Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giáo trình hình thành cơ chế phân tán rủi ro và hạn chế các tác động về kinh tế xã hội p5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.63 KB, 9 trang )


41

một gay gắt. Tâm lý chung của các vị giám đốc doanh nghiệp nhà
nước là “còn nước còn tát”, tát được ngày nào hay ngày đó.
Còn về phía người lao động, họ sau khi cổ phần hoá có thể bị
mất việc, hoặc quyền lợi không được đảm bảo, đặc biệt là vấn đề
mua, mua chịu và được cấp cổ phiếu. Thế là từ trên xuống dưới kết
thành những mảng trong nhận thức và hành động. Để đảm bảo an
toàn và giữ được “ghế”, tránh được nguy cơ “đi chệch hướng
XHCH”, thượng sách là không sắn tay vào công tác này.
Làm thế nào để giải toả những vướng mắc về tư tưởng quan
điểm và nhận thức trên đây?
Trước hết, phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ
trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Một là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước không
dẫn đến nguy cơ chệch hướng XHCN và làm suy yếu kinh tế nhà
nước, bởi lẽ:
Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, nhà nước vẫn nắm giữ các
doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành then chốt, trọng yếu tạo nền
tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của nhà nước XHCN.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản nhà nước
không bị suy giảm mà còn có khả năng tăng nhờ lợi tức cổ phần của
nhà nước và sự đóng góp của các công ty cổ phần làm ăn có hiệu
quả vào ngân sách nhà nước.
Quá trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo tập
trung của Đảng và sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước XHCN.
Hai là, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí
của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có

42



đóng góp tích cực vào hoạt động của doanh nghiệp. Đó là một trong
những mục tiêu cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện.
Để có thể đưa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các
cơ quan lãnh đạo các ngành, các cấp, đến từng doanh nghiệp và đội
ngũ cán bộ công nhân viên lao động làm việc trong doanh nghiệp,
Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, mục tiêu, quan điểm
cũng như lợi ích về sự cần thiết của cổ phần hoá trong quá trình
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
3.1.2. Về môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá.
Môi trường pháp lý của nhà nước bao gồm hệ thống các văn bản
pháp luật trực tiếp và gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Từ khi chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được
đề cập lần đầu tiên trong Nghị quyết định hội nghị lần 2 - Ban chấp
hành trung ương Đảng khoá 7 (tháng 11/1991) cho đến nay đã có
tổng cộng 27 văn bản pháp quy trực tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Về số lượng, tuy các văn bản pháp lý trực tiếp chỉ đạo quá trình
cổ phần hoá như vậy là khá nhiều, nhưng chưa có một văn bản pháp
lý nào đủ tầm quyết sách để có thể tiến hành một quá trình cổ phần
hoá trên diện rộng như luật, pháp lệnh. Đối với các văn bản gián tiếp
liên quan đến cổ phần hoá thì còn thiếu mảng luật về chứng khoán,
kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về chất lượng, một số nội dung trong các văn bản hướng dẫn
chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt
khoát như: trách nhiệm của các Bộ, ngành, các địa phương trong
việc chỉ đạo cổ phần hoá; thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu với
việc cổ phần hoá; cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc; việc bán

43


cổ phần cho người nước ngoài có quy định nhưng chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách pháp luật trên
đây, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải lắng nghe ý kiến
từ phía các doanh nghiệp đã hoàn tất và đang hoàn tất cổ phần hoá
và cả những doanh nghiệp chưa tiến hành cổ phần hoá để cụ thể hoá,
chi tiết hoá những điểm còn “chung chung”, ban hành thêm những
quy định còn thiếu. Đòi hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp
quy ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế, song đã đến
lúc chúng ta phải có ngay một bộ luật cổ phần hoá hoặc luật công ty
cổ phần bởi vì chưa có luật, chưa có pháp lệnh thì chưa có căn cứ
pháp lý để thực hiện, chưa có căn cứ để ban hành các văn bản pháp
quy dưới luật, và như vậy việc thực hiện sẽ rất khó khăn. Bên cạnh
đó, việc dự thảo và sớm ban hành luật về chứng khoán, kinh doanh
chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng sẽ góp phần đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hoá và việc hình thành thị trường vốn ở nước
ta.
3.1.3. Hệ thống các cơ quan quản lý công tác cổ phần hoá.
Về tổng thể, bộ mấy quản lý hành chính về cổ phần hoá tổ chức
chỉ đạo chưa tập trung, thiếu tính nhất quán giữa trung ương và địa
phương, giữa các bộ ngành. Ví dụ có những doanh nghiệp đã làm
xong thủ tục nhưng chính quyền địa phương vẫn không cho phép
hoạt động, gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp cổ phần, tạo tâm
lý chản nản trong các cổ đông vì trong vòng 2 năm đó vốn không
được luân chuyển (như công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An,
công ty chế biến thức ăn gia súc VIFOCO )
Để giải quyết, nhà nước phải mở rộng quyền hạn cũng như trách
nhiệm của ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá. Hoặc nhà nước có


44

thể thành lập một Tổng cục chủ quản hoặc tương đương như vậy
chuyên trách về cổ phần hoá để điều chỉnh quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước và hoạt động của công ty cổ phần. Cơ quan
chuyên trách này sẽ chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo và có đủ
thẩm quyền để giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ phần hoá
cũng như phối hợp hoạt động của các Bộ, ngành và các cơ quan hữu
quan, đồng thời cũng phải quy định rõ quyền hạn và nhiệm vụ của
các cấp cơ quan này, tránh sự “chồng chéo, lấn sâu” của nhau, tránh
tình trạng cấp trên “bàn vào”, cấp dưới “bàn ra” như trong thời gian
vừa qua, dẫn tới sự chán nản của các doanh nghiệp Nhà nước muốn
cổ phần hoá. Một yêu cầu quan trọng nữa là phải tập trung về đây
các cán bộ có năng lực chuyên môn, có trình độ, quy định rõ rằng về
trách nhiệm của từng người.
Tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của trung ương. Chính phủ
phải đẩy mạnh việc kiện toàn tổ chức bộ máy chỉ đạo cổ phần hoá
từng trung ương đến địa phương theo hướng gọi nhẹ, thiết thực,
đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quá
trình cổ phần hoá để đảm bảo đúng chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
3.1.4. Chính sách đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định một số ưu đãi thiết thực đối với doanh nghiệp.
Chẳng hạn cho phép tách số tài sản không còn giá trị sử dụng và có
tài sản không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh ra khỏi giá
trị doanh nghiệp nhằm trợ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng
trong quá trình hoạt động. Những tài sản này sẽ được chuyển giao
lại cho nhà nước để xử lý phù hợp với pháp luật hiện hành. Nếu
doanh nghiệp có yêu cầu đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất theo
phương án được duyệt thì cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần


45

số tiền bán cổ phiếu ngoài phạm vi cổ phần giữ lại thuộc sở hữu nhà
nước theo hình thức vay tín dụng của ngân sách.


* Xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các DNNN rõ ràng là còn được hưởng ưu đãi của nhà nước
nhiều hơn công ty cổ phần nói riêng và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nói chung về XNK, về địa điểm, tín dụng, vay vốn ngân hàng.
Để có thể thực sự xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa
DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhà nước cần phải từng
bước xoá bỏ sự bao cấp dành cho các DNNN, cần có những quy
định nhằm nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, khuyến
khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển bằng
những biện pháp cụ thể như: chính sách thuế, quyền XNK, vay vốn
ngân hàng, tạo điều kiện cho khu vực này liên doanh với nước
ngoài, qua đó tạo môi trường bình đẳng giữa các khu vực kinh tế,
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài góp phần đẩy mạnh
quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
* Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo thông tư số 50 TC/TCDN, gia trị doanh nghiệp cổ phần
hoá được xác định bằng công thức:
Giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp = sau khi kiểm kê + (-) giá trị lợi thế +
chi phí tiến hành CPH đánh giá lại.

46


Theo công thức nói trên, mọi tài sản doanh nghiệp đều được
kiểm kê đánh giá lại theo giá hiện hành. Song theo số liệu điều tra
thống kê, ở hầu hết các DNNN, trình độ máy móc, thiết bị công
nghệ lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ, thậm chí có doanh nghiệp lạc hậu từ 4 -
5 thế hệ. Mặt khác, thông tư 50TC/TCDN quy định “Toàn bộ tài sản
cố định sau khi đã kiểm kê và được tính trên giá sổ sách doanh
nghiệp căn cứ vào chất lượng còn lại và giá hiện hành của từng tài
sản, giá trị tài sản vô hình để xác định lại giá trị tài sản thực còn”.
Vấn đề ở đây là xác định giá hiện hành. Như chúng ta đều biết, tiêu
chuẩn để đánh giá giá trị vật chất có nhiều nhưng tựu chung lại có
thể sử dụng các tiêu chuẩn sau: giá trị mua vào, giá trị thanh lý, giá
trị đổi mới, giá trị nhượng bán. Chính vì vậy, nhà nước nên quy định
cụ thể “giá hiện hành” trong việc đánh giá lại giá trị tài sản.
* Thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay, thủ tục hành chính để cổ phần hoá một doanh nghiệp
nhà nước còn khá rườm rà, tốn kém. Một doanh nghiệp nhà nước trị
giá 2 tỷ đồng chuyển sang công ty cổ phần mà hàng chục lượt đoàn
cán bộ đến kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán rồi sau đó
mới trình bộ, ngành , UBND tỉnh thành phố, trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt biết bao cửa ải mà doanh nghiệp phải chịu đựng.
Mỗi cửa ải kéo dài không biết bao nhiêu thời gian. Điều này có lẽ
không phải do một cơ quan hay một cá nhân nào mà do mỗi khâu
chậm một ít, do thiếu trách nhiệm, thiếu nhiệt tình và quan liêu. Việc
loại bỏ những thủ tục rườm rà, xây dựng một quy trình cổ phần hoá
DNNN gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh được những chi phí do
doanh nghiệp phải bỏ ra do làm ảnh hưởng tới túi tiền của ngân sách
là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó việc phối hợp của các cơ quan
chức năng, thống nhất quá trình chỉ đạo thực hiện từ TW tới các Bộ,


47

ngành, địa phương, cơ sở sẽ góp phần tích cực đẩy nhanh tiến trình
cổ phần hoá.

48

KẾT LUẬN

Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta,yêu cầu đổi
mới toàn diện khu vực kinh tế quốc doanh có vai trò quyết định và
rất bức xúc. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng
để thực sự khắc phục tình trạng kém hiệu quả của các DNNN, thu
hút vốn, cải tiến quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu
quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Thực chất cổ phần hoá nhằm mục tiêu chuyển hình thức sở
hữu nhà nước sang hình thức sở hữu tập thể, các cổ đông theo hướng
đa dạng hoá xử lý, vừa đảm bảo yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế
nhiều thành phần, vừa đảm bảo doanh nghiệp nhà nước có thủ thực
sự.
Cổ phần hoá là một công việc hết sức mới mẻ và khó khăn. Bởi
vậy một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt ra trong quá
trình cổ phần hoá là phải tìm ra được những thành công và thất bại
để tìm ra những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và
hoàn thiện cơ chế cổ phần hoá phù hợp với đất nước.
Những giải pháp, kiến nghị được nêu ra trong đề án sẽ phần nào
tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình cổ phần hoá.
Hy vọng rằng với quyết tâm cao của Đảng và nhà nước, niềm tin của
nhân dân cùng với việc thực hiện đồng bộ những giải pháp và kiến
nghị nêu trên, chương trình cổ phần hoá sẽ gặt hái được những thành

công và góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh, mạnh bền
vững của nền kinh tế đem lại sự phồn vinh cho đất nước.


49

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn, Nguyễn Ngọc Quang, NXB Khoa học xã hội.
2. Hỏi đáp về cổ phần hoá DNNN, Hoàng Công Thi, NXB
Thống kê.
3. Kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường, Đào Xuân
Sâm, Ngô Quang Minh, NXB Khoa học xã hội.
4. Báo cáo tổng quát tình hình doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài
chính tháng 12/1997.
5. Báo cáo về thực hiện cổ phần hoá DNNN, Bộ Tài chính
tháng 12/1998.


×