Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Chương 2: Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 đến 1945_5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.21 KB, 32 trang )

Chương 2: Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1930 đến 1945

Theo báo cáo của Sở Mật thám Sài Gòn ngày 12 – 12 – 1936, trung bình
mỗi tỉnh có trên 150 cuộc họp, có cuộc họp đông tới 300 người.

Bọn phản động thuộc địa và tay sai ráo riết phá hoại cuộc vận động,
như đóng cửa báo Dân Quyền. mật tham, chủ tỉnh, chủ quận theo dõi
chặt chẽ các hoạt động ở địa phương, gửi báo cáo hằng ngày về văn
phòng Thống đốc Nam Kì.

Ngày 15 – 9 – 1936, Marius Moutet, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa gửi điện
cho Toàn quyền Đông Dương cho phép dùng mọi biện pháp thích đáng
để ngăn chặn cuộc vận động. sau khi có lệnh cấm Đông Dương Đại hội,
các cuộc khám xét, bắt bớ càng được thục dân đẩy mạnh. Tuy nhiên,
các Ủy ban hành động vẫn tiếp tục thành lập. từ ngày 18 đến 29 – 9 có
130 Ủy ban hành động mới ra đời.

Từ tháng 2 – 1937, các Ủy ban hành động ngày càng công khai hóa hoạt
động. sau khi biết Ủy ban điều tra của Quốc hội Pháp không sang Đông
Dương, các Ủy ban hành động lần lượt giải tán. Tuy nhiên, các lực
lượng này, nhân cơ hội đón đặc phái viên của Chính phủ Pháp Justin
Godart và toàn quyền Brevie sang nhận chức ở Đông Dương thời gian
sau đó, tiếp tục động viên, tổ chức quần chúng đấu tranh.

Ở Bắc Kì, những người cộng sản ở Hà Nội đã sử dụng tờ báo Hồn Trẻ
làm công cụ tuyên truyền cho cuộc vận động Đông Dương Đại hội theo
đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ủy ban lâm thời chi nhánh
Đông Dương Đại hội được thành lập. Ủy ban hành động xuất hiện ở
nhiều tỉnh, như Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Ninh Bình, Phúc Yên, Thái
Bình.



Sau đó, các Ủy ban hành động ngừng hoạt động vì bị bọn phản động
đàn áp.
Ở Trung Kỳ, phong trào hưởng ứng Đông Dương đại hội chậm hơn các
nơi khác, phong trào hạn chế vì bị chings quyền thực dân và bọn phản
động phá hoại. tuy vậy, Ủy ban lâm thời chi nhánh Trung Kỳ và Ủy ban
hành động các tỉnh như Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Ngãi,Đà Nẵng
vẫn được thành lập. ngày 21-9-1936, có lệnh cấm Đông Dương Đại hội
toàn Trung Kì, phong trào quần chúng đáu tranh hợp pháp chưa được
một tháng thì bị chặn đứng.

Ở nước ngoài, Việt kiều ở các nước như Pháp, Trung Quốc cũng sôi nổi
hưởng ứng Đông Dương Đại hội. Họ cũng lập ra các ủy ban hành động
và tiến hành thu thập nguyện vọng của nhân dân.

Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính quyền
thực dân Pháp phải ra nghị định ngày 11-10-1936 ban hành một số
quyền lợi cho công nhân, như một ngày làm việc không quá 10 giờ (
tính từ ngày 1-11-1936), từ ngày 1-1-1937, không được làm việc quá 9
giờ một ngày và từ ngày 1-1-1938, công nhân được nghỉ việc ngày chủ
nhật và nghỉ phép năm được hưởng lương, cấm bắt phụ nữ và trẻ em là
việc ban đêm. Ngày 30-12-1936, chính quyền Pháp ở Đông Dương quy
định thêm một số chế độ lao động, như tiền lương tối thiểu, chế đọ học
nghề, chế độ nghỉ sinh, cho con bú của nữ công nhân trong lúc làm việc.

Chính quyền thực dân còn phải trả tự do cho tù chính trị. Ngày 5-1-
1936, chúng đã trả tự do cho hai đại biểu cộng sản trong Ủy ban lâm
thời Đông Dương Đại hội. đến tháng 10-1937 có 1532 tù chính trị được
trả tự do, phần lớn là đảng viên cộng sản.


Cuộc vận động Động Dương Đại hội là kết quả tất yếu trong quá trình
phát triển kinh tế, chính trị,xã hội Việt Nam và sự tác động của hoàn
cảnh quốc tế vào Việt Nam những năm 30. những điều kiện thuận lợi
khách quan được tận dụng và phát huy qua yếu tố chủ quan là lực
lượng cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương Đại hội đánh dấu bước phục hồi mạnh mẽ của phong trào
cách mạng Việt Nam.

Bên cạnh cuộc vận động Đông Dương Đại hội, các tầng lớp nhân dân đã
tổ chức những cuộc đáu tranh đòi quyền lợi ở khắp nơi trong cả nước.
Công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chóng cúp
phạt,đánh đập đòi tự do nghiệp đoàn. Nông dân đồi giảm sưu thuế, đòi
cải cách hương thôn. Tiểu thương, tiểu chủ bãi thị,đòi giảm thuế chợ,
thuế hàng; công chức đòi tăng lương v.v…

Sáu tháng cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh, trong đó có 236 cuộc
đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân mỏ
thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) và cuộc bãi công của công nhân mỏ Hồng Gai
- Cẩm Phả trong tháng 11-1936. Ngà 23-11-1936, trên 20 ngàn công
nhân mỏ Hồng Gai – Cẩm Phả, Mông Dương, Hà Tu, Hà Lầm, Cọc Năm
bãi công đòi tăng 25% lương. Cuộc đấu tranh thắng lợi bọn tư sản Pháp
phải nhượng bộ.

Năm 1937, phong trào đấu tranh tiếp tục dâng cao, có khoảng 400 cuộc
bãi công của công nhân ở khắp các ngành sản xuất. tiêu biểu là cuộc bãi
công của công nhân nhà máy tơ Hải Phòng, dệt Nam Định, xưởng Ba
Son, mỏ than Uông Bí, đặc biệt là cuộc bãi công của công nhân xe lửa
Nam Đông Dương ngày 3-7-1937; cuộc bãi công của công nhân mỏ than
Vàng Danh (Uông Bí) ngày (28-9-1937).


Trong năm1937, còn có hơn 150 cuộc đáu tranh của nông dân chống
cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức, khất thuế…

Ngoài ra, tiểu thương ở Hà Nội, HẢi Phòng, Sài Gòn và những thành
phố, thị xã cũng bài thị dòi giảm thuế chợ,thuế hàng hóa.

Những tháng đầu năm 1937 đánh dấu một bước phát triển mới của
phong trào. Trong dịp Justin Gardard, phái viên cuả chính phủ Pháp,
sang điều tra tình hình Đông Dương và toàn quyền Đông Dương Brévíé
sang nhận chức ở Đông Dương, nhiều cuộc mít tinh,biểu tình lớn diễn
ra suốt từ Nam đến Bắc Kì. Đó là cuộc biểu dương lực lượng to
lớn,đánh dấu bước phát triển mới của phong trào.

Tháng 3 và tháng 9 – 1937, Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương
họp, bàn về công tác quần chúng. Qua thực tế, phong trào lộ rõ nhược
điểm là các tổ chức chưa theo kịp phong trào đấu tranh của quần chúng
nhân dân. Do đó, Đảng quyết đinh thành lập Đoàn Thanh Niên phản đế
Đông Dương thay Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Hội cứu tế bình dân thay
Hội cứu tế đỏ Ở nông thôn lập các hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội
chèo, nhóm học chữ quốc ngữ…, những hình thức tổ chức mang tính
chất kinh tế, văn hóa xã hội; các hội quần chúng công khai, nửa công
khai như hội ái hữu, tương tế, thể thao, âm nhạc đã tận dụng các khả
năng hợp pháp, nửa hợp pháp, tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân
tham gia phong trào.

Bằng những hình thức tổ chức phong phú nói trên, đường lối chính trị
của Đảng không ngừng lan rộng, phong trào đấu tranh mang tính chất
quần chúng rộng rãi ngày càng phát triển.

Năm 1938, tính từ 1-1 đến 31-12 có 131 cuộc bãi công của công nhân,

trong đó có 4 cuộc đấu tranh không tính được số người tham gia 84
cuộc đấu tranh thu hút được 15484 công nhân tham gia. Như vậy, số
cuộc bãi công và số người tham gia đáu tranh năm1938 chỉ bằng1/3
năm trước. Tuy nhiên trình độ giác ngộ của quần chúng cao hơn, trình
độ tổ chức của các cơ sở Đảng vững vàng hơn, khẩu hiệu đấu tranh sát
hợp với tình hình hơn, sự phối hợp đáu tranh giữa các ngành, các địa
phương chặt chẽ và sâu rộng hơn.
Cuối năm 1938, nông dân ở miền Nam biểu tình do xảy ra nạn đối. Tiêu
biểu là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau trong tháng 10-
1938.
Phong trào đáu tranh của học sinh, của tiểu thương cũng diễn ra nhiều
nơi.
Trong ngày quốc tế lao động 1-5-1938, các cuộc mit tinh công khai
được tổ chức ở Hà Nội, Sài Gòn. Điều đó, thể hiện rõ trình độ giác ngộ,
ý thức tổ chức, đoàn kết đấu tranh của quần chúng và chính sách đúng
đắng của Đảng Cộng sản Đông Dương về Mặt trận dân chủ.

Sang năm 1939, phong trào đấu tranh gặp nhiều khó khăn do chính
sách đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp. Nhờ có kinh nghiệm và được
rèn luyện trong phong trào đấu tranh của những năm trước, phong trào
đấu tranh của công nhân vẫn diển ra liên tục và quyết liệt. Trong ba
tháng đầu năm 1939, phong trào có giảm sút, nhưng từ tháng tư,
phong trào lại lên dần và đạt đỉnh cao trong tháng 6. Các cuộc đấu
tranh diễn ra ở các khu công nghiệp như Hà Nội, Hải Phòng, Chợ Lớn.

Đấu tranh nghị trường

Trong thời kì1936-1939, Đảng cộng sản Đông Dương đã triển khai một
hình thức đấu tranh mới: đấu tranh nghị trường. Tháng 8-1937, Đảng
quyết định tham gia cuộc vận động bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì.

Cán bộ của Đảng vận đọng những người tiến bộ trong hàng ngũ trí
thức, phong kiến tư sản dân tộc, địa chủ cấp tiến ra ứng cử. Hầu hết
ứng viên của Mặt trân dân chủ đều trúng cử, do tuyên truyền, cổ động
tốt. Các chức viện trưởng, phó viện trưởng,chánh thư kí đều là người
của mặt trận hay là những người có cảm tình với mặt trận. Trong kì họp
tháng 6-1938, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, các nghị niện dân biểu
đều bác bỏ dự án thuế đinh, thuế điền của chính phủ.

Năm 1938, các ứng cử viên của mặt trận dân chủ thu được nhiều phiếu
nhất trong cuộc bầu cử Hội đòng Dân biểu Bắc Kì và hội đồng thành phố
Hà Nội.
Trong cuộc tranh cử Hội đồng Quản hạt Nam kì (Hội đồng thuộc địa)
ngày 16-4 - 1939, mặt trận dân chủ lại bị thất bại do thủ đoạn thâm độc
của bạn phản động thuộc địa và do những sai lầm của Mặt trận dân
chủ.

Những người cộng sản quyết định tham gia đấu tranh công khai ở nghị
trường nhằm mục đích mở rộng lực lương của Mặt trận Dân chủ. Xung
quanh những cuộc bầu cử và thảo luận ở nghị trường, Đảng Cộng Sản
Đông Dương nắm thời cơ vận động quần chúng, vạch trần chính sách
vận động của thực dân Pháp, bênh vực quyền lợi cho nhân dân. Từ
Đông Dương Đại hội, qua những cuộc tuyển cử của hội đồng thành phố
Sài Gòn, của Viện Dân biểu Trung Kì, Bắc Kì, Mặt trận dân chủ dần dần
hình thành. Hình thức kết hợp mặt trận phong phú, đa dạng, mỗi nơi,
mỗi khác. Ở Nam Kì, nhóm Tin Tức (cộng sản công khai) chi nhánh Đảng
Cộng Sản Pháp ở Hà Nội, nhóm Ngày nay (trí thức tiểu tư sản, tư sản có
khuynh hướng cải lương) liên hiệp thành mặt trận. Ở Nam kì, nhóm Dân
chúng(cộng sản công khai), chi nhánh Đảng xã hội và một số thành phần
tiến bộ liên kết với nhau. Ở Trung Kì Mặt trận chỉ biểu hiện ở danh sách
ứng cử viên trong cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu.


Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí

Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệt để sử dụng báo chí công khai,
truyền đơn làm vũ khí đấu tranh cách mạng, tuyền truyền đường lối,
quan điểm, tập hợp, hường dẩn phong trào đấu tranh cũa quần chúng.

Những đản viên cộng sản làm công tác báo chí dược tổ chức làm hai
nhóm bí mật và công khai. Họ tìm đủ mọi cách để ra báo, như xuất bản
báo chữ Pháp để tránh kiểm duyệt; thuê, mượn, mua lại báo của người
đã có giấy phép xuất bản…Tờ báo này bị đống cữa lại làm tiết tờ báo
khác, chỉ thay tên báo. Các nhà báo cộng sản đã vận động những nhà
báo tiến bộ ngả theo quan điểm của Đảng. từ năm 1937, báo chí Đảng
Cộng sản Đông Dương lảnh đạo phát triển nhanh chóng.

Cuộc đấu tranh diển ra sôi nổi nhất Bất Kì. Ở đây có nhiều đảng viên
cộng sản mớitham gia hoạt động, như Trần Huy Liệu, Hải Triều, Trường
Chinh, Khuất Duy Tiến…các tờ báo tiến Việt được xuất bản là Hồn trẻ,
Tân xã hội, Thời báo, Thời thế, Hà thành thời báo, Tin tức, Đời nay…Báo
tiến Pháp có Le Travail (Lao động ), Rassemblement (Tập hợp), En Avant
(Tiến lên), Notre Voix (Tiến nói của chúng ta)…

Ở Trung Kì có các tờ Nhành Lúa, Dân, Sông Hương tục bản, Kinh tế Tân
văn.Nhành lúa là tờ báo chuyên nghành công nông, nhưng viết toàn
chính trị, tuyên truyền cho phong trào đòi dân sinh, dân chủ.

Từ năm 1933, những người cộng sản ở Nam Kì đã cộng tác với nhóm
Tơrôtkit ra tờ báoLa Lutte (Tranh Đấu). báo này về sau bị nhóm Tơrôtkit
thao túng. Đến tháng 6-1937, những người cộng sản mới xuất bản được
các tờ L’Avant Garde (Tiền Phong),Le Peuple (Nhân Dân), Phổ Thông,

Dân Chúng, Mới…

Báo chí cách mạng mang tính chiến đấu mạnh mẽ, tuyên truyền, giới
thiệu chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng Sản Đông Dương, Liên Xô,
Quốc tế cộng sản, Mặt trận Nhân dân Pháp, Mặt trận chống phát xít của
nhân dân Tây Ban Nha, Trung Quốc…

Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích sắc bén trong những phong
trào lớn của cuộc vận động dân chủ,dân sinh thời kì 1936-1939.

Trong thời gian này, nhiều sách lí luận, chính trị được công khai xuất
bản ở trong nước hoặc từ ngoài nước đưa về. Những tác phẩm văn
hiện thực phê phán xuất hiện nhiều. Tiêu biểu là “Bước đường cùng”
của Nguyễn Công Hoan; “Tắt đèn” , “lều chõng” của Ngô Tất Tố; “Giông
tố”, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng; thơ của Tố Hữu; các vỡ kịch “Kiếm
tiền” của Vi Huyền Đắc; “Đời cô Lựu” của Trần Hữu Trang.

Cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào
truyền bá chữ Quốc ngữ nhằm giúp quần chúng lao động đọc sách báo,
nâng cao hiểu biết về chính trị, về cách mạng.

- Đấu tranh chống Tờ - rôt -kit

Bọn Tờ- rôt- kit ở Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng. Chúng
mang chiêu bài cách mạng để lừa bịp quần chúng, chia rẽ hàng ngũ
công nhân và Mặt trận dân tộc thống nhất, phá hoại tổ chức và hoạt
động của Đảng Cộng sản. Thủ đoạn thường dùng của bọn chúng là đề ra
những khẩu hiệu quá cao để dẫn phong trào đến chỗ thất bại. Chúng hô
hào làm cách mạng vô sản để đối lập với chủ trương chống phát xít,
chống chiến tranh. Chúng lập Đoàn Thanh niên Cộng sản thay cho Đoàn

Thanh niên Dân chủ, Hội Cứu tế đỏ thay cho Tổ chức Cứu tế bình dân…

Tháng 3 – 1938, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra nghị quyết
về phòng thủ Đông Dương, thì bọn Tơrotkit đưa ra khẩu hiệu “ Biến
chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”, vu cáo Đảng Cộng sản
Đông Dương rời bỏ lập trường dân tộc, đi theo đế quốc Pháp.

Trong cuộc đấu trtanh chống Tờ-rôt-kit, được sự chỉ dẫn sáng suốt của
Nguyễn Ái Quốc: “ Đối với bọn Tơ-rot-kit, không thể có thỏa hiệp nào,
một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay
sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt được chúng về chính trị”, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã đấu tranh kiên quyết với bọn này. Đảng phê
bình nghiêm khắc nhận thức mơ hồ của một số đảng viên đã hợp tác vô
nguyên tắc với chúng trong báo La Lutte (Tranh Đấu). Cuộc đấu tranh
của Đảng giúp quần chúng nhận rõ bộ mặt thật của bọn Tơ-rot-kit, kịp
thời ngăn chặn âm mưu phá hoại của bọn chúng.


2.2 Tính chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm

Cuộc vận động dân chủ thời kì 1936 – 1939 đề ra mục tiêu đòi tự do,
dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Tuy khẩu hiệu đấu tranh chứa
đựng nội dung cải cách dân chủ trong khuôn khổ chính sách cai trị, luật
pháp của chính quyền thực dân, nhưng phong trào không hoàn toàn có
tính chất cải lương. Đây là phông trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức,
do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Nó hoàn toàn khác với phong
trào cải lương do một nhóm địa chủ, tư sản khởi xướng nhằm mục đích
xin chính quyền thực dân ban cho một vài quyền lợi kinh tế hàng ngày
và xem đó là mục tiêu cuối cùng. Phong trào dân chủ 1936 – 1939, bằng
sức mạnh đoàn kết của quần chúng đã buộc chính quyền thực dân phải

nhượng bộ những yêu sách cụ thể, trước mắt. Trên cơ sở đó và trong
điều kiện thuận lợi mới, sẽ tiếp tục đưa phong trào lên cao hơn, triệt để
hơn, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng. Đó thật sự là một phong trào
cách mạng. Trong điều kiện thế giới và trong nước lúc này, dưới ách
thống trị của chính quyền thực dân không có tự do dân chủ, những
cuộc đấu tranh của quần chúng đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình là
một hình thức đấu tranh cách mạng trong giai đoạn cụ thể để thực hiện
nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở
nước ta.

Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là phong trào quần chúng rộng lớn,
diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, nó thu
hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Phong trào lan rộng cả
thành thị và nông thôn trong phạm vi cả nước. Hình thức đấu tranh
phong phú, rất hiếm có ở một nước thuộc địa, bao gồm hoạt động hợp
pháp, bất hợp pháp với những cuộc bãi công, biểu tình, đưa kiến nghị,
đấu tranh trên các lĩnh vực báo chí, nghị trường, với các tổ chức linh
hoạt là các hội quần chúng, hội thể thao, hội học chữ Quốc ngữ, hội
cấy, hội gặt…

Phong trào dân chủ 1936 – 1939 thể hiện vai trò tiên phong của giai cấp
công nhân, trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ về số
lượng và chất lượng. Những cuộc bãi công nổ ra từ nhỏ đến lớn, từ
từng xí nghiệp đến toàn ngành, toàn khu vực và đến tổng bãi công. Sự
phát triển về quy mô trong phong trào 1936 – 1939 thể hiện sự trưởng
thành của công nhân về tổ chức, về kỉ luật và về ý thức giai cấp. Giai cấp
công nhân và nông dân đã thực hiện được liên minh công nông trong
đấu tranh. Công nhân ở các khu công nghiệp đã hỗ trợ các cuộc đấu
tranh của nông dân ở nông thôn và ngược lại. Hàng chục vạn nông dân

được các đại biểu của giai cấp công nhân tổ chức và lãnh đạo đã từ
nông thôn tiến về thành phố, cùng với công nhân biểu tình, mít - tinh,
đưa yêu sách. Sự liên minh của công nhân và nông dân là cơ sở để xây
dựng khối đoàn kết toàn dân theo cương lĩnh Mặt trận Dân chủ.

Trong phong trào dân chủ 1936 – 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã
liên minh với các đảng, các lực lượng chính trị trong Mặt trận Dân chủ.
Khẩu hiệu đòi dân chủ, tự do, cơm áo, hòa bình do Đảng đua ra trong
một chừng mực nhất định phù hợp với yêu cầu của các tầng lớp trí thức
tiến bộ, tiểu tư sản, trung, tiểu địa chủ và một bộ phận tư sản dân tộc.
Tuy nhiên, Đảng cũng xác định sự liên minh đó là tạm thời ở một số lĩnh
vực nhất định và thời gian nhất định, đây là sách lược tạm thờ nhằm
phục vụ cho mục tiêu cách mạng.

Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là một bộ phận của phong trào vô sản
thế giới, đấu tranh cho hòa bình, chống chiến tranh. Cùng mục tiêu
chung với nhân dân thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dương tạm thời rút
khẩu hiệu đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược, thay bằng khẩu hiệu đánh
đổ bọn phản động thuộc địa Pháp ở Đông Dương, kết hợp đấu tranh
giải quyết yêu cầu trước mắt của nhân dân Đông Dương với cuộc đấu
tranh chống phát xít, chống chiến tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ
Mặt trận Bình dân Pháp. Cách mạng Việt Nam được sự chỉ đạo của
Quốc tế Cộng sản, sự giúp đỡ và ủng hộ của Đảng Cộng sản và nhân dân
Pháp.

Phong trào đấu tranh giành dân chủ 1936 – 1939 đã thu được những
thắng lợi cụ thể trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Chính quyền thực dân đã có một số nhượng bộ, như thả nhiều chính trị
phạm, ban hành luật báo chí, cải thiện một phần điều kiện lao động,
lương bổng cho công nhân, viên chức. Nhưng thắng lợi to lớn nhất là

phong trào đấu tranh, quần chúng đã được tổ chức, giác ngộ về chủ
nghĩa Mác – Lênin; cán bộ, đảng viên được thử thách, toi luyện, được
đào tạo trong thực tiễn cách mạng. Đảng tích lũy được nhiều bài học
kinh nghiệm, như xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đinh ra các
hình thức tổ chức, phương pháp đấu tranh, phương thức hoạt động.
Đảng cũng rút được kinh nghiệm từ những thiếu sót, thất bại, như chưa
nêu được những khẩu hiệu thích hợp để phát huy tinh thần dân tộc
trong khuôn khổ đấu tranh giành dân chủ, hoặc đôi lúc, đôi nơi chưa
cảng giác với bọn Tơ-rot-kit.

Qua phong trào đấu tranh, đội quân chính trị quần chúng đã được Đảng
tập hợp, xây dựng, giáo dục và phát huy được sức mạnh; uy tín và ảnh
hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương sâu rộng trong quần chúng
nhân dân.
Đó là kinh nghiệm quí báu nhất, đồng thời là thắng lợi to lớn nhất của
phong trào đấu tranh công khai giành dân chủ 1936 – 1939 là biết đề ra
đường lối, quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, biết triệt để lợi
dụng những khả năng hợp pháp để động viên, giáo dục và tổ chức đội
quân chính trị quần chúng, đấu tranh trong một mặt trận dân chủ rộng
rãi. Qua báo chí, sách xuất bản và những cuộc mit tinh, biểu tình,
đường lối của Đảng của Đảng dược phổ biến sâu rộng trong tầng lớp
nhân dân.

Tóm lại, Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai
nhằm chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945.
III. Cuộc vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)

1. Biến động mạnh mẽ của tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam trong
thế chiến thứ II


1.1. Bối cảnh thế giới trong những năm đầu của Cuộc chiến tranh lần II


Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ là làm thay đổi cục diện
chính trị trên thế giới mà còn tác dụng trực tiếp đến các nước thuộc địa
và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam.

Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành
trướng ở nhiều quốc gia. Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua
vũ trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 – 1936, Đức và
Nhật Bản kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày
6 – 11 – 1937, Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin –
Rôma – Tôkyô hình thành. Liên minh phát xít đã mở rộng từ Châu Âu
sang Châu Á.

Trong thời gian này, các cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được
phát động ở một vài khu vực. Tháng 7 – 1937, Nhật Bản mở cuộc chiến
tranh xâm lược quy mô lớn trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. do chính
sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới
Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố,
trung tâm công nghiệp và các vị trí đầu mối giao thông quan trọng của
Trung Quốc.

Tháng 7 – 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng hồ Khát-
xan thuộc lãnh thổ Liên Xô để thăm dò. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và
Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức. Ngày 29 – 8 – 1938,
chính phủ hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních (Đức),
chấp nhận cho Đức chiếm đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi
tiến công của Đức về phía Đông, đáng Liên Xô.


Tháng 2 – 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, phong tỏa hoàn toàn lục địa
Trung Quốc. Tháng 3 – 1939, quân Nhật tấn công vào khu vực sông
Khan Khin Gôn của Mông Cổ, khiêu khích Liên Xô. Hồng quân Liên Xô
phối hợp với quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn quân số 6 của
Nhật Bản.

Ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xô kí với Đức hiệp ước không xâm phạm, để
tránh rơi vào tình thế bị tấn công từ hai phía Đông và Tây, đồng thời để
tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và triệt để lợi
dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít.

Ngày 1 – 9 – 1939, Phát xít Đức mở cuộc tấn công Ba Lan, trái với những
toan tính của Anh và Pháp.

Ngày 3 – 9 – 1939, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.

Ở nước Pháp, chính phủ Đalađiê lợi dụng tình hình chiến tranh thi hành
các biện pháp đàn áp Đảng cộng sản và lực lượng tiến bộ trong nước
cũng như các nước thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.

Ở đông Dương, toàn quyền Catơru bắt tay vào chiến dịch khủng bố.
Ngày 8 – 9 – 1939, Catơru cấm mọi hoạt động chính trị, trước hết nhằm
đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ chức quần chúng của
Đảng.

“Cấm hết thảy mọi hoạt động có tính chất trực tiếp hay gián tiếp tuyên
truyền các khẩu hiệu của Quốc tế cộng sản hay những tổ chức do Quốc
tế cộng sản kiểm soát.


Giải tán hết thảy các hội hữu ái hay cá nhân nào có liên hệ với Đảng
Cộng sản mà hoạt động theo khẩu hiệu của Đệ tam Quốc tế cũng bị giải
tán (…).

Cấm hết thảy những đồ in, phát hành, tặng hay bán, hay tưng bày,
những đồ in hay tranh vẽ, nói chung là cấm hết thảy những tài liệu
tuyên truyền của Đệ tam Quốc tế [11; 466 – 467]

Trên khắp đất nước Đảng viên Đảng Cộng sản bị truy lùng bắt bớ. Hàng
ngàn người Cộng sản và yêu nước bị giam cầm trong các nhà tù. Hàng
loạt báo chí cách mạng và tiế bộ bị đóng cửa.

Về kinh tế, chính quyền thực dân Pháp thực hiện chính sách “Kinh tế
chỉ huy”, tăng cường vơ vét tài nguyên, nhân lực của Đông Dương phục
vụ cho chiến tranh ở nước Pháp. Trong diễn văn khai mạc Đại Hội đồng
kinh tế và tài chính Đông Dương, tháng 11 – 1939, toàn quyền Ca-tơ-ru
nói :

“Dù có tham gia trực tiếphay không vào cuộc chiến Đông Dương cũng
không được tự do có khuynh hướng riêngcủa nên kinh tế và tài chính
của mình mà phải quy tụ nó vào những mục đích do mẫu quốc chỉ định.
Đông Dương phải xác nhập hệ thống mậu dịch của mình vao hệ thống
mẫu quốc, phát triển sản xuất của mình vì lợi ích của mẫu quốc, cung
cấp những sản phẩm của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi
hỏi.

Đồng thời, Đông Dương phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân
lực của mình, hoặc làm trong các công, binh xưởng, hoặc cung cấp
những quân số quan trọng được tổ chức và biên chế để điều đến các
chiến trường ở phương Tây [31;305]


Bước sang năm 1940, Đức bất ngờ đánh chiếm các nước Bắc Âu (Đan
Mạch và Na Uy) và từ tháng 5 mở cuộc tấn công vào các nước tây Âu.
Lợi dụng những khó khăn của Pháp phải đối phó với Đức ở Châu Âu,
Nhật Bản tăng sức ép với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương.

Trong những tháng đầu năm 1940, máy bay Nhật Bản hai lần ném bom
tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam của Pháp (đoạn nằm trên lãnh
thổ Trung Quốc). Ngày 8 – 6 – 1940, Nhật Bản đe dọa sẽ dùng vũ lực
nếu chính quyền Đông Dương không đóng cửa biên giới Việt - Trung.
Đêm 16 – 9, toàn quyền Ca-tơ-ru đã chấp nhận yêu sách của Nhật.

Lúc này ở Châu Âu, quân Đức đánh tan các tuyến phòng thủ của Hà Lan,
Bỉ, Pháp. Ngày 16 – 6 – 1940, quân Đức chiếm Pari, thủ đô của nước
Pháp. Ngày 22 – 6 – 1940, Chính phủ Pê-tanh kí hiệp ước đầu hàng Đức.


1.2. Tình hình Đông dương và những tác động đến Việt Nam từ 1939
đến 1945

Ở Đông Dương, toàn quyền Catơru bị triệu hồi. Ngày 20 – 7 – 1940, phó
đô đốc Đơcu, nguyên Tư lệnh lực lượng hải quân Pháp ở Viễn Đông
được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương.

Ngày 2 – 8 – 1940, Nhật Bản trao cho toàn quyền Đơcu một bức công
hàm với nội dung: Pháp phải cho Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ
Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc dân Đảng; được sử dụng một số
sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải giúp đỡ việc vận tải vũ
khí và đạn dược cho quân đội Nhật. Ngoài ra Nhật Bản đòi được hưởng
những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở Đông Dương. Nếu

bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương.

Ngày 19 – 9 – 1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp
ở Tôkiô rằng, ngày 22 – 9, quân đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt
được hiệp ước quân sự với Đơcu hay không.

Ngày 22 – 9, đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó
quy định :

1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ (các sân
bay Gia Lâm, Hải Phòng, Phủ Lạng Thương).
2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 quân ở Bắc sông Hồng.
3. Quân đội Nhật được quyền đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng
Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng số quân Nhật đồn trú trên đất Đông
Dương không lúc nào được quá 25.000 người.
4. Sư đoàn quân Nhật ở Quảng Tây được quyền đi qua đồng bằng Bắc
Kì để đi ra biển.


Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận những
đòi hỏi của Nhật, vào lúc 22 giờ cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân
của Nhật do tướng Nakamura chỉ huy vượt biên giới Trung - Việt tấn
công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp
ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điểm He, Lộc Bình bị tiêu diệt. Ngày 24 – 9 quân
Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về Đồng Mỏ, và ngày
25 – 9, kéo cờ trắng xin hàng.

Ngày 25 – 9 – 1940, ở một hướng khác, quân đoàn viễn chinh Đông
Dương thuộc Pháp của Nhật do tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ
vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 – 9, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Hải

Phòng không tốn một viên đạn.

Mặc dù quân Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa
thỏa mãn. Ngày 14 – 7 – 1941, Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi
đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử dụng ác sân bay, hải cảng ở
khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận.

Ngày 25 – 7 – 1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần
dương hạm thả neo ở Ô Cấp (Vũng Tàu).

Ngày 27 – 7 – 1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí
hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, với những điều khoản :

1. Pháp và Nhật cùng hợp tác quân sự trong việc phòng thủ chung Đông
Dương.

2. Chính phủ Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây:

a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không
Nhật cần thiết.
b. Sử dụng như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap, Phnom-Pênh,
Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Biên Hòa, Sài Gòn, Sóc Trăng và
Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh.
c. Các đơn vị Nhật được toàn quyền thực tập và điều động không bị hạn
chế bởi hiệp ước Nashihara – Martin (23 – 9 – 1940).
d. Chính phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu
đồng trong tài khoản 1941, tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này
sẽ được bồi hoàn, hoặc bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay vàng. [
29;45.]



Ngày 28 – 7 – 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm
1941 đã có 125.000 quân Nhật đóng trên đất Đông Dương và thực chất
đã làm chủ Đông Dương, tuy trên danh nghĩa Đông Dương vẫn là thuộc
địa của Pháp
Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đông Dương:

Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đông Dương tiếp

×