuỳ theo mức độ mà đĩa đệm
trở thành đối tượng dễ tổn thương nhất [11], [19].
1.2.2.2. Vòng sợi đĩa đệm
Được cấu tạo bởi những sợi sụn rất chắc và đàn hồi, đan xen vào nhau
kiểu xoắn ốc, giữa các líp có vách ngăn được gọi là yếu tố đàn hồi, tạo thành
nhiều vòng sợi chạy nối liền từ mặt trên thân đốt dưới đến mặt dưới thân đốt
kế tiếp ở trên. Bên cạnh đó nó còn được tăng cường thêm độ chắc bởi một dải
sợi móc chặt vào viền xương ở vùng riềm của vòng sợi, gọi là sợi Sharpey.
Tuy vậy đoạn CSTL phía sau và phía sau bên của vòng sợi chỉ được cấu trúc
bằng một số Ýt những bó sợi tương đối mảnh nên đây là “điểm yếu nhất của
vòng sợi”. Vì vậy, nó tạo điều kiện cho TVĐĐ xảy ra [16], [19].
Mạch máu nuôi dưỡng đĩa đệm rất nghèo nàn, chỉ có một số nhánh nhỏ
ở xung quanh vòng sợi, nhân nhầy được nuôi dưỡng chủ yếu bằng phương

thức thẩm thấu khuyếch tán. Các chất dinh dưỡng được vận chuyển từ khoang
tuỷ của đốt sống thông qua những lỗ sàng của bề mặt thân đốt sống và líp
canxi dưới mâm sụn. Việc nuôi dưỡng này có thể bị ảnh hưởng khi khả năng
thẩm thấu của đĩa đệm yếu đi và bị tắc ở tuổi 20 – 30 [1], [11].
1.2.2.3. Đĩa sụn
Nằm ngoài cùng đĩa đệm, nằm sát và bọc lót hai mặt đốt sống trên và
dưới, cấu tạo như sụn khớp nhưng mỏng đã là líp sụn trắng kiểu pha lê. Trên
mặt đĩa sụn có rất nhiều lỗ nhỏ li ti, nơi cung cấp dịch thể dinh dưỡng cho đĩa
đệm và cũng là nơi khuyếch tán dịch thể từ đĩa đệm ra ngoài. Bình thường
quá trình này điều hoà nếu lao động và nghỉ ngơi phù hợp, song nếu tăng quá

trình khuyếch tán dịch thể như lao động liên tục sẽ làm nhân nhày khô kiệt
dần. Đó cũng là quá trình thoái hoá xảy ra từ từ của đĩa đệm nói chung và
nhân nhày nói riêng.
Đĩa đệm vừa là nơi truyền lực vào nhân nhày và cũng là nơi chịu lực
phản hồi của nhân nhày. Do vậy thường thấy lõm mặt thân đốt sống ở người
già, đường viền đĩa đệm trên dưới hai thân đốt thường là một đường cong lõm
vào thân đốt sống, đó là sự thoái hoá sụn khớp đĩa đệm khá điển hình.
1.2.2.4. Đặc điểm vi cấu trúc và sinh hoá của đĩa đệm
- Trong tổ chức đĩa đệm có: nguyên bào, tế bào sụn và những tế bào
nguyên sống [24], [28].
- Nước: chiếm 80 – 85% nhân nhầy chứa nhiều nước nhất.
- Các mucopolysaccarid dưới dạng trung tính và dạng acid có khả năng
giữ nước tạo nên tính căng phồng, tính co giãn và độ nhầy của chất cơ bản.
- Các glucoprotein và polysaccarid: là chất cơ bản của đĩa đệm.
- Chất tạo keo: chiếm 44 – 51% trọng lượng khô của đĩa đệm.
- Các nguyên tố vi lượng: canxi, phốtpho, mangan, đồng, sắt…
1.2.2.5. Đặc điểm chức năng của đĩa đệm
Cột sống là cột trụ của cơ thể vừa vững chắc và linh động, gánh chịu
sức nặng của phần trên cơ thể, là nơi tựa cho hệ xương, cơ của thân, đai vai,

đai chậu và tạo nên ống sống bao bọc tuỷ sống. Chức năng linh động của cột
sống là nhờ hệ thống đĩa đệm [8], [16].
Đĩa đệm ngoài chức năng tạo hình dáng cột sống còn có khả năng hấp
thụ, phân tán và dẫn truyền làm giảm nhẹ các chấn động tải trọng dọc trục cột
sống. Chức năng này được thực hiện chủ yếu nhờ áp lực thuỷ tĩnh (áp lực
trọng tải) và áp lực keo giữa khoang trong và ngoài đĩa đệm.

Đĩa đệm của người còn phải đảm bảo chức năng của cột sống trong
điều kiện tĩnh. Trên cơ sở của sức đàn hồi lớn, các đĩa đệm có khả năng “giảm
xóc” làm giảm nhẹ chấn thương.
Trên cơ sở chuyển dịch sinh lý của nhân nhầy, nhân nhầy có chức năng
như hòn bi trượt, đàn hồi và căng phồng nên có khả năng linh động rất cao.
Chức năng chủ yếu của nhân nhầy là hấp thụ và phân tán áp lực tải trọng lên
vòng sợi và mâm sụn, đồng thời còn là điểm dùa linh hoạt giữa hai thân đốt
sống trong trạng thái tĩnh và chuyển động.
1.2.2.6. Đặc điểm áp lực nội đĩa đệm cột sống thắt lưng
Với dáng đi thẳng đứng của con người vùng cột sống thắt lưng thường
xuyên phải chịu tải trọng lớn. Tải trọng đó lại chỉ dồn nén trên một diện tích
rất nhỏ tính bằng cm
2
, cùng với sự thay đổi của phần trên cơ thể ra khỏi
đường trục giữa càng làm cho áp lực nội đĩa đệm tăng lên.
Tất cả các nguyên nhân gây tăng áp lực nội đĩa đệm sẽ làm tăng quá
trình thoát tán dịch thể, nếu kéo dài không có pha nghỉ, sẽ làm cho đĩa đệm
khô dần và thoái hoá [12], [17].
1.2.3. Đặc điểm của lỗ liên đốt (lỗ tiếp hợp)
Các lỗ liên đốt đoạn CSTL được giới hạn ở phía trước bởi một phần
của hai thân đốt sống kế cận và đĩa đệm. Các cuống cung của hai đốt sống kế
tiếp tạo thành cạnh trên và cạnh dưới của lỗ.
Giới hạn ở phía sau của lỗ liên đốt là các diện khớp của các khớp nhỏ

đốt sống, cho nên những thay đổi tư thế diện khớp và các khớp đốt sống có
thể làm hẹp lỗ liên đốt từ phía sau. Bình thường đường kính của lỗ liên đốt to
gấp 5 – 6 lần đường kính của đoạn rễ thần kinh xuyên qua lỗ. Riêng lỗ liên
đốt sống thắt lưng - cùng là đặc biệt nhỏ do tư thế của khe khớp đốt sống ở
đây lại nằm ở mặt phẳng đứng ngang chứ không ở mặt phẳng đứng dọc như ở

đoạn từ L
I
–L
IV
. Do đó những biến đổi ở diện khớp và tư thế của khớp đốt
sống có thể gây hẹp lỗ ghép, đó là lý do giải thích vì sao tỷ lệ đau rễ L
5
cao
nhất ở vùng cột sống thắt lưng - cùng [28], [40].
1.2.4. Các dây chằng cột sống thắt lưng
* Dây chằng dọc trước
Là một dải sợi rộng, phủ mặt trước thân đốt sống và phần bụng của
vòng sợi đĩa đệm từ nền xương chẩm tới củ trước đốt đội, từ đó chạy xuống
bám vào mặt trước các đốt sống cho tới phần trên mặt trước xương cùng.
Những sợi trong cùng hoà lẫn với vòng sợi trải từ thân đốt sống này
qua đĩa đệm đến thân đốt sống kế cận. Các sợi này cố định đĩa đệm vào bờ
trước thân đốt sống, còn các sợi mỏng trải trên các thân đốt và cố định các
thân đốt với nhau.
* Dây chằng dọc sau
Dây chằng dọc sau là một dải sợi nhẵn, mềm nằm trong ống sống mặt
sau các thân đốt sống từ cổ thứ hai đến xương cùng. Dây chằng này dính chặt
vào vòng sợi nên khó bóc tách và dính chặt vào bờ thân xương, khi tới thân
đốt sống thắt lưng dây chằng này chỉ còn là một dải mỏng, không hoàn toàn
phủ kín giới hạn sau của đĩa đệm. Như vậy phần sau bên của đĩa đệm được tự

do nên TVĐĐ thường xảy ra nhiều nhất ở đây, đó là lý do giải thích vì sao
TVĐĐ lệch bên có tỷ lệ cao hơn TVĐĐ trung tâm. Phần bên của dây chằng
dọc sau bám vào màng xương của các cuống cung, thân đốt khi các sợi này bị
căng ra do đĩa đệm lồi ra sau, có thể xuất hiện triệu chứng đau, nhưng chính là
đau từ màng xương.
* Dây chằng vàng
Được tạo nên bởi các sợi thuộc mô đàn hồi có màu vàng. Dây chằng
vàng mỏng ở vùng cổ và dầy nhất ở vùng thắt lưng, phủ ở phần sau của ống

sống, bám từ cung đốt sống trên đến cung đốt sống dưới và tạo nên một bức
vách thẳng ở phía sau ống sống để che chở cho tuỷ sống và các rễ thần kinh.
Dây chằng vàng có tính đàn hồi cao, khi cột sống cử động nó góp phần kéo
cột sống trở về nguyên vị trí.
* Dây chằng trên gai và dây chằng liên gai sống
- Dây chằng trên gai có chức năng liên kết các mám gai với nhau. Dây
chằng trên gai mỏng chạy qua đỉnh các gai sống góp phần làm vững chắc
phần sau đoạn vận động cột sống khi ưỡn và khi gấp cột sống tối đa. Vì vậy
trong phẫu thuật cần bảo tồn các dây chằng này.
- Dây chằng liên gai là một màng mỏng đi từ rễ tới đỉnh của mỗi mám
gai.


1.2.5. Đặc điểm ống sống thắt lưng
Èng sống thắt lưng được giới hạn ở phía trước bởi thân đốt sống và các
đĩa đệm, phía sau bởi dây chằng vàng và các cung đốt sống, bên cạnh là các
cuống vòng cung và lỗ liên kết. Trong ống sống thắt lưng có bao màng cứng,
rễ thần kinh và tổ chức quanh màng cứng (động mạch, tĩnh mạch, tổ chức
mỡ). Vì vậy, các rễ thần kinh không bị chèn Ðp bởi các thành xương của ống
sống, kể cả khi vận động cột sống thắt lưng tới biên độ cực lớn.
Bình thường ống sống ở đoạn thắt lưng L

1
–L
2
có hình ba cạnh và khá
cao 14 – 22mm, ở L
3
– L
5
hình 5 cạnh 13 – 20mm.
Đường kính ngang của ống sống trung bình là 21mm, đường kính trước
sau trung bình là 19mm đo trên phim chụp CT Scanner.

Sù thay đổi độ rộng của ống sống thắt lưng có ý nghĩa lớn trong cơ chế
bệnh sinh chứng đau thắt lưng - cùng, đau thần kinh hông do bệnh lý hẹp ống
sống thắt lưng [28].
1.2.6. Liên quan giữa rễ thần kinh với đĩa đệm trong ống sống thắt lưng
Dây thần kinh tủy sống là một dây hỗn hợp bao gồm nhánh vận động,
cảm giác và giao cảm. Sau khi chui ra khỏi lỗ gian đốt nó chia thành nhánh
trước và nhánh sau. Nhánh trước phân bố vào phần trước cơ thể và tứ chi.
Nhánh sau phân bố cho các vùng da tương ứng, các cơ vùng lưng và có những
nhánh tận cùng đi tới bao khớp và diện khớp ngoài của khớp liên cuống đốt
sống, qua các cân cơ để chi phối cho vùng da tương ứng. Đĩa đệm của người
không có các sợi thần kinh mà chỉ phát hiện được những nhánh tận cùng của
rễ thần kinh giao cảm nằm ở những líp ngoài cùng của vòng sợi sau dây
chằng dọc sau.
Hình dạng và thể tích của ống sống có thể thay đổi theo tư thế và vận
động của cột sống. Đây là một khoang quan trọng vì bên trong có chứa tuỷ
sống, rễ thần kinh và dịch não tuỷ, đặc biệt về giải phẫu thì tuỷ sống dừng lại
ở ngang đốt sống L
II

gọi là nón cùng, song các rễ thần kinh lại tiếp tục chạy
xuống dưới một đoạn dài trong khoang dưới nhện và ra ngoài qua các lỗ ghép
tương ứng. Toàn bộ các dây thần kinh tuỷ sống phía dưới và dây cùng chạy
tới đốt thứ hai của xương cụt được gọi là đuôi ngựa. Hướng đi của các rễ thần
kinh sau khi ra khái bao màng cứng tuỳ thuộc vào chiều cao của đoạn tuỷ
tương ứng. Do đó ở đoạn cột sống thắt lưng rễ thần kinh và đĩa đệm có liên
quan định khu không tương ứng nh- sau:


Hình 3: Liên quan giữa đĩa đệm và rễ thần kinh [29].
- Chỗ tách ra của rễ L
3
ở độ cao của thân đốt L
2
.
- Rễ L
4
thoát ra khái bao màng cứng ở độ cao thân đốt L
3
và tạo với
phương thẳng đứng một góc 60
0
.
- Rễ L
5
thoát ra ở bờ dưới thân đốt L
4
tạo góc 45
0
với phương thẳng đứng.

- Rễ S
1
thoát ra ở bờ dưới thân đốt L
5
tạo một góc 30
0
.
- Đặc điểm của rễ thần kinh bị chèn Ðp
Đau thần kinh hông do TVĐĐ chủ yếu là đau rễ L
5
và rễ S
1
bệnh nhân
có thể chỉ đau một rễ hoặc đau cả hai rễ. Trường hợp TVĐĐ L
4
–L
5

trước hết
sẽ chèn Ðp vào rễ L
5
, còn rễ L
4
chỉ bị chèn Ðp khi khối thoát vị rất lớn và đẩy
ra hai bên vì rễ L
4
đi qua lỗ ghép ở phía trên ngoài của đĩa đệm này. Trường
hợp TVĐĐ L
5
-S

1
thì chỉ cần thoát vị sau bên dù nhỏ, cả hai rễ L
5
và S
1
đều
đồng thời bị chèn Ðp vì rễ S
1
thoát ra khái bao màng cứng mức này, còn rễ L
5

đi qua lỗ ghép L
5
-S
1
thì nằm ngay trên vòng sợi phía sau là đĩa đệm. Rễ L
5
lớn
nhất nhưng khoảng rỗng tự do dành cho rễ L
5
hoạt động ở lỗ ghép đốt L
5
-S
1


lại rất nhá. Ảnh hưởng của TVĐĐ lên các rễ thần kinh còn liên quan trùc tiếp
đến độ rộng của ống sống.
Theo Mark S. Greenberg [67] và Scott D. Hodges [85] đã phân vùng
tổn thương tương ứng với rễ thần kinh nh- sau:

+ Rễ L
1
, L
2
: rối loạn cảm giác vùng bẹn và mặt trong đùi, rối loạn vận
động cơ thắt lưng chậu, cơ may, rối loạn phản xạ vùng đùi bìu.
+ Rễ L
3
, L
4
: rối loạn cảm giác mặt trước đùi và trước trong cẳng chân,
rối loạn vận động cơ tứ đầu đùi, các cơ khép, rối loạn phản xạ bánh chè.
+ Rễ L
5
: rối loạn cảm giác mặt sau ngoài đùi, mặt trước ngoài cẳng
chân, mu chân và ngón chân, chi phối các cơ trước ngoài cẳng chân, ngón cái
(kiểm tra bằng cách cho bệnh nhân đứng, đi bằng gót chân). Do rễ L
5
liên
quan với hai đĩa đệm L
4
–L
5
và L
5
-S
1
nên có thể bị chèn Ðp ở một trong hai
đĩa này, nhưng thường gặp là đĩa L
4

–L
5
.
+ Rễ S
1
: rối loạn cảm giác mặt sau ngoài đùi, sau ngoài cẳng chân, bờ
ngoài bàn chân và ngón út, rối loạn vận động cơ sau cẳng chân (không thể đi
kiễng chân), rối loạn phản xạ gót. Rễ S
1
đau thường do TVĐĐ L
5
–S
1
chèn Ðp.
+ Rễ S
2
: rối loạn cảm giác mặt sau trong đùi, cẳng và gan chân, rối loạn
vận động các cơ khép, dạng, gấp các ngón chân, rối loạn phản xạ da gan chân.
+ Rễ S
3
, S
4
, S
5
: rối loạn cảm giác vùng đáy chậu, rối loạn cơ thắt hậu
môn và bàng quang, rối loạn phản xạ hậu môn.


Hình 4: Sù phân vùng cảm giác theo các rễ thần kinh [29].
1.3. Bệnh căn, bệnh sinh của TVĐĐ vùng TL-C.

Trong quá trình tiến hoá của loài người, dáng đi đứng thẳng dẫn tới
hàng loạt các biến đổi thích nghi của cơ thể đặc biệt là cấu trúc và chức năng
của cột sống hình thành các đoạn cong kế tiếp nhau để thích nghi với tải trọng
theo trục. Chức năng “giảm xóc” của đĩa đệm trở nên vô cùng quan trọng vì
trong cơ chế này hai đĩa đệm L4-L5 và L
5
–S
1
phải gánh chịu toàn bộ sức nặng
của cơ thể, cũng như các tải trọng bổ sung trong các hoạt động.
1.3.1. Bệnh sinh của thoát vị đĩa đệm
Đĩa đệm bị thoát hoá do hai quá trình thoái hoá sinh học và thoái hoá
bệnh lý. Trong đó thoái hoá sinh học diễn ra rất sớm ở các đĩa đệm thắt lưng
và quá trình thoái hoá đĩa đệm tăng dần theo tuổi và diễn ra liên tục trong suốt
đời người, có những giai đoạn không có biểu hiện lâm sàng. Một số tác giả
thấy TVĐĐ vùng CSTL-C xảy ra ở trẻ em và tuổi vị thành niên [67].

Sự thoái hoá theo lứa tuổi càng phát triển khi ta càng về già. Đây là
nguyên nhân cơ bản trong cơ chế của bệnh lý đĩa đệm. Nếu có hoàn cảnh
thuận lợi, đó là những lực xén cắt đột ngột của chấn thương hoặc lực xoắn
vặn nhân đĩa đệm dễ thoát vị ra sau, ra trước hay hai bên hoặc nhân đĩa đệm
lồi vào thân đốt sống (thoát vị kiểu Schmorl).
Do nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài tác động, thoái hoá có thể tiến
triển nhanh hơn trở thành những yếu tố bệnh lý. Có người cho rằng TVĐĐ là
một sự đột biến, một giai đoạn của quá trình thoái hoá bệnh lý đĩa đệm, khi
đĩa đệm còn nguyên vẹn thì chịu lực tốt, khi đĩa đệm thoái hoá đến môt giai
đoạn nhất định thì TVĐĐ mới có điều kiện để phát triển. Khi đó chỉ cần một
lực chấn thương nhẹ hoặc một tác động của một trọng tải nhẹ không cân đối
cũng có thể gây nên TVĐĐ.
a b

Hình 5: Thoát vị đĩa đệm trung tâm (a), lệch bên (b)
1.3.2. Nghề nghiệp, chấn thương và tải trọng
Không phải tất cả các trường hợp TVĐĐ đều xảy ra sau một chấn thương.
Trong thực tế lâm sàng có nhiều trường hợp chấn thương cột sống nặng
mà không có TVĐĐ, ngược lại có hơn nửa số bệnh nhân TVĐĐ hình thành từ
từ, không có yếu tố chấn thương. Những trường hợp này là điều kiện nghề
nghiệp buộc cột sống phải vận động quá giới hạn sinh lý, làm việc trong tư

thế gò bó, rung xóc (lái xe cơ giới), làm việc trong cơ chế quá ưỡn, quá gù,
lệch vẹo cột sống (thợ may, thợ xây…). Những yếu tố bất lợi do nghề nghiệp
trên đây đã thực sự trở thành “vi chấn thương” đối với đĩa đệm cột sống và
những tác động trọng tải quá mức không cân đối thúc đẩy nhanh quá trình
thoái hoá đĩa đệm [12], [19], [40].
1.3.3. Những yếu tố cơ bản gây thoát vị đĩa đệm
Những điều kiện làm dịch chuyển tổ chức đĩa đệm gây nên lồi hoặc TVĐĐ là:
- Áp lực trọng tải cao.
- Áp lực căng phồng của tổ chức đĩa đệm cao.
- Sù lỏng lẻo từng phần với sự tan rã của tổ chức đĩa đệm.
- Lực đẩy, nén, Ðp, xoắn, vặn quá mức vào đĩa đệm cột sống.
Cơ chế bệnh sinh của TVĐĐ có thể khái quát rằng: thoái hoá đĩa đệm
là nguyên nhân cơ bản bên trong, tác động cơ học là nguyên nhân khởi phát
bên ngoài và sự phối hợp của hai yếu tố đó là nguồn gốc phát sinh TVĐĐ.
Khi TVĐĐ xảy ra quá trình bệnh lý sẽ diễn biến theo quy luật sau:
- TVĐĐ ra sau, lúc đầu nó gây xung đột đĩa – rễ do đĩa đệm chiếm chỗ.
- Quá trình xung đột đĩa - rễ thần kinh kéo theo xung đột đĩa – mạch
máu gây giãn ứ tĩnh mạch ống sống và các xung đột khác.
- Xung đột đĩa – dây chằng vàng làm tăng sinh dây chằng vàng.
- Xung đột rễ – mạch máu – dây chằng vàng – mỏ xương.
Cuối cùng có thể không chỉ một rễ thần kinh liên quan đĩa đệm ban đầu
mà toàn bộ bó sợi thần kinh trong bao cũng bị tổn thương gây HCĐN, bệnh

nhân dễ bị tàn phế nếu không cắt đứt sớm được các xung đột trên. Đó là vòng
xoắn bệnh lý của TVĐĐ [1], [23], [24].

1.4. Một số phân loại HCĐN do TVĐĐ.
1.4.1. Phân loại theo vị trí thoát vị
* Theo Vò Quag Bích (1993) dùa theo tầng thoát vị chia ra 3 loại HCĐN [1]:
+ Loại 1 : Hội chứng đuôi ngựa trên: liệt ngoại vi toàn bộ ở 2 chân, rối
loạn cảm giác 2 chân từ nếp bẹn trở xuống, rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi. Thể
này Ýt gặp vì Ýt xảy ra TVĐĐ ở cao (L
1
–L
2
và L
2
–L
3
).
+ Loại 2: Hội chứng đuôi ngựa giữa thường gặp do TVĐĐ L
3
–L
4

L
4
–L
5
. Liệt gấp cẳng chân và liệt các động tác của bàn chân và ngón chân.
Mất cảm giác toàn bộ ngón chân, bàn chân mặt sau đùi và mông, rối loạn cơ
vòng kiểu ngoại vi.
+ Loại 3: Hội chứng đuôi ngựa dưới do TVĐĐ L

5
–S
1
. Rối loạn cơ thắt
kiểu ngoại vi, rối loạn cảm giác vùng đáy chậu. Không có liệt hoặc chỉ liệt
một số động tác của bàn chân (rễ L
5
, S
1
, S
2
).
1.4.2. Phân loại theo diễn biến bệnh lý
* Theo Jason W. N (Mỹ – 1999) phân HCĐN ra hai thể cấp và mãn tính [56]:
- Thể cấp tính (30%): Thường xuất hiện ở người trẻ, khả năng hồi phục
tốt hơn, không có tiền sử đau lưng. Các triệu chứng xuất hiện đột ngột như
đau lưng, đau thần kinh tọa, tiểu tiện bí hoặc không tự chủ, liệt vận động hoặc
rối loạn cảm giác.
- Thể mãn tính (70%): Xuất hiện từ từ và hay gặp ở người cao tuổi, tiền
sử có đau lưng và đau thần kinh tọa tái phát trong thời gian dài (vài năm) sau
đó gây rối loạn vận động và cảm giác, cuối cùng gây rối loạn đại tiểu tiện,
thường liên quan đến hẹp ống sống.
* Theo Mark S. Greenberg (Mỹ – 2001) có 3 kiểu xuất hiện HCĐN như sau [67]:

1) Hội chứng đuôi ngựa xuất hiện đột ngột, không liên quan với đau
lưng từ trước.
2) Trong tiền sử đã có đau lắt lưng tái diễn và đau thần kinh hông, cuối
cùng xuất hiện hội chứng đuôi ngựa.
3) Bệnh nhân có biểu hiện đau thắt lưng và đau dây thần kinh hông to 2
bên, sau đó tăng dần thành hội chứng đuôi ngựa.

1.4.3. Phân loại theo biểu hiện lâm sàng
* Theo Hồ Hữu Lương (2001) phân ra hội chứng đuôi ngựa hoàn toàn và
không hoàn toàn [23]:
- HCĐN hoàn toàn (thể điển hình): Biểu hiện đầy đủ các triệu chứng
trên lâm sàng như liệt hoàn toàn hai chân kiểu ngoại vi, teo cơ đùi và cẳng
chân nhiều, rối loạn cảm giác TSM thường xuyên, đại tiểu tiện không tự chủ,
thường kèm theo các dấu hiệu thần kinh thực vật (chân phù hoặc giảm nhiệt
độ chân) do thoát vị cao( L
1
-L
2
, L
2
-L
3
).
- HCĐN không hoàn toàn (thể không điển hình): Biểu hiện không đầy
đủ như liệt hai chân không hoàn toàn (liệt cơ gấp và duỗi cẳng bàn chân), teo
cơ mức độ vừa, rối loạn cảm giác TSM không thường xuyên (thường xuất
hiện khi vận động), bí đại tiểu tiện không hoàn toàn thường do TVĐĐ thấp.
1.5. Đặc điểm lâm sàng
* Các triệu chứng chung của TVĐĐ.
- Đau cột sống thắt lưng: người bệnh thường xuất hiện đau tù nhiên và
tiến triển từ từ hoặc xuất hiện đau đột ngột sau một chấn thương hoặc sau vận
động sai tư thế (vặn, xoắn, khiêng vác đồ vật không phù với tư thế vận động
của cột sống). Đau tăng lên khi ho, hắt hơi hoặc đi lại nhiều, nhiều khi bệnh
nhân sợ không giám ho và vận động, nằm nghỉ thì đỡ đau.

- Cột sống mất đường cong sinh lý lệch vẹo sang bên, co cứng cơ cạnh
sống, Ên điểm cạnh sống và điểm chính sống dọc theo gai sau thấy đau.

- Hạn chế tầm hoạt động của cột sống thắt lưng nếu bệnh nhân đứng
được: đánh giá bằng chỉ số Schober thấy giảm hoặc nghiệm pháp khoảng cách
ngón tay - đất tăng.
- Đau lan theo rễ thần kinh: đau lan xuống mông, đùi và cẳng chân, có
khi đến tận đầu ngón chân theo vùng rễ thần kinh chi phối tương ứng. Mét số
bệnh nhân nặng, liệt hai chân hoàn toàn thường đau Ýt.
- Dấu hiệu căng và Ðp rễ thần kinh: Đánh giá bằng nghiệm pháp
Lasègue (+), điểm đau Valleix (+), dấu hiệu chuông bấm (+).
- Rối loạn phản xạ: tăng, giảm hoặc mất phản xạ gân gót, gân cơ tứ đầu,
phản xạ hậu môn.
* Các triệu chứng chính của HCĐN
- Rối loạn cảm giác tầng sinh môn: tê bì, giảm hoặc mất cảm giác.
- Rối loạn vận động: biểu hiện là liệt nhẽo ngoại biên một hoặc hai
chân, rối loạn vận động một hoặc nhiều nhóm cơ do rễ thần kinh chi phối.
Nếu TVĐĐ cao như L
1
-L
2
bệnh nhân liệt và teo các cơ đùi trở xuống, còn
TVĐĐ thấp thường liệt cơ gấp và cơ duỗi, cẳng chân bàn chân (đánh giá bằng
nghiệm pháp đứng mòi, đứng gót chân) và so sánh hai bên. Đánh giá độ liệt
của sức cơ theo thang điểm của hội đồng Y khoa Anh Quốc [9], [59] chia
thành 6 độ sau:
+ Độ 0: Liệt hoàn toàn.
+ Độ 1: Co cơ tối thiểu (không gây được cử động).
+ Độ 2: Có cử động chủ động, với điều kiện loại trừ tác dụng của trọng
lực (ví dô co gối khi cả đùi và cẳng chân nằm trên một mặt phẳng ngang).

+ Độ 3: Co cơ chống được trọng lực một cách yếu ớt, không chống
được sức cản.

+ Độ 4: Co cơ chống được cả trọng lực lẫn sức cản.
+ Độ 5: Sức cơ bình thường.
- Rối loạn cơ tròn: Bệnh nhân có thể bí tiểu hoàn toàn hoặc không hoàn
toàn, đi tiểu khó hoặc đái rỉ, không tự chủ và đại tiện khó hoặc không tự chủ.
- Dấu hiệu thần kinh thực vật: teo cơ được đánh giá mức độ teo của chi
thể bằng cách đo chu vi vòng đùi và bắp chân của bệnh nhân, căn cứ vào mốc
cố định rồi so sánh hai bên. Dấu hiệu ra mồ hôi ở da chân hoặc da chân khô
ráp, giảm nhiệt độ chi thể như chân lạnh, loét điểm tỳ.
- Rối loạn sinh dục: giảm hoặc mất. Đây là triệu chứng khó đánh giá và
rất tế nhị ở mét số bệnh nhân là phụ nữ hoặc một số bệnh nhân là nam giới
tuổi cao.
1.6. Các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng
1.6.1. Chụp X.quang quy ước cột sống thắt lưng.
Chụp X.quang quy ước vùng CSTL-C giúp chẩn đoán phân biệt với các
bệnh khác như: viêm khớp cột sống cùng chậu, viêm xương, lao cột sống, ung
thư cột sống, các dị tật bẩm sinh gai đôi, trượt đốt sống, cùng hoá đốt sống
thắt lưng.
Trên phim X.quang quy ước đĩa đệm là phần không cản quang chỉ có
thể đánh giá gián tiếp thông qua những thay đổi của khoang gian đốt sống và
đốt sống kế cận. Vì vậy X.quang quy ước thường phản ánh giai đoạn muộn
của bệnh khi thấy có tam chứng Barr (giảm chiều cao khoang gian đốt sống,
mất ưỡn thắt lưng và vẹo cột sống thắt lưng). Theo Hồ Hữu Lương [23], [24]
tam chứng Barr chiếm tỷ lệ 19,7% bệnh nhân TVĐĐ.

1.6.2. Chụp bao rễ thần kinh.
Đây là phương pháp đơn giản dễ thực hiện ở hầu hết các tuyến, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của người dân Việt Nam và cho kết quả
chính xác tới 94,3%. Đây là kỹ thuật chẩn đoán bổ trợ quan trọng cho hình
ảnh gián tiếp đối với các bệnh lý thần kinh vùng đuôi ngựa.
Ngày nay các thuốc cản quang iod tan trong nước có rất Ýt độc tính,

chụp an toàn, có thể đưa vào não thất được áp dụng rộng rãi như: Amipaque,
Omnipaque (Pháp), Iopamiron (Mỹ), Pamiray 300 (Đức).
Trên phim chụp bao rễ cho phép đánh giá hình ảnh gián tiếp của TVĐĐ
chính xác đến 94,3% [2], [24], [31] được thể hiện bằng các hình ảnh sau:
- TVĐĐ lệch bên: hình cụt rễ và hình lẹm cột thuốc.
- Hình lồi đĩa đệm.
- Hình đồng hồ cát: TVĐĐ trung tâm hoặc cạnh trung tâm.
- Hình tắc cột thuốc hoàn toàn hoặc không hoàn toàn trong TVĐĐ có
hội chứng đuôi ngựa.
Ngoài ra còn thấy hình ảnh ống sống hẹp hay rộng. Tuy nhiên không
thể phân biệt được hình ảnh chèn Ðp do các thành phần khác như tổ chức xơ,
sẹo hay tổ chức di căn [2], [31].
1.6.3. Chụp cắt líp vi tính (CT - Scanner)
Chụp CLVT là phương pháp chẩn đoán hiện đại dùa trên nguyên lý
chỉnh lý hình ảnh của một thiết đồ chụp cắt líp bằng các số liệu tính toán qua
máy điện tử về giá trị hấp thu tia X khi vùng khám được chiếu dưới các góc
độ khác nhau.
Hình ảnh TVĐĐ trên ảnh CLVT thể hiện bằng khối thoát vị làm thay
đổi đường viền phía sau, sau bên của đĩa liên đốt sống. Sự thay đổi này thể

hiện bởi một hình lồi nhiều hay Ýt khu trú ở bờ sau của đĩa đệm. Tỷ trọng
khối thoát vị có cùng đậm độ tỷ trọng với đĩa đệm từ 60 đến 120 đơn vị
Housfield. Đặc biệt là sau khi bơm thuốc cản quang vào khoang dưới nhện
cho thấy rõ những chi tiết về đĩa đệm thoát vị.
Tuy nhiên CLVT chỉ chụp được theo trục axial nên độ nhậy còn thấp.
Đặc biệt là đối với các mảnh đĩa đệm di trú tự do thì khó chẩn đoán [13].
1.6.5. Chụp cộng hưởng từ ( MRI)
Đây là phương pháp chẩn đoán hiện đại và ưu việt cho thấy hình ảnh
trực tiếp với độ phân giải cao trong không gian ba chiều, không phải dùng các
thủ thuật can thiệp và không gây nhiễm xạ cho thầy thuốc và bệnh nhân.

Trong kỹ thuật cộng hưởng từ người ta sử dụng nguyên tố Hydrogen
làm cơ sở cho việc phát và thu tín hiệu. Có được điều đó là do trong mô cơ
thể con người nguyên tố Hydrogen là nhiều nhất (khoảng 10
19
hạt nhân
H/mm
3
) và mô men từ của hạt nhân này cũng mạnh nhất, cho tín hiệu mạnh
gấp 1000 lần tín hiệu của hạt nhân khác. CHT cho phép thấy được hình ảnh rõ
nét của từng bộ phận cơ thể là do thành phần nước trong các mô cơ thể khác
nhau. Trong một số trường hợp đặc biệt có tiêm chất đối quang từ (Gadolium)
để đánh giá như trong các bệnh lý về mạch máu hoặc một số loại u tuỷ.
- Hình ảnh cột sống đĩa đệm trên phim CHT [10], [13], [39]:
+ Hình ảnh các đốt sống: thường chứa hai phần chính, vỏ xương của
thân đốt sống là viền ngoài giảm tín hiệu trên ảnh T1W; phần tuỷ xương có
tín hiệu cao hơn và đồng nhất do có nhiều phân tử mì. Các thân đốt sống cân
đối theo đường cong sinh lý.
+ Hình ảnh đĩa đệm: đĩa đệm là tổ chức đồng nhất tín hiệu ở giữa các
thân đốt sống. Trên ảnh T1W đĩa đệm là tổ chức giảm tín hiệu và tăng tín hiệu
trên ảnh T2W do cấu trúc rất giàu phân tử nước. Bình thường các đĩa đệm có

ranh giới rõ nét, mềm mại được giới hạn phía trước và phía sau bởi dây chằng
dọc trước và dây chằng dọc sau, còn phía trên và dưới là bờ các thân đốt sống
liền kề. Khi có TVĐĐ ranh giới trên bị phá vỡ tổ chức thoát vị vượt qua giới
hạn bình thường.
+ Hình ảnh ống sống: là khoang chứa dịch não tuỷ và trung tâm là cột
tuỷ. Đường kính ống sống trung bình là 15 –18mm. Theo Joseph và cộng sự
cho rằng: nếu kích thước ống sống trên 12mm là bình thường, từ 10 – 12mm
là hẹp tương đối và dưới 10mm là hẹp tuyệt đối. Trên các ảnh T2W cắt ngang
chóng ta thấy cấu trúc trong lỗ ghép gồm mạch máu và thần kinh vì màng

cứng chứa dịch não tủy và rễ thần kinh tận hết ở phía ngoài nên khi TVĐĐ ở
lỗ ghép tổ chức dịch não tuỷ sẽ mất. Đây là hình ảnh tốt nhất khi xem các
chèn Ðp bên của rễ thần kinh mà các phương pháp thăm dò hình ảnh khác
không thể phát hiện được.
+ Dịch não tuỷ có hình ảnh thuần nhất giảm tính hiệu trên ảnh T1W và
rất tăng tín hiệu trên ảnh T2W. Bao bọc xung quanh cột tuỷ ở trung tâm với
hình ảnh tăng tín hiệu vừa phải trên cả ảnh T1W và T2W rất đồng nhất và
mềm mại, giống cấu trúc của một mô mềm. Trên ảnh T1W và T2W cấu trúc
tuỷ dễ dàng phân biệt được ranh giới giữa chất xám ở trong và chất trắng nằm
xung quanh, đặc biệt rõ nét trên ảnh T2W.
+ Các cấu trúc khác: mỡ, khối cơ, khối xương, da và tổ chức dưới da
cũng được hiện ảnh một cách rõ nét với độ phân giải cao.
- Hình ảnh TVĐĐ được mô tả trên CHT như sau [13], [19], [23]:
+ Phình lồi đĩa đệm: bờ phẳng, phình nhẹ ra sau, không lồi khu trú,
không tổn thương bao xơ.
+ Thoát vị đĩa đệm: lồi khu trú của thành phần đĩa đệm, tổn thương bao
xơ, có thể TVĐĐ ra trước hoặc sau. Một sè trường hợp thoát vị vào thân đốt

×