Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Chương 2: Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 đến 1945_6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.25 KB, 32 trang )

Chương 2: Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1930 đến 1945

“…Không có một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương
ở dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị,
kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống
trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền thống trị của đế quốc
Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc
các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như
Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền
giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết không
nhất định là rời hẳn nhau ra” [6;541-542]
Về tương quan lực lượng

“a) Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế, chính trị, dựa vào
bọn vua quan bổn xứ thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc; b) Một
bên là cả các dân tộc từ Việt Nam, Miên, Lào đến Thổ, Thượng, v.v tất
cả các giai cấp trừ bọn phong kiến và một số bộ phận phản động trong
đám địa chủ và tư sản, tất cả các đảng phái, trừ bọn chó săn đế quốc
phản bội quyền lợi dân tộc…” [6;533-534]

Về mục tiêu trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới:
“Dưới đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất
cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng
dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết, đế quốc Pháp
chết, dân chúng Đông Dương còn" [6; 536]

Về phương hướng chiến lược cách mạng: “…đứng trong tình thế khác ít
nhiều với tình thế 1930-1931, chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền
bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách


mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân
quyền. Không giải quyết được cách mệnh tư sản dân quyền, không giải
quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không bao
giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế
nào mà để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh
đổ đế quốc. Hiện tình hình có thay đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng
hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc
thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa
chủ và tư bản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải
phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của
cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy
mà giải quyết [6;538 -539]

Về hình thức tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất
cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế
quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện
bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc [6;552]

Về mặt tổ chức, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng
quyết nghị thành lập Mặt Trận Thống nhất phản đế Đông Dương, trong
đó “lực lượng chính của Cách Mệnh là công nông”, “dưới quyền chỉ huy
của vô sản giai cấp” [6;539-540]

Hội nghị đã đưa ra một cương lĩnh cụ thể của công cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, gồm 14 điểm:

1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay
sai cho đế quốc và phản bội dân tộc ta.
2.Đông Dương hoản toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết).
3.Lập Chính Phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.

4.Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập Quốc
dân cách mạng quân.
5.Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao thông, các
binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất.
6.Tịch kí và quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc,
bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc.
7.Tịch kí và quốc hữu hoá đất ruộng của đế quốc thực dân, cố đạo và
bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, cố đạo, đất công điền,
đất bỏ hoang chia cho quần chúng nhân dân cày cấy.
8.Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm mỏ, luật xã
hội bảo hiểm hoàn toàn, tiền hưu trí cho thợ, tìm công ăn việc làm cho
thợ thất nghiệp, công việc ngang nhau đồng lương ngang nhau.
9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nông phố và bình
dân ngân hàng.
11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn, bãi công,
phổ thông đầu phiếu.
12.Phổ thông giáo dục cưỡng bách.
13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính trị.
14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao [6;541-542].


Tóm lại, với đường lối Cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần 6 Ban
Chấp Hành Trung ương Đảng, cách mạng Việt Nam bước vào một giai
đoạn mới – giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành độc lập dân tộc.
3. Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang, và căn cứ địa Cách
mạng tháng Tám

3. 1 Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị


Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới diễn ra rất căng
thẳng, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hoà. Nguy cơ
bùng nổ chiến tranh thế giới đang đến gần. Trước tình hình đó, tháng
10 – 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về nước để trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.

Sáng ngày 28 – 1 – 1941 (tức mồng 2 tết Tân Tỵ), Nguyễn Ái Quốc rời
đất Trung Quốc và đến Pác Bó, Cao Bằng cùng ngày 28 – 1.

Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị những công việc của Hội
Nghị Ban Chấp hành Trung ương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành
từ ngày 10 đến 19 – 5 – 1941, với sự tham dự của Trường Chinh, Hoàng
Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu Xứ uỷ Bắc Kì và
Trung Kì và một số đại biểu hoạt động ngoài nước.

Sau khi phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh
thế giới thứ hai, tình hình trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ đánh
Pháp, đuổi Nhật không phải là nhiệm vụ riêng của giai cấp công nông
mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương: “Trong lúc
này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được [7;113 ]

Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa
chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng
đất cảu bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng

đất công cho công bằng, giảm địa tôm giảm tức”.

Hội nghị chủ trương giải quyết vần đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước, để thức tỉnh tinh thần dân tộc của các nước trên bán đảo Đông
Dương; thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhât rộng
rãi. Ở Việt Nam, mặt trận đó lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng của Mặt trận đều
lấy tên thống nhất là “Hội cứu quốc”, như “Hội Công nhân cứu quốc”,
v.v…

Hội nghị chủ trương thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” đối với các dân
tộc trên bán đảo Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật thì các
dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành Liên
bang Cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc, một quốc
gia tuỳ ý, “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi
trọng" [7;113.]

Hội nghị đã chính thức bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới với một
Ban Thường vụ gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt, do Trường Chinh làm Tổng bí thư.

Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hàon chỉnh đường
lối đấu tranh mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân
tộc lên hàng đầu, đàon kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt
Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và
thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang;
tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc
lập.


Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời, ngày 10 –
1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn
nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta
nhục nhằn, đau khổ như lúc này […].Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước
mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết
thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian.

Mở con đường sống cho đồng bào, “Việt Nam Độc lập đồng minh” (Việt
Minh) ra đời, chào các bạn.

Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính
sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt
yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là:

“1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
2.Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do” [ 7;470.]

Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10
chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội
Quốc dân ở Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ
bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam:

Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (5-1941) và Thư kêu gọi toàn dân đánh đuổi Pháp-Nhật của
Nguyễn Ái Quốc (6 – 6 – 1940), Đảng ta xúc tiến công cuộc xây dựng lực
lượng mọi mặt, trước hết là xây dựng các đoàn thể Việt Minh trên toàn
quốc.


Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức
phong phú, đa dạng như truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản
báo chí Cách mạng.

Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt
Nam độc lập” (gọi tắt là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận
Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt
Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo
dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.

Ngày 25 – 1 – 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ
quan tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt Trận Việt Minh.

Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia
Việt Minh (gọi là “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm
1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở
thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ
tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt Minh nắm
giữ.

Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.

Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ
nữ cứu quốx, Nông dân cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng
bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình (Bắc
Kì), Thanh Hoá, Quảng Bình (Trung Kì).

Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng

viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn,
vùng Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ
Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.

Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận
Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần
chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá
banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần
vào việc bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng
trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng.


3.2.2 Quá trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách
mạng

Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn
Ái Quốc quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta
chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của
Đảng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung
Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy
Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây
dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai.

Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt
động,vừa phát triển lực lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính
thức Cứu quốc quân.
Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại

Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng
thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít
tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc.

Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung
đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.

Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em
các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh.Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu
tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau khi thành
lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia
những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ
căn cứ Cách mạng.

Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000
quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt
Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I
bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ
(từ tháng 7-1941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt
vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc
quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn
lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển
lực lượng.

Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II* được thành lập tại
rừng Khuôn Máy (xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân
II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ
huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu
quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc

hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.

Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực
lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh
đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu
đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng,
Chương trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học
chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và
5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc
ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên
truyền trong quần chúng.

Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại
lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên
truyền Cách mạng.

Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định,
Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một
khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.

Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100
đội viên vẫn hoạt động ở Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du
kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc.

Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã
tạm dừng.

Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng
thực hiện chiến tranh du kích.


Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh
dũng, bất khuất của các Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi
đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức Đông
Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào
rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến đấu không
ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm
cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những
bộ đội du kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét
những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ
đội mới để mở rộng du kích chiến tranh.Đồng thời phải tăng gia gấo
việc cổ động ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện [7;251].
Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang.
Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ
địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán
bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc
quân ra đời, khu căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng.
Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ,
Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai)
được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn –
Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm chính.

Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh
phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều được
canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng diễn ra
công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân
dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn
luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi đã
đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng

trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận
Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng.

Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành
lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán
bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt,
giao thông liên lạc.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ
địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở
thành một trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng của cả nước.

Trong thời gian này ở Bắc Trung Kì,Tỉnh Uỷ Thanh Hoá đề ra chủ trương
thành lập căn cứ địa cách mạng, làm cơ sở phát triển lực lượng, thúc
đẩy phong trào phản đế. Tỉnh ủy chọn vùng Ngọc Trạo để xây dựng
chiền khu ở vùng Đông Bắc của tỉnh. Tháng 7- 1941, Ban lãnh đạo chiến
khu được thành lập, Đội du kích Ngọc Trạo cũng ra đời với 21 đội viên.
Cuối tháng 9 – 1941, Đội tăng lên 80 đội viên, ảnh hưởng và phạm vi
chiến khu ngày càng lan rộng.
Thực dân Pháp đã điều lực lượng đến đàn áp. Do chênh lệch về quân
số, lại thiếu kinh nghiệm và vũ khí, Đội du kích bị tổn thất lớn.

Ban lãnh đạo chiến khu ra lệnh cho Đội du kích rá khỏi Ngọc Trạo phân
tán về các địa phương. Cuối tháng 10 – 1941, chiến khu Ngọc Trạo
chấm dứt hoạt động.

Trong khi đặt trọng tâm công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng
chú trọng vận động các tầng lớp nhân dân đấu tranh dưới nhiều hình
thức để duy trì và hướng phong trào quần chúng vào mục tiêu cứu

quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương viết:
“…ta phải khôn khéo huy động toàn thể nhân dân cùng với địa chủ, phú
nông đấu tranh chống lại sự tịch thu lúa, gạo, đậu phụng…của Pháp –
Nhật. Huy động thợ thuyền tranh đấu chống lại sự bắt làm công như nô
lệ dưới báng súng, ngọn roi của quân Nhật trong những công xưởng
quan hệ đến quân sự. Huy động nhân dân đấu tranh chống lại sự tàn
bạo của lính Nhật. Ngoài ra, hằng ngày phải mở rộng tranh đấu cứu
quốc, như tổ chức ra tuần lễ cứu quốc, tuần lễ ủng hộ Bắc Sơn, tuần lễ
ủng hộ Liên Xô bằng những hình thức mít tin, diễn thuyết, mở lạc
quyên, rải truyền đơn, biểu tình,.v.v." [7; tr129]

Theo chủ trương đó, trong những năm 1941 – 1942, các cuộc đấu
tranhcủa công nhân ở một số thành phố và các khu công nghiệp đã
bùng phát, như các cuộc đấu tranh của công nhân ngành in, cưa gỗ, giặt
(Hà Nội), xưởng bột giấy Việt Trì (Phú Thọ) hay xưởng giầy Bata, đồn
điền Bình Lộc (Biên Hòa), đồn điền Lộc Ninh (Thủ Dầu Một)…Những
cuộc đấu tranh này diễn ra dưới hình thức đình công, bãi công, bãi
thực, đưa yêu sách, phản đối đánh đập, đòi tăng lương, trả tiền lương
đúng hạn…Nhìn chung, phong trào đấu tranh của công nhân còn ít về số
lượng, nhỏ về quy mô.

Nông dân đấu tranh dưới hình thức biểu tình, đưa kiến nghị, chống hào
lí, chủ đồn điền người Pháp cướp đoạt ruộng đất, lấn chiếm đất công,
tham ô công quỹ, chống bắt phu, bắt lính…Tiêu biều là phong trào ở
Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Đông, Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Nam,
Bình Định, Phú Yên…Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của nông dân còn
thiếu bề rộng lẫn bề sâu, chưa liên kết được với các phong trào khác.

Tầng lớp thanh niên trí thức ở các thành phố lớn tập hợp trong các
đoàn thể, tiến hanh các hoạt động xã hội,khêu gợi lòng yêu nước trong

nhân dân, kêu gọi thanh niên phụng sự dân tộc. Ở Sài Gòn – Chợ Lớn
xuất hiện phong trao yêu nước công khai lấy tên là “Phong trào câu lạc
bộ học sinh”, phong trào thu hút tới ba, bốn nghìn học sinh, sinh viên,
trí thức trong các trường Trung học kĩ thuật và Bách khoa ở Sài gòn
tham gia.

Song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta cũng đề ra
chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp
phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ủng hộ Liên ban Xô
viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu
hiệu “Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc
“bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống
phát xít Nhật.

Với tinh thần trên, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên
giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên
hiệp với các lực lượng cách mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm
tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài.

Ngày 27-8-1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô
cớ bắt gaim 13 tháng, sau mới trả tự do cho Người.

Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong
thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não
của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an
toàn ở Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh),
Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km,
sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc
Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng
chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi

phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng.
Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng
quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản
của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô.

Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle
vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh
mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bứơc vào giai đoạn phát triển mới.
Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta
phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La
(Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và
xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội
nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát
xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi
cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải
đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng
phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng
phản công Trục bên Viễn Đông.

Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã
của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ
thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước” [7;279]

Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận
định:


1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ
thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những
cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi
xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.

2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia
tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách
mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính
cách toàn dân tộc.

3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm
những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều
cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân
Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới
kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc
tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]

Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc
“chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong
giai đoạn hiện tại”.

Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện
cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các
tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du
kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.

Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật –
Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện

tập dượt họ.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực
lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các
đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành
thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy,
trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô
tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ
thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở
Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì…

Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay,
nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt
Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.

Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở
chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái
Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong
quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội
nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập
trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi
Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.

Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập
thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn
luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà
Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung
phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn

(Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền
với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn.

Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt
Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”.

Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.

Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua
vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.

Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ
Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng
khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực
lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung
ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và
kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.

Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát
động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị
nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã
quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa
phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ
thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục" [ 10; 129]

Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua,
nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn
chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong
trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ
tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị

tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới
có thế đấy manh phong trào tiến lên.[10;130]

Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị
trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động
nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi

×