Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành cơ chế phân tán rủi ro và hạn chế các tác động về kinh tế xã hội p3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.91 KB, 10 trang )


21

không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu Nhà nước và quyền
quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động trong
doanh nghiệp nên tài sản của doanh nghiệp Nhà nước không được sử
dụng có hiệu quả. Người lao động chưa thực sự gắn bó, làm việc hết
sức vì doanh nghiệp. Một số nhà quản lý doanh nghiệp đã lợi dụng
chức quyền bòn rút tài sản của Nhà nước làm giàu cho cá nhân.
2.2. Chủ trương của nhà nước ta về quá trình cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nước.
Xuất phát từ tình trạng hoạt động yếu kém của hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước và những đòi hỏi cấp bách phải có một giải pháp
thích hợp cho khu doanh nghiệp Nhà nước. Đây là một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực cải cách doanh nghiệp
Nhà nước.
Giải pháp chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần
lần đầu được đề cập trong Quyết định số 143 - HĐBT ngày 10 - 5 -
1990 của Hội đồng bộ trưởng về việc tổng kết thực hiện Quyết định
217 - HĐBT ngày 14 - 11 - 1987, các nghị định 50 - HĐBT ngày 22
- 3 - 1988 về làm thử việc tiếp tục đổi mới quản lý xí nghiệp quốc
doanh. Văn bản này đề cập việc nghiên cứu và làm thử về mô hhình
chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần. Việc chuyển xí
nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần trong giai đoạn này là hết
sức mới mẻ ở nước ta vì lúc đó luật công ty chưa được ban hành.
Quyết định 143 - HĐBT ngày 5 - 10 - 1990 chỉ quy định một vài vấn
đề liên quan đến cổ phần hoá hoá doanh nghiệp nhà nước như: mục
đích của việc làm thử, điều kiện các xí nghiệp quốc doanh được
chọn để tổ chức thành công ty cổ phần. Có thể nói chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá các doanh nghiệp đã có từ rất
sớm, chỉ sau vài năm khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Nó



22

chứng tỏ sự nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vai trò
của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường, đánh giá đúng
thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh và chọn
đúng hướng đi đúng trong việc cải cách các doanh nghiệp này. Chủ
trương đó còn được thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2
- Ban hành Trung ương khoá VII (11/1991):”Chuyển một số doanh
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành một
số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt
chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích
hợp.
Ngày 8 - 6- 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ) ban hành quyết định 202/CT về việc tiếp tục làm
thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ
phần áp dụng tại các doanh nghiệp được chọn làm thí điểm. Quyết
định và đề án này sẽ quy định tương đối rõ vè mục tiêu, đối tượng,
cách thức tiến hành cổ phần hoá cũng như cách thức xác định giá trị
doanh nghiệp, quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ
phần hoá. Cũng trong ngày 8 - 6 - 1992, Chủ tịch HĐBT đã ban
hành quyết định 203/CT kèm theo danh sách của 7 doanh nghiệp
nhà nước được chọn để Chính phủ chỉ đạo thực hiện thí điểm cổ
phần hoá. Theo điều 2 QĐ 202/CT, Chủ tịch HĐBT uỷ quyền cho
Bộ trưởng Tài chính xem xét và ra quyết định về danh sách các
doanh nghiệp nhà nước được phép làm thí điểm cổ phần hoá do các
bộ và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề
nghị. Tuy nhiên, quyết định 202/CT và chỉ thị 84/TTg của Thủ
tướng chính phủ chưa có những quy định hợp lý về quyền lợi của
người lao động và doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá cũng

như chưa có quy định rõ ràng chặt chẽ về quy trình thực hiện. Để
khẳng định quyết tâm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các văn

23

kiện của Đảng ban hành trong các năm 1994, 1995, 1996, 1997 đều
đề cập đến vấn đề này. Cụ thể: Nghị quyết hội nghị toàn quốc ban
chấp hành TW khoá II, Nghị quyết số 10 NQ/TW của Bộ chính trị
đều khẳng định tầm quan trọng của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(tháng 7/1996) khẳng định: “Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh
khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo thêm động lực mới trong quản
lý, huy động vốn thêm cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình cổ phần hoá, tiền thu được
do bán cổ phần của doanh nghiệp phải đầu tư lại để mở rộng sản
xuất kinh doanh”.
Các văn kiện của đảng nêu trên đã thể hiện quyết tâm đẩy nhanh
tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với quy mô và trên lĩnh
vực rộng lớn hơn. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó, ngày 7/5/1996,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP về việc chuyển một số
doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Có thể nó Nghị định
28/CP là một mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển từ giai đoạn thí
điểm sang giai đoạn thực sự triển khai chưong trình cổ phần hoá. Và
mới đây chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thay thế cho
Nghị định 28/CP, trong đó các vấn đề như mục tiêu cổ phần hoá,
điều kiện để lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá, nguyên tắc xác
định giá trị doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá, việc tổ chức thực
hiện đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn Nghị định 28/CP trước đó.

2.3. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và
kết quả bước đầu.

24

Quá trình cổ phần hoá ở nước ta về cơ bản có thể chia làm hai
giai đoạn:
2.3.1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm
1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục
thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần, các Bộ, ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp nhà nước đăng ký
thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng
doanh nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do
Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội
(Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp sản xuất bao bì (thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp dệt da may Lagamex (thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp nhà nước được
Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin rút lui, hoặc không đủ điều
kiện để tiến hành cổ phần hoá như Legamex, nhà máy xà phòng Việt
Nam
Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm

thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nước xin chuyển thành

25

công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp
nhà nước được phép chuyển sang công ty cổ phần, đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao
thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh
Long An)
5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số
lượng các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần còn
ít song giai đoạn thí điểm đã đem lại một số kết quả đáng chú ý:
 Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động được một lượng
vốn quan trọng trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nước đã thu
được 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp vào ngân sách. Đây là số vốn
quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu nhà nước để đầu tư vào
chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống doanh nghiệp nhà nước.
 Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân
viên tham gia mua cổ phiếu. Khi người lao động có vốn trong công
ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích công ty vì vậy họ làm việc với trách
nhiệm cao vì quyền lợi của mình; mặt khác họ cũng yêu cầu hội
đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức để công
ty hoạt động có hiệu quả.
 Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh
tế như doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%;


26

nộp ngân sách tăng 89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là
14,10%.
 Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình
quân vốn của các doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
 Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu
nhập của người lao động tăng 20%/năm.
 Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy
trì tỷ lệ cổ phiếu chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và
nội dung các điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996)
tổng số doanh nghiệp nhà nước được chuyển sang công ty cổ phần là
12 doanh nghiệp.
Dưới đây là danh sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài
chính của các doanh nghiệp đó sau thời gian cổ phần hoá.

27

Sau đây là tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể ở một số
doanh nghiệp thí điểm cổ phần hoá:
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Trước CPH Sau CPH Chỉ tiêu ĐVT
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.120 16.530 24.134

47.538

65.046


2. Nộp NS Tr.đồng 3.336 3.750 8.700 16.530

25.117

3. Lãi Tr. đồng 3.400 3.700 8.800 15.200

23.000

4. Thu nhập
bình quân
người/tháng
1000
đồng
850 900 1.200 1.400 2.000
5. Lao động Người 56 320
Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận
chuyển từ kho của người gửi đến kho cuả người nhận bằng các
phương tiện đường bộ, đường thuỷ, đường biển tới các cảng quốc tế.
Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở nước ta được
tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được chính thức
chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn
điều lệ của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng được chia
thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần
của nhà nước là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong công ty
là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày
chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ 56
người (năm 1993) lên 320 người (năm 1996). Doanh thu năm 1996
tăng gấp gần 4 lần so với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng


28

tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập
người lao động tăng từ 900.00 (năm 1993) lên 2. 000.000 (năm
1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
Công ty điện lạnh được thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty
liện hợp thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh. Ngay từ mới thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn
nhẹ, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán duy nhất, năng động trong
quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn nhập các thiết bị
lạnh với phương thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng nhập, thanh toán
kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nước ngoài. Cũng
chính từ thành công trong hoạt động ngoại thương, tích tụ và tập
trung tư bản được hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên
doanh:
Công ty liên doanh CERVICO (liên doanh với công ty
MEKONG - một công ty Việt kiều ở Đức) nhằm lắp ráp thiết bị lạnh
trong nước, vốn đầu tư là 820.000 USD.
Công ty liên doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty
BOUYONG của Nam Triều Tiên) chuyên sản xuấta túi sách xuất
khẩu, vốn đầu tư 1.600.000 USD.
Trong những năm trước cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự
có hiệu quả. Công ty luôn dự đoán đúng nhu cầu của thị trường
trong nước nên đã tạo được một số lượng hàng hoá, thiết bị vật tư dự
trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tạo được niềm tin và
giữ được uy tín với khách hàng.
Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, công ty cơ điện lạnh chính thức


29

được chuyển sang công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ mới thành
lập của công ty là 16 tỷ đồng được chia thành 160.000 cổ phần với
mệnh giá một cổ phiếu là 100.000 đồng, nhà nước chiếm tỷ lệ cổ
phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ đông), cán bộ công nhân viên chức
trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông ngoài công ty
là 20% (gồm 238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty
được mua không quá 5% tổng số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty
không được mua quá 0,5% tổng số cổ phiếu. Như vậy cổ đông là cán
bộ công nhân viên công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu
đồng, cổ đông ngoài công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu.
Ngoài ra, các cổ đông là nhân viên công ty còn được vay tiền với lãi
suất ưu đãi, được chia quỹ khen thưởng và phúc lợi còn lại để có thể
mua cổ phiếu.
Ba năm sau khi cổ phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16
tỷ đồng (năm 1993) lên 30 tỷ đồng (năm 1996), doanh thu năm 1996
tăng gấp 5 lần so với năm 1993. Số lao động năm 1996 tăng hơn 3
lần so với những năm công ty chưa được cổ phần hoá. Tổng thu
nhập của người lao động đạt 1.800.000/cổ phần. Công ty đang
nghiên cứu sẽ bán tiếp cổ phần ưu đãi cho 2/3 số công nhân mới
được tuyển vào làm, nhằm thu hút thêm số người có tay nghề cao.
Năm 1996, công ty được nhà nước cho phép phát hành thử trái phiếu
chuyển đổi bằng ngoại tệ và bán cho các nhà đầu tư nước ngoài với
tổng giá trị 5 triệu USD, lãi suấta 4,5%/năm. Các trái phiếu được
chuyển đổi thành cổ phiếu trong quý 3/1996, trái chủ được chuyển
thành cổ đông sẽ không được tham gia Hội đồng quản trị.
Trước CPH Sau CPH Chỉ tiêu Đơn vị tính


1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 42.000

45.000

77.000

214.00 277.000


30

0
2. Nộp NS Tr. đồng 2.570 54.370

13.126

48.000

61.000
3. Lãi Tr. đồng 6.800 7.300 11.300

21.300

5.000
4. Thu nhập
bình quân
người/tháng
1000đồng 774 1.200 1.400 1.500 1.800
5. Lao động Người 200 800

Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính
Công ty cổ phần giầy Hiệp An.
Công ty giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại
giày dép phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty được
chuyển sang công ty cổ phần tháng 8/1994 với tổng giá trị doanh
nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó nhà nước giữ 30% vốn cổ phần,
cán bộ công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông ngoài doanh nghiệp
giữ 34,8%. Doanh thu năm 1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với năm
1993, nộp ngân sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với năm 1993.
Thu nhập người lao động tăng từ 420.000đ/người/tháng lên
1.200.000/người/tháng. Dưới đây là một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội
của công ty.

×