Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề tài: thực trạng và giải pháp ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.51 KB, 22 trang )


LUẬN VĂN
Đề tài: thực trạng và giải pháp ngành
công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện
nay

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
MỤC LỤC

trang
Lời cảm ơn……………………………………………………….1
Lời mở đầu……………………………………………………….3
Nội dung
Chương I: Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ…………5
1. khái niệm………………………………………………6
2. Vai trò và đặc điểm của ngành CNPT…………………9
a. Vai trò
b. Đặc điểm
Chương II: Thực trạng ngành CNPT……………………………14
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến CNPT…………………15
2. Thực trạng ngành CNPT………………………………15
3. Ảnh hưởng của ngành CNPT đối với kinh tế việt nam…
4. Những ưu thế và hạn chế của ngành CNPT
a. Ưu thế
b. Hạn chế chung của ngành công nghiệp
chương III: Đảng và chính phủ có những nhìn nhận về CNPT…
1. Quan niệm của Đảng và Chính phủ về CNPT…………
2. Chính sách quan trọng…………………………………
Chương IV: giải pháp đưa ra cho ngành CNPT…………………
1. Đề xuất


2. kiến nghị
KẾT LUẬN
LỜI CẢM ƠN !
“Ngày hôm qua hay tự tháng năm nào
Con nao nức bước vào trường đại học
Thương cây lúa hóa thân từ hạt thóc
Thầy ươm mùa vàng đất vọng đồng dao”
Trong mỗi tiềm thức của chúng ta người thầy luôn chiếm một vị trí
vô cùng quan trọng, ngưới thầy đã không quản biết bao gió sương
nhọc nhằn dạy dỗ chúng ta nên ngươì, thổi vào tâm hồn ta những
điều mới lạ và bổ ích. Thầy giúp chúng ta trang bị hành trang vào
đời.sở dĩ ngày hôm nay chúng ta dược hàng ngày tới trường là nhờ
công lao của mẹ cha, thì thầy cho ta kiến thức. và hôm nay khi
được ngồi trên hàng ghế giảng đường trường Đại học Công nghiệp
TP Hồ Chí Minh, một ngôi trường đang căng tràn sức trẻ chúng
em cảm thấy rất vinh dự và tự hào, chúng em tự hứa rằng phải cố
gắng hết sức mình để không phụ lòng thầy cô ngày đêm tận tụy
dạy dỗ chúng em.
Đặc biệt qua đây chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới
thầy “PHẠM VĂN THẮNG” đã giúp đỡ chúng em hoàn thành bài
tiểu luận tốt nhất và đúng thời gian quy định. Trong thời gian làm
bài không thể tránh khỏi những sai xót, mong thầy và các bạn góp
ý để bài tiểu luận của chúng em đạt kết quả tốt nhất.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế hiện nay đang là xu thế tất yếu của từng
nước.trong những năm gần đây xu thế hội nhập gắn liền với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và con người đã có
những bước phát triển rõ ràng của thế giới việt nam cũng vậy,
chúng ta đã cố gắng trong mọi lĩnh vực.

Như chúng ta đã biết hiện nay Việt Nam đã mở rộng quan hệ
ngoại giao với hơn 200 quốc gia và đặt quan hệ thương mại với
hơn 150 nước, trong đó có hơn 60 quốc gia và tổ chức lãn thổ có
quan hệ đầu tư trực tiếp vào lãnh thổ việt nam. Là thành viên chính
thức của nhiều tổ chức ASEAN, APEC, WTO…Tăng cường quan
hệ với các nước phát triển, các nước Mỹ La Tinh, Trung Đông và
các nước khác. Việt nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong
mọi lĩnh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế - chínhh trị…
Theo xu hướng chung của thế giới, Việt nam cũng đang từng bước
hội nhập nền kinh tế thế giới. việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế là vấn
đề quan trọng của công cuộc đổi mới.
Trong đó phải nhắc tới ngành công nghiệp nói chung và ngành
công nghiệp phụ trợ nói riêng đã góp phần vào tiến trình CNH-
HĐH của việt nam.việc giao lưu với nhiều nước sẽ mở rộng thị
trường và tạo cơ hội cho ngành công nghiệp phụ trợ, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài,tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến
những kinh nghiệm quý baú của các nước kinh tế phát triển và tạo
được thuận lợi cho phát triển kinh tế nước ta.
Mặc dù công nghiệp phụ trợ là ngành non trẻ của việt nam
nhưng nó cũng là ngành kinh tế quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đến thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa việt nam.
Để biết rõ hơn về thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ ở
việt nam trong những năm gần đây bên cạnh những thành công
không thể tránh khỏi hạn chế và những giải pháp mà chúng em đưa
ra cùng với những kiến nghị dành cho ngành công nghiệp phụ trợ
sẽ được trình bày một cách chi tiết nhất trong bài tiểu luận của
nhóm 4 chúng em với đề tài:
“ thực trạng và giải pháp ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
hiện nay”
Chúng em hy vọng thầy và các bạn sẽ đọc, tham khảo và cho

chúng em những nhận xét, góp ý chân thành nhất dành về bài tiểu
luận này.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ
1.Khái niệm công nghiệp phụ trợ.
Công nghiệp phụ trợ (supporting inductries) là khái niệm chỉ
toàn bộ những sản phẩm có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các
thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện , phụ kiện, phụ tùng,
sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm,…và cũng có thể bao
gồm những sản phẩm trung gian , những nguyên liệu sơ chế. Nếu
kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm
một đặc tính nữa sẽ thâý phạm vi rõ ràng hơn: sản phẩm công
nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ và vừa.
Trong thực tiễn sản xuât kinh doanh, có 2 cách hiểu về công
nghiệp phụ trợ.
ở góc độ hẹp, công nghiệp phụ trợ là các ngành sản xuất phụ tùng
linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. ở
góc độ rộng hơn , công nghiệp phụ trợ được hiểu như toàn bộ các
ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo ra các máy
móc, thiết bị hay những yếu tố vật chất nào khác góp phần tạo
thành sản phẩm. khái niệm công nghiệp phụ trợ trên thực tế chủ
yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự
kết nối của nhiều chi tiết phức tạp đòi hỏi tính chính xác cao, dây
chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. hai
ngành công nghiệp hay sử dụng khái niệm công nghiệp phụ trợ là
ngành ô tô và điện tử.
Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn rộng hơn, công nghiệp phụ trợ
phải được hiểu một cách tông quát như một hình dung về toàn bộ
quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo
ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có

những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác
nhau về yếu tố phụ trợ.công nghiệp phụ trợ được chia thành các
ngành sản xuất:
- các ngành cứng như sản xuất nguyên liệu và linh kiện…
- các ngành mềm như thiết kế sản phẩm, mua sắm,
marketing quốc tế, viễn thông, vận tải, năng lượng, cấp
nước…
- các ngành phục vụ nhu cầu nội địa như thép, hóa chất,
giấy, xi măng…
2.Vai trò và đặc điểm của CNPT
a.Vai trò:
Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò quan trọng quyết định đối
với khả năng cạnh tranh và có vai trò to lớn trong quá trình công
nghiệp hóa. Tuy nhiên ngành công nghiệp phụ trợ của nước ta
đang phải đối mặt với những khó khăn về nguồn vốn cũng như sức
cạnh tranh của ngành này đối với khu vực và thế giới.
Công nghiệp phụ trợ tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao
động phù hợp với điều kiện việt nam. Công nghiệp phụ trợ đóng
vai trò quan trọng việc tăng sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm
công nghiệp chính và đẩy nhanh công nghiệp hóa theo hướng mở
rộng và chuyên sâu.
Công nghiệp phụ trợ phát triển kéo theo các công ty lắp ráp
và sản xuất thành phẩm cuối cùng thóa khỏi cảnh phụ thuộc vào
nhập khẩu. giá nhập khẩu những sản phẩm nhưng chi phí đầu vào
tăng cao còn chưa kể rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập
khẩu
Công nghiệp phụ trợ phát triển có vai trò đặc biệt trong vấn
đề thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), nhất là FDI trong ngành sản
xuất các loại máy móc, thực tế cho thấy, tỷ lệ chi phí về công
nghiêp phụ trợ cao hơn nhiều so với lao động trong giá thành sản

phẩm, nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng công nghiệp
phụ trợ không phát triển cũng làm cho môi trường đầu tư kém hấp
dẫn.
b.Đặc điểm
Trong hoạch định chiến lược và chính sách công nghiệp của
một quốc gia, quan hệ giữa một ngành sản xuất công nghiệp với
các ngành phụ trợ của nó là vấn đề quan trọng.
phát triển hợp lý công nghiệp phụ trợ sẽ đóng góp quan trọng vào
sự phát triển công nghiệp và kinh tế của quốc gia. lâu nay khi nói
đến hạn chế trong thu hút đầu tư vào nước ta người ta cho rằng lỗi
là do cơ sở hạ tầng bất cập, thủ tục hành chính rườm rà…tuy nhiên
nhiều địa phương đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư nhung sức
ra vẫn còn yếu. đến nay, các nhà quản lý nhận ra rằng một trong
những yếu tố cốt lõi là do chính sách nội tại các doanh nghiệp trên
địa bàn, nhất là các doanh nghiệp tham gia vào các hoat động phụ
trợ.
Chúng ta lấy ví dụ: về thành phố Đà Nẵng là địa phương tiên
phong của miền trung trong việc đẩy mạnh đô thị hóa làm thay đổi
diện mạo kinh tế- xã hội địa phương và môi trường đầu tư.
CHƯƠNG II: Thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ và ảnh
hưởng của nó tới kinh tế Việt Nam
1.Các nhân tố ảnh hưởng công nghiệp phụ trợ:
-Thị trường sản phẩm nguồn.Nhu cầu sản phẩm nguồn phải tạo ra
thị trường ổn định để phát triển hiệu quả các ngành phụ trợ. Nếu
sản phẩm nguồn có quy mô nhỏ và chủng loại đa dạng thì số lượng
sản xuất của các ngành phụ trợ sẽ nhỏ, giá thành sản xuất cao. Nếu
tiêu thụ sản phẩm nguồn nội địa không lớn các nhà sản xuất nguồn
sẽ không tham gia thị trường và ngành sản xuất sản phẩm phụ trợ
gặp khó khăn.
- Nguồn lực tài chính: Đầu tư vào các ngành sản xuất phụ trợ bất

lợi hơn so với đầu tư vào sản xuất nguồn (thường là lắp ráp): Suất
đầu tư lớn; công nghệ phức tạp; thời hạn đầu tư và hoàn vốn dài;
độ rủi ro trong đầu tư cao. Nguồn lực tài chính cho đầu tư phát
triển công nghiệp và chính sách huy động nguồn lực đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm các ngành công nghiệp phụ trợ phát
triển bền vững.
- Tiến bộ khoa học và công nghệ: Do yêu cầu cải tiến liên tục để
nâng cao năng lực cạnh tranh, việc thiết kế và chế tạo mới sản
phẩm nguồn yêu cầu công nghiệp phụ trợ phải thường xuyên đổi
mới, nghiên cứu và sản xuất phụ liệu, phụ tùng hay chi tiết phù
hợp.
- Bảo đảm yêu cầu nghiêm ngặt về (QCD) chất lượng, chi phí và
thời hạn cung ứng (các sản phẩm phụ trợ) nhằm đáp ứng những
cam kết với khách hàng của sản xuất nguồn. Nguồn linh kiện, phụ
kiện sản xuất trong nước phong phú, chất lượng cao sẽ tích cực hạ
giá thành sản phẩm nguồn.
- Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử hiện nay
tạo điều kiện cung và cầu (sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn)
gần nhau hơn, giảm thời gian giao dịch, mở rộng phạm vi quan hệ
giữa hai khu vực.
- Quan hệ giữa sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn không chỉ
giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà phải phát triển trong phạm vi
khu vực và toàn cầu để nâng cao hiệu quả.
- Hoạch định chiến lược phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
là một phần của chính sách phát triển kinh tế quốc gia, thu hút đầu
tư nước ngoài và phân công lao động hiệu quả giữa sản xuất trong
nước và các tập đoàn đa quốc gia.
2.thực trạng công nghiệp phụ trợ
Ở việt nam,cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra toàn diện nào
về ngành công nghiệp phụ trợ được tiến hành, song để đánh giá

thực trạng của ngành, chúng ta có thể dựa trên một số kết quả khảo
sát, điều tra mẫu và nghiên cứu do các cơ quan khác nhau tiến
hành ( tổng cục thống kê, viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương, tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản- JETRO và nhất là
diễn đàn phát triển Việt Nam – VDF).Theo báo cáo năm 2010 của
VDF, các nhà sản xuất nhật bản cho rằng CNPT Việt nam còn
chậm phát triển. tỷ lệ nội địa hóa của các nhà sản xuất nhật bản tại
việt nam ở các mặt hàng như ô tô cao nhất cũng chỉ đạt10%.
Tương tự là hai ngành dệt may và da giày. Mặc dù công nghiệp sản
xuất nguyên phụ liệu trong vài năm gần đây phát triển so với trước
đây, nhưng hai ngành này vẫn phụ thuộc rất lớn vào việc nhập
khẩu nguyên phụ liệu nước ngoài. Trong đó, ngành dệt may nhập
khẩu khoảng 80% nhu cầu về sợi polyeste, ngành giày da nhập
khẩu khoảng 85% hóa chất, các phụ liệu đế giày, mũi giày cùng
các phụ liệu khác.
còn theo nghiên cứu của viện nghiên cứu quản ký kinh tế trung
ương (CIEM), khi thực hiện cuộc khảo sát hơn 80 doanh nghiệp
FDI tại việt nam, có tới1/3 doanh nghiệp cho rằng việc cung ứng
nguyên vật liệu và các hoạt động kinh tế phụ trợ của việt nam rất
kém. Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối hợp với các nhà cung
cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm, nhưng rất khó có thể tìm được nhà cung ứng thích
hợp. đôi khi họ phải tim ra các nhà cung cấp tiềm năng thông qua
niên giám điện thoại hoặc dựa vào các mối quan hệ cá nhân của
nhân viên, nhưng tiếp cận hàng trăm đơn vị mới tìm thấy được một
nhà cung cấp đạt yêu cầu
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên là do các nhà cung cấp
Việt Nam chưa năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách
hàng, chưa tự tin và chưa có khái niệm “ xây dựng quan hệ” trong
kinh doanh. Ngoài ra , các doanh nghiệp phụ trợ hiện vẫn chủ yếu

kà các doanh nghiệp nhà nước, sản xuất ra những sản phẩm có chất
lượn kém và giá thành cao (do công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý
kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà
nước. trên thực tế luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn với yêu
cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như thời hạn giao hàng
của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các
doanh nghiệp việt nam.Hiện cả nước có 450.000 doanh nghiệp,
trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 90%, đóng góp hơn 40%
GDP, hơn 50% lao động trong các doanh nghiệp.
Thực trạng phát triển CNPT có thể được đánh giá thông qua khả
năng cung cấp linh kiện và tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành
công nghiệp ở việt nam như sau:
Về ngành dệt may và dày da: Công nghiệp hỗ trợ của ngành dệt
may, da giày hiện đang yếu và thiếu, điều đó thể hiện rõ nhất ở giá
trị thặng dư của 2 ngành. Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của
2 ngành đạt 16,6 tỷ USD nhưng chúng ta đã phải bỏ ra khoảng
11,5 tỷ USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất.
Giá trị thu về của 2 ngành thực sự rất nhỏ so với hàng chục tỷ đồng
kim ngạch xuất khẩu đạt được hàng năm.
Cụ thể, năm 2010 ngành dệt may hiện chỉ chủ động được khoảng
30-40% nguồn nguyên phụ liệu, trong đó vải đáp ứng được 20-
30% nhu cầu, bông đáp ứng được 10%, sơ thì chúng ta phải nhập
khẩu hoàn toàn, chỉ có sợi là ngành dệt may chủ động được gần
như hoàn toàn nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu (xuất
khẩu khoảng 2 tỷ USD năm 2010). Với ngành da giày, công
nghiệp hỗ trợ của ngành này có khá hơn so với ngành dệt may,
bằng chứng là ngành da giày có thể chủ động được 40-50% nguồn
nguyên phụ liệu cho sản xuất. Tuy nhiên, chỉ có phụ liệu như đế,
vải bạt, chỉ… là ngành chủ động được khoảng 50%, còn da thuộc
và nguyên liệu giả da, ngành da giày hiện đang phải nhập khẩu gần

như hoàn toàn.
Về ngành điên tử - tin học: sau nhiều năm phát triển, ngành điện
tử việt nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước
ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai
thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ 10-
15%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI trong nghành điện
tử, tin học đang đứng trước sức ép phải giảm chí linh kiện, phụ
kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong
nước. tuy nhiên, do số doanh nghiệp phụ trợ rất ít, chất lượng linh
kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập
khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh hoặc nhập trực tiếp từ
nhật bản
Về ngành sản xuất và lắp ráp ô tô: mỗi chiếc xe hơi đều cần
20.000-30.000 chi tiết, trong khi đó số doanh nghiệp việt nam sản
xuất linh kiện còn quá ít, hơn nữa một số doanh nghiệp chỉ sản
xuất được một số loại sản phẩm đoan giản như bảng điện, dây
điện, phụ tùng nhựa, đệm cao su, săm lốp,…trong khi đó Thái Lan
xuất khẩu ô tô với linh kiện , phụ tùng sản xuất tại chỗ với khoảng
15 nhà máy lắp ráp có trên 1.800 nhà cung ứng sản phẩm phụ trợ
và hiện có đến 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở 3 cấp: lắp ráp, cung
cấp thiết bị- phụ tùng-linh kiện và dịch vụ.
Có lẽ câu chuyện thất bại chiến lược nội địa hóa của ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam là một minh chứng rõ nhất cho thấy, ngành
công nghiệp phụ trợ nước ta phát triển không như mong muốn. Sau
hơn 10 năm hoạt động, tỷ lệ nội địa hóa của ngành ô tô rất thấp. Tỷ
lệ nội địa hóa của Honda Việt Nam là cao nhất nhưng cũng chỉ
mới đạt 10%, kế tiếp là Toyota Việt Nam (7%). Hai công ty
Daewoo Việt Nam và Ngôi Sao cùng đạt 4%. Thấp nhất là Suzuki
(chỉ đạt 3%) và Ford Việt Nam: 2%
Về ngành cơ khí chế tạo: Với ngành cơ khí, đến năm 2010,

CNPT ngành cơ khí chế tạo phải đáp ứng được 50% nhu cầu nội
địa về phôi đúc, rèn và chi tiết quy chuẩn. chúng ta có một số công
ty và doanh nghiệp công nghệ đang sản xuất phụ tùng lắp ráp,
công nghệ chế tạo máy. Tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp có khả
năng đáp ứng yêu cầu( đặc biệt là những lãnh đạo nước ngoài) do
chất lượng kém, độ chính xác thấp, không đảm bảo tiêu chuẩn
công tác. Theo thống kê của bộ công thương , hiện nay có trên 230
doanh nghiệp sản xuất linh kiện ,phụ tùng cung cấp cho công
nghiệp lắp ráp va chế tạo trong đó có hơn 80 doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, nhưng so sánh hơn cả thì chất lượng vẫn kém
hơn nhiều so với các sản phẩm của nhật bản, đài loan
Công nghiệp đúc nhựa có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực đúc nhựa nhưng chủ yếu là sản xuất hàng tiêu dùng
thông thường.trong các ngành công nghiệp điện lắp ráp như điện, ô
tô… thì rất ít doanh nghiệp có khả năng cung cấp linh kiện nhựa
đúc dùng trong sản phẩm công nghiệp, chúng ta vẫn phải nhập
khẩu sản phẩm chế tạo từ nước ngoài để sản xuất.
3.Ảnh hưởng của CNPT tới kinh tế Việt Nam
công nghiệp phụ trợ những năm gần đây chúng ta đã nói nhiều tới
sự phát triển chậm chạp của ngành CNPT ở nước ta hiện nay
nhưng xem ra thời điểm này nó trở nên bức thiết hơn bao giờ hết
bởi nó không đơn thuần phản ánh hiện trạng nước ta thiếu chiến
lược phat triển ngành CNPT mà nó còn đang có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Đến thời điểm toàn cầu hóa đã có ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh
tế, môi trường đầu tư, giá công nhân, mặt bằng rẻ không còn là
“lợi thế” riêng của Việt Nam trong thu hút đầu tư nữa. giờ đây các
nhà đầu tư dặc biệt là các lãnh đạo nước ngoài họ đã chuyển
hướng nhắm tới những thị trường có thể đáp ứng tốt nhất cho việc
sản xuất các sản phẩm đặc biệt trong đó các sản phẩm cung cấp từ

ngành CNPT là vô cùng cần thiết.bởi vậy việc phát triển CNPT
đang là một trong những chính sách phát triển hàng đầu của chính
phủ và được kỳ vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công
nghiệp Việt Nam trong những năm tới.
Công nghiệp phụ trợ ảnh hưởng tới kim ngạch nhập khẩu của nước
ta. Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty
lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ
phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. dù cho những sản phẩm này
có được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá
nhiều, phí tốn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào.
Đó là chưa nói đến tiến độ. Thời gian nhận hàng nhập khẩu.
Công nghiệp phụ trợ khôngchỉ là sản xuất các linh kiện, phụ tùng
mà nó còn là công cụ trong việc đẩy mạnh đô thị hóa làm thay đổi
diện mạo kinh tế- xã hội địa phương và môi trường đầu tư.
Lấy ví dụ điển hình dự án: khách sạn Lam Kinh Thanh Hóa. Chủ
đầu tư là: PVFC land và PVCoa. Công trình khách sạn Lam Kinh
được xây dựng trên diện tích khu đất 32.233m2 gồm 9 tầng với
quy mô 250 phòng. Công trình đạt tiêu chuẩn bốn sao phù hợp với
tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn thế giới của tổ chức du lịch thế giới
(WTO), hiệp hội khách sạn quốch tế (IHA), hiệp hội khách sạn và
nhà hàng của liên minh châu âu, và với tiêu chuẩn xếp hạng khách
sạn chung cuả các nước tiểu vùng Mekong của tổng cục du lịch
Việt Nam.dự án khách sạn lam kinh được thực hiện nhằm góp
phần thực hiện định hướng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao cơ
sở hạ tầng cho thành phố thanh hóa nói riêng và tỉnh thanh hóa nói
chung đồng thời , dự án cũng thực hiện định hướng phát triển
hoạt động của PVN tại tỉnh thanh hóa, là phụ trợ cho các dự án
trọng điểm mà điển hình là dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn sẽ hoàn
thành năm 2013.
4.Những ưu thế và hạn chế của ngành CNPT.

a. ưu thế
Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, WTO, đã là thành viên
không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
- Đổi mới và cải cách mạnh mẽ: giảm tiêu cực trong quản lý hành
chánh, hứa hẹn nhiều thuận lợi cho nhà đầu tư trong hoạt động sản
xuất và kinh doanh.
- Chính trị ổn định: tạo tâm lý an toàn để nhà đầu tư hoạch định
lâu dài, sản xuất kinh doanh dài hạn.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ và tập quán
quốc tế: đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư, hạn chế các khó khăn do
khác biệt về luật lệ, quy định.
- Tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trong
cơ chế thị trường.
- Chủ động và tích cực hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế về tự do hóa, thuận lợi hóa đầu tư, tạo thị trường mới cho
nhà đầu tư.
b. hạn chế chung của ngành công nghiệp
công nghiệp việt nam còn quá yếu, hiện nay có quá ít ngành có sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. nguyên nhân không có sức cạnh
tranh một phàn vì cơ cấu đầu tư nghiêng về những ngành việt nam
không có lợi thế so sánh( những ngành thuộc công nghiệp nặng
như sắt thép, xi măng, phân bón, luyện kim…) nên sản xuất chủ
yếu là cho thị trường nội địa, FDI cũng tập trung nhiều vào những
ngành thay thế nhập khẩu.công nghiệp phụ trợ đã và đang có
những ảnh hưởng rất lớn tới công nghiệp nói riêng và nền kinh tế
việt nam nói chung, dưới đây là những hạn chế cơ bản của công
nghiệp phụ trợ việt nam:
- Doanh nghiệp phụ trợ chưa xác định các chiến lược lâu dài:
Chiến lược phát triển 2011-2020 cũng chỉ nhắc đến CNPT trong
vỏn vẹn 7 từ: “phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ” chứ thực tế thì

các doanh nghiệp không có bước tiến, trong việc tổ chức và xây
dựng chiến lược hoat động đang là hạn chế cơ bản nhất của CNPT
- Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ: Các doanh
nghiệp phần lớn hoạt động riêng rẽ và thiếu chủ động yêu cầu hỗ
trợ của khối doanh nghiệp tư nhân, vốn là nhân vật chính của cuộc
chơi kinh tế thị trường và cũng là đối tượng chính trong sản xuất
CNPT.
- Nhập siêu do thiếu nguyên vật liệu: nguyên vật liệu sản xuất
trong ngành công nghiệp phụ trợ không phải là điểm yếu của công
nghiệp việt nam nhưng giai đoạn cuối của sản xuất sản phẩm lại là
vấn đề nan giải của việt nam, không có khoa học kỹ thuật và công
nghệ cao nên khâu sản xuất công đoạn cuối việt nam luôn phải
nhập khẩu của nước ngoài, một số công ty của nước ngoài thay vì
tổ chức sản xuất tại việt nam sẽ chuyển qua nhập khẩu sản phẩm
của chính họ để phân phối trên thị trường việt nam.
- Tỷ lệ nội địa hoá linh phụ kiện của các ngành sản xuất ở mức
thấp
- Doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ yếu nên không tăng cường
khả năng cạnh tranh, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói,
bao bì, …
- Giá sản phẩm cao nên khó cạnh tranh.
c. hạn chế của CNPT
- Chưa có sự triển khai các chính sách phù hợp và sự hỗ trợ kịp
thời, đúng mức.
- Cần có chương trình hành động cụ thể, kế hoạch chi tiết để triển
khai đảm bảo mục tiêu, tiến độ
- Hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp phụ trợ và kỹ thuật sản
xuất tiên tiến.
- Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa nhận biết tầm quan trọng
của việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

- Hình thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc, không chuyên môn
hoá.
- Quy mô thị trường trong nước còn hạn chế: thị trường ôtô Việt
Nam (do nhiều yếu tố chi phối như hạ tầng giao thông, chính sách
thuế nhằm hạn chế lượng xe lưu hành…) với khoảng 9xe/1.000
dân.
- Thông tin phối hợp giữa FDI và SME còn hạn chế.
- Chưa có hệ thống cung ứng có kiểm soát (Supplier Chain
Management): Ngành công nghiệp ôtô hình thành 5 cấp bậc sản
xuất với hàng nghìn các doanh nghiệp tham gia trong đó nhiều
nhất là các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu, kế đến là các
doanh nghiệp nhỏ, các doanh
CHƯƠNG III: Nhìn nhận của Đảng và Chính Phủ về CNPT
1. Quan niệm của Đảng và Chính phủ về CNPT
Ở Việt Nam, quan niệm về công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong
các chương trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Khái niệm này
được du nhập vào nước ta thông qua vai trò của Diễn đàn kinh tế
Việt Nam (VDF) và ảnh hưởng của các luồng FDI Nhật Bản, đặc
biệt gắn với việc chọn lựa địa điểm đặt các nhà máy 2004, chủ yếu
trong các chỉ thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ
thị số 47/2004/CT-TTg ngày 22/12/2004 về các giải pháp nâng cao
sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có đề ra
nhiệm vụ trong năm 2005: “Tập trung phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ để tăng cường khả năng cung ứng nguyên vật liệu,
bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho sản xuất hàng
công nghiệp xuất khẩu và thúc đẩy mối quan hệ bổ trợ liên ngành
giữa các ngành công nghiệp…”. Một vài công văn và chỉ thị sau
đó cũng lặp lại nội dung này (Chỉ thị 27/2006/CT-TTg ngày
07/08/2006). Đặc biệt, nội dung phát triển phát triển công nghiệp
đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành

công nghiệp Việt Nam (Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày
04/04/2006 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành
công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm
nhìn đến 2020). Công nghiệp phụ trợ trở thành một trong những
nội dung chính đối với Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp
điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 (Quyết định
số 75/2007/QĐ-TTg ngày 28/05/2007).
2. Chính sách của Nhà Nước
Ngày 31/07/2007, Bộ công nghiệp ra quyết định số
37/2007/QĐ-BCN phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ
trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. nội dung quy hoạch
phát triển công nghiệp phụ trợ tập trung vào 5 nhóm ngành: dệt
may, da dày, điện tử- tin học, sản xuất lắp ráp ô tô và cơ khí chế
tạo.
Với một số chính sách quan trọng sau :
- Hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ
tùng, nguyên vật liệu phụ trợ cũng như một số khu, cụm công
nghiệp phụ trợ có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các
vùng có ngành công nghiệp chính phát triển.
-Khuyến khích các DNVVN tham gia sản xuất sản phẩm phụ trợ,
cung ứng nguyên phụ liệu cho sản xuất phụ trợ; tập trung phát triển
các ngành, các sản phẩm công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi
nhọn, tạo nền tảng để phát triển DNVVN làm vệ tinh phát triển
công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ chi phí mua bản quyền và tạo điều kiện
thuận lợi cho họ tiếp cận nguồn vốn vay dài hạn để đầu tư phát
triển.
-Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có các dự án chuyển giao công nghệ vào VN, khuyến khích
tham gia đào tạo nguồn nhân lực, kết nối khối doanh nghiệp này
với các doanh nghiệp nội địa trong phát triển sản xuất phụ trợ.

- Khuyến khích các viện nghiên cứu chuyên ngành triển khai
nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát
triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ
tùng phục vụ phát triển công nghiệp phụ trợ.
- Thu hút sự hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển như Nhật
Bản, EU để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp phụ trợ.
- Sử dụng vốn ODA để hỗ trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế
pháp lý và các chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ, công
nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hợp tác với các công ty đa quốc
gia đầu tư trực tiếp vào VN.
CHƯƠNG IV: giải pháp đưa ra cho ngành công nghiệp phụ trợ
CNPT Việt Nam hiện nay đang còn chậm phát triển đang còn
thua xa các nước Nhật Bản, Trung Quốc…có nhiều nguyên nhân
dẫn tới sự chậm trễ đó, sau đây là những giải pháp cho ngành
CNPT:
1.đề xuất
• chính sách hỗ trợ hợp lý từ nhà nước, phải có một bộ luật
chính thức về công nghiệp phụ trợ chứ không đơn thuần
là quyết định phê duyệt hay là xây dựng nghị định ưu đãi
công nghiệp phụ trợ.nhà nước cần phải có chính sách phát
triển học tập cac nước có nền kinh tế phát triển đặc biệt là
Nhật Bản thực hiện chính sách công nghiệp phụ trợ một
cách bài bản, có chủ đích và phù hợp với từng thời kỳ.
• giải pháp về khoa học công nghệ, nhà nước cần xây dựng
và ban hành một tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng sản phẩm
theo tiêu chuẩn quốc tế, làm căn cứ cho định hướng phát
triển. cần hoàn thiện nâng cấp các tổ chức kiểm định,
đánh giá chất lượng sản phẩm phụ trợ đạt trình độ quốc
tế. tạođiều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có
các dự án chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất

taị việt nam. Cũng như hỗ trợ kinh phí mua bản quyền
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển CNPT
• giải pháp huy động nguồn nhân lực. nhân lực là khâu có ý
nghĩa quyết định đối với mọi doanh nghiệp đặc biệt là đối
với doanh nghiệp có công nghiệp phụ trợ phụ trợ đang
trong giai đoạn sơ khai, để đảm bảo cho ngành công
nghiệp này phát triển hoạt động, đáp ứng yêu cầu sẽ cần
nhiều cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế, chế tạo máy,
luyện kim, điện tử- tin học …có khả năng làm chủ các
công nghệ. để vươn lên tầm cao đủ sức cạnh tranh trên
trường quốc tế nhân viên ngành này cần phải có năng lực,
trình độ nghiên cứu, tác phong công nghiệp cao, do đó
Việt Nam cần phải chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực
bằng mọi hình thức.
• giải pháp liên kết doanh nghiệp. để tranh thủ bước đi
nhanh, chắc, hiệu quả cần xây dựng các chương trình hợp
tác dài hạn với các đối tác chiến lược, các công ty, tập
đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và
công nghiệp phụ trợ nói riêng. ở Việt Nam trong giai đoạn
2010 tầm nhìn 2020. trước mắt cần có kế hoạch kết nối
với các doanh nghiệp FDI ( FDI là vốn đầu tư trực tiếp)
với các doanh nghiệp nội địa thông qua các kế hoạch kết
nối, chương trình giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng
sản phẩm phụ trợ và hợp đồng kinh tế giữa 2 bên.
• Giải pháp về hạ tầng cơ sở. giao thông vận tải của nước ta
rất kém. Cần phải tích cực đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện
cả các mặt đường bộ, đường sắt, đường biênt, hàng
không. Hệ thống càn được nâng cấp, đáp ứng chuyên chở
hành khách và hàng hoá ngày càng tăng lên. Các kho
hàng, các điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế

trọng điểm cần được mở rộng và xây dựng hiện đại hơn,
phù hợp hơn.
• Giải pháp về tài chính. DN vừa và nhỏ là đối tượng chủ
yếu trong lĩnh vực này nên cần tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp ấy tiếp cận được với nguồn vốn vay dài
hạn đầu tư cho phat triển, trong việc đầu tư và sản xút sản
phẩm phụ trợ cũng cần hỗ trợ kinh phí cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nghiên cứu và học tập công nghệ của
nước khác, hỗ trợ cho ngành phhats triển khoa học công
nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ.
• Để bắt nhịp làn sóng nội địa hóa Việt nam cần sớm xây
dựng các cơ sở dữ liệu hiệu quả. Một doanh nghiệp nên
có đủ các thông tin về chính sách, thành tích và kinh
nghiệm của công ty, hạn chế trong khu vực sản xuất,
tranh thiết bị sản xuất, độ chính xác, chứng chỉ chất
lượng, các khách hàng chính, doanh số bán, tổng vốn và
số vốn lưu động sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp sản xuất linh kiện trong nước.thiết lập
quan hệ với cac công ty sản xuất nước ngoài sản xuất tại
Việt Nam.
2.kiến nghị của ông Trần Văn Thọ trong bài viết: “phát triển
công nghiệp phụ trợ: mũi đột phá chiến lược”
a. Giảm hoặc bãi bỏ các loại thuế đánh vào linh kiện nhập khẩu để
giảm giá thành sản phẩm lắp ráp, để các sản phẩm này xuất khẩu
được. Mở rộng thị trường ra các nước khác để tăng quy mô sản
xuất thành phẩm cuối cùng mới kích thích các công ty nhỏ và vừa
nước ngoài đến đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ.
Trong thời đại tự do thương mại không thể áp dụng chính sách nội
địa hoá như các nước chung quanh đã làm trong quá khứ. Mở rộng
thị trường sản phẩm lắp ráp và chủ động xây dựng công nghiệp

phụ trợ là chiến lược thích hợp nhất hiện nay. Cũng từ quan điểm
này. Việc chủ động xây dựng công nghiệp phụ trợ có thể được
thực hiện qua những điểm từ b đến e dưới đây.
b. Cho rà soát lại các cơ sở sản xuất các ngành phụ trợ tại các công
ty nhà nước, ưu tiên cấp vốn và tạo các điều kiện khác để đổi mới
thiết bị, thay đổi công nghệ tại những cơ sở đã có quy mô tương
đối lớn. Lập chế độ tư vấn kỹ thuật và quản lý để mời các chuyên
gia nước ngoài vào giúp thay đổi công nghệ và cơ chế quản lý tại
từng doanh nghiệp nhà nước vừa nói. Hiện nay, Nhật Bản và một
số nước khác đang có chế độ gửi những người đã đến tuổi nghỉ
hưu nhưng còn sức khoẻ và ý chí muốn đem kinh nghiệm của mình
đến giúp các nước đang phát triển. Họ được gọi là những người
tình nguyện cấp cao (senior volunteers). Việt Nam có thể tận dụng
nguồn lực quốc tế này để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh của các
ngành phụ trợ công nghiệp
c. Đặc biệt khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất các
ngành công nghiệp phụ trợ, với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn, và những
ưu đãi đặc biệt về thuế (miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ,
miễn thuế doanh thu, v.v.). Đưa ra chính sách ưu đãi đặc biệt và
chỉ áp dụng có thời hạn (chẳng hạn trong 3-4 năm).
d. Một số nước đã phát triển, đặc biệt là Nhật, có chương trình xúc
tiến chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
các nước đang phát triển. Việt Nam nên đặc biệt tiếp nhận nhanh
sự hỗ trợ này để nhanh chóng tăng khả năng cung cấp các mặt
hàng công nghiệp phụ trợ hiện có, nhất là các mặt hàng đang sản
xuất tại các doanh nghiệp nhà nước.
đ. Dồn hết mọi khả năng để kêu gọi FDI đầu tư vào việc sản xuất
trong các ngành công nghiệp phụ trợ. Cụ thể tôi đề nghị chỉ định
một số khu công nghiệp để ưu tiên giải quyết ngay và triệt để các
mặt về hạ tầng, về thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực

cần thiết, v.v., và đặt ra các đội chuyên trách thường xuyên theo
dõi hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài để phát hiện
ngay các vướng mắc và giải quyết ngay.
e. Lập chế độ tưởng thưởng đặc biệt (từ nay đến năm 2006 chẳng
hạn) cho những công ty (kể cả nhà nước, tư nhân và công ty có vốn
nước ngoài) có thành tích cao về xuất khẩu các mặt hàng thuộc các
ngành công nghiệp phụ trợ (kể cả thành tích cung cấp cho các công
ty nước ngoài đang đầu tư ở Việt Nam sản xuất cho xuất khẩu).
năm để chớp thời cơ đang có và tạo những tiền đề cần thiết hầu
làm đảo ngược lại tình hình bất lợi hiện nay về công nghiệp. Tôi
tin là với các biện pháp trình bày ở trên, bộ mặt công nghiệp Việt
Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ có sự thay đổi lớn
vào khoảng cuối năm 2006 hoặc đầu năm 2007, khi ta thực hiện
hoàn toàn các cam kết với AFTA và chuẩn bị những bước đầu tiên
trong chương trình tự do hoá thương mại với Trung Quốc.
KẾT LUẬN
Việt nam đã và đang thu hút đầy tư trực tiếp của nước ngoài( FDI)
việc hấp thụ một lượng vốn FDI cho sản xuất linh kiện và phụ tùng
sẽ trực tiếp mở rộng các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam và
gián tiếp giúp các doanh nghiệp trong nước liên kết lại.phần lớn
nhà sản xuất linh kiện nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam chỉ
là những doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ. Để thu hút họ việc tạo ra
môi trường kinh doanh tự do và mở đặc biệt là một khuôn khổ
chính sách ổn định là điều kiện quan trọng nhất. bên cạnh những
yêu cầu thông thường như chất lượng lao động cao, cơ sở hạ tầng
và ưu đãi hơn về chính sách hỗ trợ.
Hiện nay Việt Nam đã và đang tăng cường quan hệ với các nước
phát triển, vừa tạo ra cơ hội mới, vừa đặt ngành công nghiệp nói
chung và ngành công nghiệp phụ trợ nói riêng của nước ta vào thế
cạnh tranh. Vị thế của sản phẩm trước thị trường mở rộng đòi hỏi

phải có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành hợp lý, đây là thách
thức lớn mà ngành công nghiệp phụ trợ phải vượt qua.
Nói chung những thách thức nêu trên có thể giải quyết bằng nỗ lực
chung giữa chính phủ Việt Nam, các tổ chức có liên quan và các
doanh nghiệp Việt Nam chỉ có vậy việc phát triển lành mạnh các
ngành công nghiệp phụ trợ mới trở nên bức thiết với Việt Nam vào
lúc này, đây là bước đi tất yếu trong việc nâng cao năng lực và khả
năng cạnh tranh với các nước khác của Việt Nam.

×