Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Báo cáo thực tập "Thực trạng và một số giải pháp cần được đẩy mạnh trong việc CPH DNNN trong thời gian tới" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.43 KB, 25 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo thực tập
"Thực trạng và một số giải pháp cần
được đẩy mạnh trong việc CPH DNNN
trong thời gian tới"
1
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta, là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng
kinh tế Nhà nước vững mạnh, đủ sức giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc
dân, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực tiễn sau 14 năm thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước,
kể từ năm 1992, nhất là từ sau Nghị quyết TW 3 và Nghị quyết TW 9, khoá
IX, trở lại đây cho thấy chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, ngày càng đi
2
2
vào cuộc sống. Đến nay hệ thống DNNN đã được sắp xếp lại một cách khá
căn bản, đã giảm hơn nữa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ bé và
yếu kém) số doanh nghiệp còn lại được củng cố một bước, cơ chế quản lý
được hình thành, ngày càng hoàn thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và
thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường (KTTT) trong bối cảnh
nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế. Cổ phần hoá chính là một trong những nội
dung quan trọng nhất thực hiện chủ trương đổi mới quản lý DNNN, thông qua
việc huy động vốn của mọi tầng lớp nâng cao tính tự lực tực giác, tinh thần
trách nhiệm của những người gắn trực tiếp lợi ích của mình với lợi ích của
doanh nghiệp. Thông qua đó từng bước cải thiện quan hệ sản xuất phù hợp
với sự thay đổi của LLSX cho công cuộc CNH, HĐH đất nước, từng bước
đưa nền kinh tế nước nhà đi lên tránh nguy cơ tụt hậu với các nước trong khu


vực và thế giới.
Chương trình CPH đã được triển khai từ năm 1992 cho đến nay đã gặt
hái được nhiều thành công song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Trong khuôn
khổ bài viết này chúng ta hãy xem xét: Thực trạng và một số giải pháp cần
được đẩy mạnh trong việc CPH DNNN trong thời gian tới.
Tuy nhiên do mới làm quen với việc nghiên cứu nên bài viết này khong
tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp hướng dẫn
của các thầy cô giáo.
3
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CỔ PHẦN HOÁ
DNNN
1.1. Khái niệm CPH DNHH
Cổ phần hoá là quá trình chuyển dỏi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một
chủ sở hữu thành công ty cổ phần là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Cổ
phần hoá nói chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ
phần hoá là quá trình đa dạng hoá sở hữu tại doanh nghiệp.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có thể vẫn giữ tư
cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận
tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không chỉ là
quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn
có cả hình thức doanh nghiệp Nhà nước thu hút thêm vốn thông qua hình thức
bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần.
Cần phân biệt cổ phần hoá với tư nhân hoá. Tư nhân hoá doanh nghiệp
Nhà nước là quá trình chuyển toàn bộ một phần quyền sở hữu tài sản trong
doanh nghiệp Nhà nước từ Nhà nước sang các cá nhân hay tổ chức khác
không phải là Nhà nước. Quá trình này có thể là quá trình đa dạng hoá sở

hữu, cũng có thể không phải như vậy. Do đó, tư nhân hoá có thể hiểu theo 2
nghĩa rộng - hẹp khác nhau. Tư nhân hoá nghĩa hẹp để chỉ quá trình bán toàn
bộ sở hữu Nhà nước tại một hoặc nhiều doanh nghiệp Nhà nước cho khu vực
tư nhân. Tư nhân hoá theo nghĩa rộng dùng để chỉ quá trình chuyển đổi nói
chung sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân hoá doanh
nghiệp Nhà nước là hai quá trình khác nhau, tuy vậy, trong những điều kiện
nhất định chúng có thể có điểm giống nhau, đó là quá trình đa dạng hoá sở
4
4
hữu trong doanh nghiệp. Mặt khác, tuỳ thuộc vào mức độ chuyển đổi quyền
sở hữu đối với vốn và tài sản Nhà nước trong doanh nghiệp mà quá trình đa
dạng hoá sở hữu có thể là quá trình tư nhân hoá hay cổ phần hoá.
1.2. Tính phổ biến và quan điểm của Đảng về CPH DNNN ở Việt
Nam
Từ những năm 70 của thế kỷ XX trên thế giới đã diễn ra quá trình giảm
bớt sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thông qua tư nhân hoá và cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Nó bắt đầu từ nước Anh rồi lan sang các
nước công nghiệp phát triển khác và các nước đang phát triển: đến đầu những
năm 90 quy mô tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra
chưa từng thấy, trở thành hiện tượng phổ biến, đến năm 1995 đã có hơn
100.000 doanh nghiệp Nhà nước được tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước.
Cơ sở của việc xuất hiện hiện tượng này là:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nước phát triển tràn lan lại không được
tổ chức và quản lý tốt. Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp
trung gian, hệ thống kế hoạch, tài chính cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng
với nền kinh tế thị trường. Tính chủ động trong sản xuất - kinh doanh bị gò bó
bởi nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu của Nhà nước. Sự độc quyền của
các doanh nghiệp Nhà nước được pháp luật bảo vệ. Tất cả những cái đó đã

đánh mất động lực kinh tế trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước, làm kết quả hoạt động của chúng yếu kém triền
miên.
Thứ hai, do hoạt động kém hiệu quả nên các doanh nghiệp Nhà nước đã
trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên
sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến
ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt.
Thứ ba, về nhận thức lý luận, có sự thay dổi quan điểm về vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Từ "Chủ nghĩa tư bản điều tiết" của
5
5
Keynes đến "Chủ nghĩa tự do mới", rồi "Nền kinh tế hỗn hợp" của
Samuelsơn; sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh
tế Nhà nước đến chỗ coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và vai trò tự điều tiết
của cơ chế thị trường, và hiện nay là sự phổ biến của mô hình "Nền kinh tế
hỗn hợp giữa khu vực kinh tế Nhà nước và mô hình kinh tế tư nhân". Quan
điểm này đã làm thay đổi tư duy kinh tế của các chính phủ, dẫn đến xu hướng
đánh giá lại vai trò và hiệu quả kinh tế xã hội của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp mà hầu hết các
nước đều coi trọng, bắt nguồn từ thay đổi quan điểm nói trên.
Thứ tư, sức hấp dẫn từ những ưu điểm của công ty cổ phần. So với các
doanh nghiệp bình thường khác. Công ty cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu
quả kinh tế cao hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế -
xã hội, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Hình thức
thực hiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú. Thước đo sự đúng đắn của
các hình thức đó là tác dụng thu hút, tập hợp và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Thực tế phát triển của
kinh tế thị trường cho thấy, loại hình công ty cổ phần hội tụ đủ các yếu tố
trên, ngược lại, loại hình doanh nghiệp đơn sở hữu (dù là sở hữu tư nhân hay
sở hữu Nhà nước) sẽ bị hạn chế trong đầu tư và cạnh tranh.

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước liên quan chặt chẽ tới việc tôn
trọng và phát huy sở hữu cá nhân không chỉ trong chế độ tư bản chủ nghĩa mà
cả trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Với tư cách vừa là cổ đông vừa là người
làm thuê trong công ty cổ phần, người lao động có quan hệ lợi ích chặt chẽ
với doanh nghiệp, còn trong doanh nghiệp Nhà nước chủ sở hữu là Nhà nước,
là chung chung, mơ hồ, không gắn quyền sở hữu với quyền sử dụng. Cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự là một cuộc cách mạng triệt để thay đổi
cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan
hệ doanh nghiệp - Nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với
hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
6
6
Suy cho cùng, công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xã
hội hoá và nền kinh tế thị trường phát triển. Việc chuyển các doanh nghiệp
Nhà nước sang công ty cổ phần là do tính xã hội hoá của sản xuất, do quy luật
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường quyết định và thúc đẩy, đó là quá trình
khách quan, không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ thể chế chính trị hay
cá nhân nào.
1.3. Tính tất yếu và quan điểm của Đảng về cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tuyệt đối
hoá kinh tế Nhà nước, coi kinh tế Nhà nước đồng nhất với doanh nghiệp Nhà
nước, nên trong một thời gian dài đã phát triển hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước với số lượng lớn, tràn lan.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ những
yếu kém, bất cập, đưa đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chính
vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước là một đòi
hỏi tất yếu. Việc định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường đòi hỏi
phải tạo cho kinh tế Nhà nước sức mạnh thực sự, trong dó doanh nghiệp Nhà
nước là nòng cốt để đủ khả năng dẫn dắt, điều tiết và định hướng các thành

phần kinh tế khác.
Xung quanh vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực, đạt
được nhiều thành tựu đáng hào. Tuy vậy, đến năm 1992, cuộc cải cách doanh
nghiệp Nhà nước có phần chững lại, lúng túng. Cuộc sống đã đặt ra một loạt
vấn đề bức xúc như: Ai chịu trách nhiệm chính về quyết định phương hướng
phát triển và giải pháp kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp Nhà nước? Ai
chịu trách nhiệm chính về việc bảo toàn, phát triển vốn và tài sản của Nhà
nước? Ai đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động như việc làm, đời
sống, thu nhập, bảo hiểm xã hội…?
7
7
Những câu hỏi đó là thiết thực và cấp bách, cần trả lời trong điều kiện
mới. Nếu không có "ông chủ" thực sự của doanh nghiệp Nhà nước thì không
thể giải quyết triệt để những vấn đề đã nêu trên.
Cuộc sống đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới. Từ thực trạng của nền kinh tế
cùng với các đặc điểm ưu việt của hình thức công ty cổ phần và cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước, Việt Nam có thể vận dùng và cần thiết phải tiến hành
chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Đối với
sở hữu Nhà nước, việc tìm kiếm các hình thức thực hiện đa dạng, phù hợp
chính là để nâng cao hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo của nền kinh tế
Nhà nước.
Ngay từ đầu thập kỷ 90, Đảng đã có chủ trương chuyển một bộ phận
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, cụ thể như sau:
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 2 khoá VII (11-1991) nêu
rõ: "Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ
phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm,
chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiẹm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích
hợp".
- Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (11-
1994) đã nêu mục đích, hình thức cổ phần hoá và mức độ sở hữu Nhà nước

tại doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá: "Để thu hút thêm vốn, tạo thêm động
lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả,
cần thực hiện các hình thức cổ phần có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh
vực sản xuất kinh doanh: trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi
phối".
- Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò
chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước (số 10/NQ-TW, ngày 17-3-1995) đã bổ
sung thêm về phương châm tiến hành cổ phần hoá, tỷ lệ bán cổ phần cho
những người trong và ngoài doanh nghiệp "Thực hiện từng bước vững chắc
cổ phần một bộ phận doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ vốn 100%
8
8
vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần
cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong
trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán bổ phần cho các tổ chức hay cá nhân ngoài
doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh".
- Trong kết luận của Bộ Chính trị về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 1996-2000 (số 301/BBK/BTC ngày 12-9-1995) đã bổ sung thêm mục
tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước và phân loại doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) chỉ đạo:
"Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật để triển khai tích
cực, vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm huy động thêm
vốn, tạo động lực mới thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm tài sản
Nhà nước ngày một tăng lên, là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế
nhân dân để phát triển kinh tế đất nước chứ không phải để tư nhân hoá. Bên
cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp mà
Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho
người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và tư nhân ngoài doanh
nghiệp tuỳ trường hợp cụ thể; vốn thu phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất -

kinh doanh".
Trên cơ sở đánh giá tiến trình cổ phần hoá, tháng 4-1997 Bộ chính trị ra
thông báo số 63/TB-TW yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán
triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của
Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, có chính sách khuyến khích
người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá mua cổ phần, hỗ trợ công nhân
nghèo mua cổ phần nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo cấp cho ngừời lao
động trong doanh nghiệp cổ phần cổ phần hoá một số cổ phần tuỳ theo thời
gian cống hiến của mỗi người, có cơ chế để hàng năm gọi thêm cổ phần.
Đồng thời, yêu cầu phải tăng cường vai trò của các tổ chức đảng, tổ chức
quần chúng tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, tiến hành phân loại các doanh
9
9
nghiệp nhà nước để lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hóa, áp dụng các hình
thức cổ phần hóa đa dạng, phù hợp với từng điều kiện cụ thể, hoàn chỉnh các
chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII ( tháng 12-
1997) nêu rõ giải pháp cổ phần hóa như sau:" Phân loại doanh nghiệp công
ích và doanh nghiệp kinh doanh, xác định danh mục các loại doanh nghiệp
cần giữ 100% vốn nhà nước, loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ cổ
phần chi phối, loại doanh nghiệp nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần ở mức
thấp" và " Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn cần
lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển, làm ăn có hiệu quả".
Như vậy chủ trương của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
là nhất quán và ngày càng được cụ thể hoá về mục tiêu, phương thức, đối
tượng và giải pháp cổ phần hoá.
Căn cứ vào các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã từng bước có các
văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
10
10

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH CPH CÁC DNNN Ở VIỆT NAM -
THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Từ khi có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cuả Đảng và
Chính phủ đến nay, quá trình cổ phần hoá có thể phân chia làm 3 giai đoạn:
giai đoạn thí điểm cổ phần hoá, giai đoạn mở rộng cổ phần hoá và giai đoạn
thúc đẩy cổ phần hoá.
2.1.1. Giai đoạn thí điểm cổ phần hoá (từ 6-1992 đến 4-1996)
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 80, Đảng và Nhà nước đã chú trọng cải
tiến quản lý doanh nghiệp Nhà nước, coi đây là nhiệm vụ có tính quyết định
để thúc đẩy kinh tế Nhà nước phát triển. Đặc biệt, sau Đại hội Đảng lần thứ
VI (1986), thực hiện sự nghiệp đổi mới, Chính phủ đã ban hành một loạt pháp
lệnh, Nghị định nhằm thúc đẩy sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp
Nhà nước.
Trong quyết định 21/HĐBT ngày 14//7/1987 về đổi mới kế hoạch hoá
và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quyền tự chủ đối với doanh nghiệp
Nhà nước, tại Điều 22 đã đề cập tới việc thí điểm tiến hành cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước và giao cho Bộ Tài chính chủ trì. Tại thời điểm này,
mặc dù chủ trương là đúng đắn nhưng chưa thực hiện được, bởi vì: Các doanh
nghiệp Nhà nước còn được bao cấp lớn, ung dung hưởng bao cấp, thậm chí có
lãi (mặc dù đó là lãi giả) và đóng góp 60-70% số thu ngân sách. Mặt khác, thị
trường trong nước chưa phát triển, hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước
chưa được thương mại hoá: do sống lâu trong cơ chế bao cấp nên từ Trung
ương tới cơ sở chưa hiểu vấn đề phức tạp trên, từ đó chưa có sự thống nhất về
quan điểm, quyết tâm trong toàn Đảng, toàn dân.
Đến đầu năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội
đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 về chủ
11
11

trương thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện mô hình
khoán, cho thuê xí nghiệp quốc doanh.
Đến năm 1992, cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước có phần chững
lại, lúng túng. Nếu không có "ông chủ" thực sự của doanh nghiệp Nhà nước
thì không thể giải quyết triệt để những vấn đề hiện tại. Tuy vậy, sau 5 năm kể
từ khi chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được khởi xướng (năm
1987 đến năm 1992) vẫn không triển khai được đơn vị nào.
Nhằm tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước và giải quyết các vấn đề
nêu trên, ngày 8-2-1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) ra Quyết dịnh số 202/CT, chỉ đạo tiếp tục triển khai việc tiến hành
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước bằng việc thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Như vậy, thời gian này có thể vốn
Nhà nước thực sự có tác dụng.
- Chế độ chính sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá
và người lao động của các doanh nghiệp này chậm được ban hành, chưa đủ
hấp dẫn và không được thực thi.
Theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp đã cổ phần hoá
được hưởng một số ưu đãi, tuy vậy, vẫn chưa được đối xử bình đẳng như các
doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng ưu đãi hơn
các công ty cổ phần về mức vay vốn, khoanh nợ, xoá nợ v.v
Cách quản lý và đối xử với công ty cổ phần chưa đổi mới. Nhiều cơ
quan quản lý Nhà nước ở các cấp can thiệp quá sâu vào hoạt động của công ty
cổ phần, đòi hỏi phải có cấp chủ quản phê duyệt vào mỗi văn bản gửi đến,
một số ngân hàng cũng đòi hỏi phải có chứng nhận của cơ quan chủ quản vào
dự án đầu tư mới cho vay…
Việc giải quyết trợ cấp thôi việc cho người lao động sau 12 tháng kể từ
khi thi công công ty cổ phần đai vào hoạt động do thay đổi công nghệ chậm
được giải quyết. Nguyên nhân chủ yếulà do Bộ Tài chính chậm hưỡng dẫn
Thông tư thực hiện Quyết định 177/QĐ-TTg ngày 30-8-1999 về tổ chức hoạt
12

12
động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp ngày 9-6-2000, sau 10 tháng từ khi được ban
hành, mới có Thông tư hướng dẫn.
2.2. Mục tiêu, hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và
phân loại doanh nghiệp Nhà nước trong tiến trình cổ phần hoá ở Việt
Nam hiện nay
* Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
2.2.1.1. Mục tiêu cơ bản của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Một là, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình tiếp tục đổi ới
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính
năng động sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung, của khu vực
doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
Hai là, huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức
kinh tế tổ chức xã hội trong và nogài nước, để đầu tư đổi mới công nghệ,
phát triển doanh nghiệp, nâng coa sức mạnh, hiệu quả của doanh nghiệp trên
thị trường, tạo thêm việc làm, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.
Ba là, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế Nhà nước, đổi
mới căn bản quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và phương
thức hoạt động của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, tài sản Nhà nước
tạo điều kiện để khu vực kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế thị trường không cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp Nhà nước mà
chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp Nhà nước không thuộc diện Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn.
Bốn là, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước
cổ phần hoá có cổ phần, tạo động lực làm việc, nâng cao vai trò làm chủ thực
sự của họ.
* Những phương châm khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước.
13

13
Một là, cổ phần hoá phải đảm bảo tăng thêm sức mạnh của khu vực
doanh nghiệp Nhà nước, biểu hiện: huy động đựơc các nguồn vốn cho kinh
doanh ở các doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần khống
chế; tạo điều kiện để tổ chức lại một cách căn bản hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước, nhằm phát huy vai trò trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, kết hợp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước với việc sắp xếp
doanh nghiệp Nhà nước trên cùng địa bàn hoạt động cùng ngành nghề kinh
doanh, từng bước xoá bỏ ranh giới "địa phương" và "Trung ương" trong quản
lý.
Ba là, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước gắn với việc củng cố, phát
triển tổng công ty và các doanh nghiệp có 100% vốn của Nhà nước để từng
bước hình thành tập đoàn kinh tế mạnh, tạo những mũi nhọn trong ngành
nghề kinh tế, qua đó giữ được vai trò định hướng, khống chế trong nền kinh
tế.
Bốn là, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước phải làm tăng động lực
phát huy sức sáng tạo của công nhân và cán bộ quản lý, tạo điều kiện để
người lao động phát huy vai trò làm chủ trong doanh nghiệp.
2.2.2. Các hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được tiến hành theo
các hình thức sau đây:
Giữ nguyên giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành
cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp;
-Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp;
- Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá;
- Bán toàn bộ giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển
thành công ty cổ phần.
Mỗi hình thức cổ phần hoá có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Sự
đa dạng hình thức cổ phần hoá sẽ ch phép ta lựa chọn hình thức thích hợp với
14

14
ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp Nhà nước đang có mục đích
của chủ sở hữu để tiến hành cổ phần hoá.
- Nếu mục đích là mở rộng sản xuất kinh doanh Nhà nước cần giữ
nguyên quy mô cũ của doanh nghiệp đồng thời phát hành thêm cổ phiếu để
tăng vốn đầu tư cho hoạt động.
- Nếu mục đích là thu hồi vốn và để đầu tư vào hoạt động khác thiết yếu
hơn thì Nhà nước cần thực hiện cổ phần hoá toàn bọ doanh nghiệp cho người
lao động trong và người ngoài doanh nghiệp.
- Nếu xuất phát từ mục đích thay dổi phương thức quản lý trong doanh
nghiệp thì Nhà nước cần bán một phần tài sản của doanh nghiệp Nhà nước để
thành lập công ty cổ phần. Thông qua hình thức này chủ sở hữu Nhà nước đã
tự nguyện rút khỏi vị trí người quản lý độc nhất, nhường vị trí đó cho Hội
đồng quản trị, thu hút chuyên gia giỏi vào vị trí lãnh đạo trong doanh nghiệp.
- Nếu mục đích là chi phối hoạt động của công ty cổ phần, chủ sở hữu
Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt.
Khi chuyển đổi sở hữu theo hướng cổ phần háo, Nhà nước hoàn toàn có
thể chủ động cơ cấu tỷ lệ cổ phần trong doanh nghiệp theo mục đích của
mình. Cùng với phát triển thị trường, thay vì giữ trọn một số ngành, một số
doanh nghiệp quan trọng, có vị trí chiến lược. Nhà nước chi phối sự phát triển
của nền kinh tế bằng cách chỉ nắm giữ cổ phần chi phối trong các khu vực
này.
Cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá có thể được bán
cho các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Trong trường hợp bên mua là
các cá nhân và tổ chức nước ngoài thì phải được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, tỷ lệ cổ phần cao nhất là 30% vốn điều lệ.
2.2.2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước trong tiến trình cổ phần hoá
Việt Nam
Nghị định 44/1998/NĐ-CP, ngày 29-6-1998 của Chính phủ phân chia
doanh nghiệp Nhà nước trong tiến trình cổ phần hoá thành 3 loại như sau:

15
15
+ Loại doanh nghiệp Nhà nước hiện có, chưa tiến hành cổ phần hoá:
bao gồm các doanh nghiệp hoạt động công ích, quy định tại Điều 1 Nghị định
56/CP ngày 2 tháng 10 năm 1996. Đó là các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá
và dịch vụ mà Nhà nước độc quyền kinh doanh, như vật liệu nổ, hoá chất độc,
chất phóng xạ, in bạc và các chứng chỉ có giá, mạng trục thông tin quốc gia
và quốc tế…
+ Loại doanh nghiệp Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt khi tiến hành cổ phần hoá: bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động công ích có vốn trên 10 tỷ đồng; các doanh nghiệp khai thác quặng quí
hiếm, khai thác khoáng sản cuy mô lớn, hoạt động dịch vụ kỹ thuật về khai
thác dầu khí, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh và hoá dược,
sản xuất kim loại màu và kim loại quý hiếm quy mô lớn, sản xuất điện quy
mô lớn, truyền thông, vận tải đường sắt, hàng không, viễn thông, viễn dương,
in, xuất bản, sản xuất rượu bia, thuốc lá có quy mô lớn, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng cho người nghèo, kinh doanh xăng dầu có quy mô lớn.
+ Loại doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá và áp dụng các hình thức
chuyển đổi sở hữu khác, trong đó Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt: bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp còn lại (không nằm trong 2
loại doanh nghiệp trên).
2.3. Tình hình cổ phần hoá DNNN thời gian qua
2.3.1. Cổ phần hoá được triển khai đúng định hướng, từng bước vững
chắc.
Từ năm 1992 đến nay, trong phạmvi cả nước đã cổ phần hoá được
2.242 DNNN và bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN). Riêng các
năm 2001 đến 2004 cổ phần hoá được 1.654 doanh nghiệp. Trong đó, các
doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm
65,5% thuộc các ngành thương mại, dịch vụ chiếm 28,7% ; thuộc các ngành
nông, lâm, ngư ghiệp chiếm 5,8%. Các doanh nghiệp thuộc các tỉnh,thành phố

16
16
trực thuộc trung ương chiếm 65,7%; thuộc các Bộ, ngành trung ương chiếm
25,8% thuộc các Tổng công ty chiếm 85%.
Trong 2.242 DNNN đã được cổ phần hoá, các doanh nghiệp có vốn
Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm 59,2%; các doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ
5 - 10 tỷ đồng chiếm 22,3% các doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 10 tỷ
đồng chiếm 18,5%. Nghị quyết Trung ương 9 đã chủ trương mở rộng quy mô
và diện doanh nghiệp cổ phầnhoá nên đã triển khai thực hiện cổ phần hoá một
số doanh nghiệp quy mô lớn, có giá trị doanh nghiệp tới hàng ngàn tỷ đồng,
vốn Nhà nước hàng trăm tỷ đồng như công ty Sữa Việt Nam (giá trị doanh
nghiệp 2.500 tỷ đồng) vốn Nhà nước 1.500 tỷ đồng), Nhà máy Thủy điện
sông Hinh - Vĩnh Sơn (giá trị doanh nghiệp 2.114 tỷ đồng, vốn Nhà nước
1.253 tỷ đồng). Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (giá trị doanh
nghiệp 1,311 tỷ đồng, vốn Nhà nước 650 tỷ đồng).
Vốn Nhà nước tính chung đối với toàn bộ 2.242 DNNN đã cổ phần hoá
được đánh giá lại (chưa kể giá trị quyền sử dụng đất) tăng 18,4% 93.261 tỷ
đồng) so với giá trị trên sổ sách. Vốn điều lệ của toàn bộ các doanh nghiệp là
cổ phần hoá là 23.203 tỷ đồng.
Các hình thức cổ phần hoá theo quy định đều được áp dụng. Trong đó,
hình thức bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp phát
hành thêm cổ phiếu chiếm 43,4%, hình thức bán một phần vốn Nhà nước hiện
có tại doanh nghiệp chiếm 20%, hình thức bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có
tại doanh nghiệp chiếm 15,5%, hình thức giữ nguyên vốn Nhà nước phát hành
thêm cổ phiếu chiếm 15,1%. Một số doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo nguyên
tắc không ảnh hưởng đến ngành nghề kinh doanh chính, lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp và người lao động, có thể hạch toán độc lập đã tách bộ phận
doanh nghiệp ra để cổ phần hoá.
2.3.2. Các mục tiêu cổ phần hoá được thực hiện
Đối chiếu với những mục tiêu này, có thể đánh giá cổ phần hoá DNNN

trong thời gian qua như sau: Cổ phần hoá đã tạo ra loại hình doanh nghiệp có
17
17
nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ
đông ngoài doanh nghiệp, trong đó người lao động trong doanh nghiệp trở
thành người chủ tựhc sự phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần.
- Đối với 2.242 doanh nghiệp đạt cổ phần hoá từ chỗ chỉ có một chủ sở
hữu là Nhà nước đã hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Nếu
tính bình quân kết quả cổ phần hoá trong thời gian qua thì chủ sở hữu Nhà
nước nắm giữ 46,5% người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 38,1 và cổ
đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 15,4% vốn điều lệ Nhà nước nắm giữ cổ
phần chi phối (từ 50% vốn điều lệ trở lên) chiếm 29,5% số lượng doanh
nghiệp đã cổ phần hoá. Ở một số địa phương, bộ, ngành thì tỷ lệ vốn do chủ
sở hữu Nhà nước nắm giữ cũng khác nhau như: Thành phố Hồ Chí Minh,
trong 182 doanh nghiệp đã cổ phần hoá Nhà nước nắm giữ 27%, người lao
động trong doanh nghiệp nắm giữ 55% và cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm
giữ 1% vốn điều lệ; Bộ giao thông vận tải, trong 81 doanh nghiệp đã cổ phần
hoá, Nhà nước nắm giữ 53%, người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ
40% và cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 7%; Bộ Xây dựng; trong 163
doanh nghiệp đã cỏo phần hoá, Nhà nước nắm giữ 49%, người lao động trong
doanh nghiệp nắm giữ 25% và cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 26% vốn
điều lệ; thành phố Hà Nội trong 157 doanh nghiệp đã cổ phần hoá Nhà nước
nắm giữ 30,4% người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 55,4% và cổ
đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 14,2% vốn điều lệ.
- Cổ phần hoá đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong
cơ cấu lại DNNN (trong tổng số 27 công ty niêm yết).
- Cổ phần hoá mang lại cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động, có
hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Chuyển sang công ty cổ phần
doanh nghiệp hoạt động cơ bản theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh trước pháp luật và trước

cổ đông.Theo báo có của một số bộ, ngành, địa phương các doanh nghiệp cổ
phần hoá bình quân giảm dược khoảng 25% chi phí gián tiếp, chi phí quản lý
18
18
cá biệt có công ty giảm tới 50% so với trước khi cổ phần hoá thực hiện tinh
giản bộ máy quản lý, hợp lý hoá sản xuất kinh doanh, từ đó mà tăng được
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao heieụ quả
kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Cổ phần hoá tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng
cao vai trò làm chủ trong doanh nghiệp. Chính cổ phần hoá cho phép người
lao động đang làm việc trong DNNN khi chuyển sang công ty cổ phần trở
thành cổ đông. Việc kiểm tra, giám sát người lao động - cổ đông và xã hội
đối với công ty cổ phần, nhất là những công ty niêm yết thực sự có hiệu quả,
tài chính của công ty cổ phần được minh bạch, công khai cùng với những quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông nói trên, tạo điều kiện
cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách đầy đủ và
khá triệt để.
- Cổ phần hoá nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nhìn chung, tuyệt đại đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt
động có hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về hiệu
quả sản xuất kinh doanh của 850 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá đã
hoạt động trên một năm cho thấy; Vốn điều lệ bình quân tăng 44%. Doanh thu
bình quân tăng 23,6% trong đó 71,4% số doanh nghiệp có doanh thu tăng. Lợi
nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76% trên 90% số doanh nghiệp sau cổ
phần đều hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%.
Thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%. Số lao động không những
không giảm mà bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình quân đạt 17,11%/
3. Những tồn tại hạn chế trong quá trình cổ phần hoá trong thời gian
vừa qua.
- Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá tuy có tăng đáng kể, nhưng so với

yêu cầu đổi mới còn hạn chế, tốc độ cổ phần hoá còn chậm, thời gian thực
hiện cổ phần hoá còn quá dài.
19
19
Kết quả chug so với Đề án do các Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty
91 trình được Thủ tướng phê duyệt mới đạt 79%. Theo báo cáo kết quả khảo
sát tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, cho thấy thời gian cổ phần hoáđã
đựơc rút từ 512 ngày năm 2001 xuống còn 437 ngày năm 2004 vẫn còn rất
dài (Tổng công ty 911 là 554 ngày, của Bộ là 443 ngày, địa phương là 422
ngày). Chỉ riêng từ khi thành lập Ban đổi mới doanh nghiệp đến khi xác định
xong giá trị doanh nghiệp đã mất 270 ngày, trên 50% thời gian cổ phần hoá
một doanh nghiệp.
-Việc đa dạng hoá sở hữu trong cổ phần hoá còn hạn chế. Vốn Nhà
nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không
thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp
mới đạt 15,4% vốn điều lệ. Nhiều doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá "khép
kín trong nội bộ, có tới 860 doanh nghiệp (38,4%) không có cổ phần hoá bán
ra ngoài doanh nghiệp.
- Vốn Nhà nước trong các DNNN cổ phần hoá quá nhỏ và việc huy
động vốn trong quá trình cổ phần hoá DNNN chưa được nhiều. Tổng số vốn
Nhà nước theo sổ sách của toàn bộ các doanh nghiệp đã cổ phần hoá chỉ mới
bằng 8,2% tổng số vốn Nhà nước hiện có trong các DNNN. Số vốn huy động
ngoài xã hội mới có 53,5% vốn điều lệ.
- Điểm hạn chế nổi bật trong quản lý là ở nhiều công ty cổ phần chưa
có sự đổi mới,chuyển biến thực sự; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư
duy quản lý vẫn tiếp tục duy trì như còn ở DNNN.
- Một số công ty cổ phần kết quả sản xuất kinh doanh giảm thấp so với
trước cổ phần hoá.
Do hoạt động trong những ngành, lĩnh vực điều keịen phát triển khó
khăn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, chi phí kinh doanh

cao hơn mức trung bình 28,6% số doanh nghiệp có doanh nghiệp thu giảm
2.3.3. Một số tồn tại cần giải quyết
20
20
- Tiến độ CPH không đạt yêu cầu đề ra: số lượng DNNN được cổ phần
hoá trong những năm gần đây tăng nhanh, đặc biệt sau Nghị quyết Trung
ương 3 khoá IX. Tuy nhiên, hầu như chưa năm nào đảm bảo được kế oạch đã
được duyệt. Năm 2004 là năm thành công của tốc độ Cổ phần hoá cũng chỉ
đạt 753/1.000 Doanh nghiệp dự iến cổ phần hoá.
- Cổ phần hoá còn mang tính khép kín trong nội bộ Doanh nghiệp;
trong cơ cấu cổ đông của các doanh nghiệp đã Cổ phần hoá, bình quân Nhà
nước giữ 45,6% vốn điều lệ, cán bộ, công nhân viên giữ 39,3% cổ đông bên
ngoài giữ 15,1% ; số doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi
phối là 27,4%. Số lượng cổ đông chiếm lược có vốn, thị trường, năng lực kinh
doanh hầu như chưa đáng kể. Mặt khác, tính đến nay mới cổ phần hoá đựơc
6,3% vốn Nhà nước có trong DNNN.
Đánh giá…. (nhất là quyền sở hữu trí tuệ, giá trị quyền sử dụng đất)
cảu doanh nghiệp còn lúng túng, gây thất thoát tài snả của Nhà nước. Khi
chuyển đổi từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức đa sở hữu
(CPH),việc xác định giá trị những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ) của
doanh nghiệp hết sức khó khăn. Cho đến nay, hầu hết các DNNN đã CPH rất
khó khăn trong việc xác định các đối tượng và giá trị sở hữu trí tuệ vào việc
định giá giá trị Doanh nghiệp để Cổ phần hoá. Ví dụ Công ty P/S định giá tài
sản thực tế khoản 300.000 USD, nhưng giá trị thương hiệu được tính 5 triệu
USD.
- Hơn nữa, nguồn tài chính cho công tác định giá và bán cổ phiếu
không đủ: tổng chi phí cho CPH theo quy định khoảng 0,01% tổng giá trị thực
tế của doanh nghiệp. Mức chi phí này không đủ chi trả việc định giá để thực
hiện theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp; chi phí thuê các công ty kiểm toán và tài
chính chưa được quy định cụ thể.

- Về việc quản lý phần vốn Nhà nước còn trong doanh nghiệp sau CPH
chưa rõ ràng. Khi chưa CPH, số vốn Nhà nước trong doanh nghiệp chịu sự
21
21
quản lý của cơ quan chủ quản. Sau CPH, chế độ cơ quan chủ quản không còn,
nhiều doanh nghiệp xử lý vấn đề này đang hết sức lúng túng.
- Vấn đề vay vốn sau CPH: khi còn là DNNN, thiếu vốn đi vay ở ngân
hàng đã có cơ quan chủ quản cấp trên đứng ra bảo lãnh. Sau CPH, doanh
nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, tài sản
thế chấp của doanh nghiệp thường lại không có đầy đủ các loại giấy tờ liên
quan, đặc biệt là đất đai (sổ đỏ)… vì thế cũng trở nên bị động.
- Nhận thức của cán bộ, công nhân về CPH chưa được nhất quán trong
các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Không ít cán bộ quản lý doanh
nghiệp và một số cấp quản lý chưa thực sự quyết tâm CPH, còn do dự. Với
người lao động do chưa nhận thức rõ quá trình chuyển DNNN thành công ty
cổ phần nên họ lo sợ công việc và thu nhập sẽ không được bảo đảm khi mất đi
sự bảo hộ của Nhà nước.
- Chế độ chính sách hiện hành về CPH DNNN chưa đủ sức hấp dẫn,
khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp và người lao động tham gia tích cực
vào CPH. Trong đó, sự thiếu bình đẳng giữa DNNN với công ty cổ phần đang
cản trở việc đẩy nhanh tiến độ CPH.
- Thông tin về đấu giá cổ phần rất sơ sài về tình hình tài chính, tài sản,
giá trị quyền sử dụng đất đai của doanh nghiệp không đầy đủ, không kịp thời.
- Quy trình CPH còn phức tạp, nhiều phiền hà, nhất là việc xử lý các
vấn đề tài chính. Việc lập, phê duyệt đề án CPH, điều lệ hoạt động của công
ty cổ phần, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, phức tạp và lại chia
làm nhiều công đoạn, nhiều tổ tham gia đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến
trình CPH.
- Những văn bản pháp luật của Chính phủ, các cơ quan chuyên môn chỉ
đạo quá trình CPH chưa kịp sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, cải

cách hành chính không theo kịp cải cách doanh nghiệp…
- Xử lý nợ của DNNN trước CPH đang là khó khăn lớn hạn chế quá
trình CPH. Theo Cục Tài chính Doanh nghiệp, có rất nhiều doanh nghiệp nợ
22
22
gấp vài lần thậm chí nợ gấp nhiều lần so với vốn chủ sở hữu. Theo báo cáo
của Bộ Tài chính, tổng số nợ của doanh nghiệp phải trả ước khoảng 207.789 tỉ
đồng, trong đó, 71,8% là khoản vay từ ngân hàng Thương mại và các tổ chức
tín dụng, phần còn lại là từ nợ thuế, các doanh nghiệp khác là người lao động.
Trong khi đó, nợ phải thu của DNNN chỉ khoảng 50-60% so với vốn chủ sở
hữu bằng 15-20% lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số nợ
phải thu khó đòi thường không được phản ánh đầy đủ trên sổ kế toán của
doanh nghiệp.
23
23
Kết luận
Đổi mới tổ chức quản lý DNNN, phát huy vai trò của khu vực kinh tế
Nhà nước nói chung, doanh nghiệp Nhà nước nói riêng là một trong những
nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới nền kinh tế nói chung, đồng thời
cũng là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong nhiều năm qua. CPH
DNNN cũng chính là một trong những quá trình quan trọng nhất của công
cuộc đổi mới mang tính chất sống còn này. CPH DNNN là một quá trình khó
khăn, gặp phải nhiều chướng ngại trên con đường hoàn thiện CPH. Nhưng
nhờ những cố gắng và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta
đã thu được những thành tựu và những kinh nghiệm vô cùng quý giá trong
công cuộc CPH DNNN.
Cùng với việc thiết lập được một hệ thống quản lý mà chúng ta đã có
thêm những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao sẵn sàng tham gia vào
quá trình hội nhập đất nước. Cơ chế mới được hình thành giúp chúng ta xoá
bỏ dần được những thói quen trong cơ chế cũ, tạo ra những con người mới

năng động, sáng tạo, sẵn sàng đối đầu với những khó khăn thách thức trong
bước đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, ngoài những thành tựu, những kết quả tốt đẹp chúng ta cũng
không tránh khỏi những vướng mắc, những sai lầm chưa được giải quyết. Hy
vọng trong thời gian tới cùng với những chính sách mới của Đảng, Nhà nước
cộng với niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân với Đảng thì chương trình CPH
sẽ gặt được những thành công hơn nữa, hệ thống DNNN sẽ khẳng định được
vai trò và sự tồn tại của mình trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
phát triển theo định hướng XHCN.
24
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị - Bộ Giáo dục Đào tạo.
2. Tạp chí Cộng sản, số 7 tháng 4 năm 2006.
3. Tạp chí Quản lý Nhà nước số 117. Tháng 10 năm 2005. Tác giả Đinh
Ngọc Giang.
4. Tạp chí thông tin đối ngoại. Tháng 6/2005. Tác giả Phạm Viết Muôn.
5. Vấn đề cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Tạp chí Cộng sản số 18/1999.
25
25

×