Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Chủ thể giao kết hợp đồng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.97 KB, 9 trang )

Đề bài:
Dàn ý bài tập cá nhân 2: Nêu và phân tích các quy định hiện hành về chủ thể giao kết hợp
đồng lao động
A. Đặt vấn đề:
B. Giải quyết vấn đề:
1. Khái quát về hợp đồng lao động:
2. Các quy định hiện hành về chủ thể giao kết hợp đồng lao động
3. Thực trạng và kiến nghị:
C. Kết thúc vấn đề:
Bài làm
Giao kết hợp đồng lao động là giai đoạn đầu tiên thiết lập nên quan hệ lao động giữa
người lao động và người sử dụng lao động thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng lao
động.
Về điều kiện chủ thể giao kết hợp đồng lao động, pháp luật lao động quy định người lao
động phải … điều 6 BLLĐ và điều 120 BLLĐ
Sở dĩ pháp luật lao động quy định như trên về độ tuổi lao động là căn cứ vào sự phát triển
về thể chất cũng như tâm sinh lý của một con người cụ thể. Dựa trên đánh giá về mặt khoa
học, pháp luật xác định rằng độ tuổi 15 mới được coi là độ tuổi hội tụ những điều kiện cần
thiết về thể chất và nhận thức để có thể tự do lao động nuôi sống bản thân. Do vậy, pháp
luật quy định người lao động phải là người đã đạt đến độ tuổi đó.
Tuy nhiên, một số nghành nghề không đòi hỏi nhiều về sức lao động và cũng tạo điều
kiện cho việc học tập, rèn luyện kỹ năng, pháp luật đã cho phép sử dụng trẻ em dưới 15 tuổi
được tham gia. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, những người dưới 15 tuổi là những ng chưa
phát triển hoàn toàn về sức khỏe cũng như tâm sinh lỹ và cũng chưa có đủ khả năng tự bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình do vậy, nhằm tránh khả năng lợi dụng sức lao động của
những người này, pháp luật yêu cầu việc tham gia lao động của trẻ em dưới 15 tuổi trong
các ngành nghề này phairnhaanj được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người đại
diện hợp pháp của ng đó.
Người sử dụng lao động: điều 6,…. Ngoài ra pháp luật còn quy định: “trong trường hợp
người có thẩm quyền không trực tiếp giao kết hợp đồng lao động thì có thể ủy quyền cho
người khác bằng văn bản, trừ trường hợp đã quy định về phân cấp quản lý nhân sự. Riêng


đối với người sử dụng lao động là cá nhân thì không được ủy quyền”. Việc quy định chặt
chẽ điều kiện đối với người sử dụng lao động khi giao kết hợp đồng lao động với người lao
động là một đòi hỏi cần thiết và không thể thiếu đối với pháp luật. Đòi hỏi này xuất phát từ
thực tế là nếu không quy định điều kiện đối với người sử dụng lao động thì sẽ dẫn đến tình
trạng bất ký người nào cũng có thể trờ thành người sử dụng lao động và tình trạng sử dụng
lao động bừa bãi, lợi dụng sức lao động, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng
của người lao động. Trên thực tế, trước khi Bộ Luật lao động ra đời, đã không có một cơ sở
vững chắc và thực sự có hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động. Do đó,
tình trạng sử dụng lao động bừa bãi, thuê nhân công rẻ mạt,…
Quy định trên nhằm phần nào hạn chế sự vi phạm của người sử dụng lao động và củng cố
thêm quyền lợi của người lao động, thể hiện sự quan tâm, bảo vệ NLĐ từ phía nhà nước.
Hơn nữa, hiện nay do sức ép quá lớn về vấn đề lao động việc làm, người lao động ngày
càng có nhu cầu lao động sớm hơn đã tạo ra sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động.
Đồng thời quy định đó cũng phù hợp với tiêu chuẩn do tổ chức lao động quốc tế.
Bên cạnh phải đạt độ tuổi nhất định thì người lao động phải có khả năng lao động, có sức
khỏe đảm bảo, có kỹ năng thực hành, có chuyên môn nghiệp vụ và cả kinh nghiệm nghề
nghiệp. Người sử dụng lao động không chỉ đòi hỏi người lao động có khả năng lao động mà
còn phải biết gắn bó với đơn vị sử dụng lao động, yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp.Điều
này là hoàn toàn hợp lý ví có như vậy thì hiệu quả lao động mới đạt kết quả cao.
Về phía đơn vị sự nghiệp, theo quy định tại khoản 3 điều 2 Nghị định 68/2000/NĐ- CP
thì đơn vị sự nghiệp được giao kết hợp đồng lao động phải là đơn vị hoạt động bằng nguồn
kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
+ Đối với người đăng ký dự tuyển vào biên chế của đơn vị sự nghiệp phải đủ các điều
kiện quy định tại điều 5 của nghị định số 116/2003/ NĐ –CP :
- Về độ tuổi dự tuyển thì người đăng ký vào đơn vị sự nghiệp phải từ đủ 18 tuổi đến
dưới 45 tuổi. Những người có năng khiếu đặc biệt, đăng ký dự tuyển vào các
nghạch viên chức thuộc nghành văn hóa, nghệ thuật, thông tin, thể dục thể thao thỉ
tuổi đời phải từ đủ 15 tuổi trở lên và thực hiện ký hợp đồng lao đồng làm việc đặc
biệt.
Như vậy,nhìn chung ta có thể thấy độ tuổi của người lao động tham gia ký kết hợp

đồng lao động làm việc cao hơn so với độ tuổi của người lao động so với các hình
thức hợp đồng lao động thông thường. Sở dĩ có sự khác biệt này là do xuất phát từ
tính chất chức nghiệp của những người lao động, ở công vụ của họ và đòi hỏi cao
về mặt nghiệp vụ cũng như bổn phận trong quá trình thực hiện nghĩa vụ lao động .
Một điểm khác biệt nữa trong quy định của pháp luật về điều kiện độ tuổi người
lao động khi tham gia ký kết hợp đồng làm việc đó là không chỉ quy định mức tối
thiểu mà còn quy định mức tối đa. Mức tối đa về độ tuổi ở đây là dưới 45 tuổi.
Điều này là một điểm mới để đảm bảo cho nhà nước chất lượng đội ngũ viên chức
luôn năng động, trẻ trung, đảm bảo hoàn thành tốt công việc được giao.
+ Về quốc tịch: người dự tuyển phải là người mang một quốc tịch Việt Nam, có địa
chỉ thường trú tại Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng được đưa vào trong
điều kiện tuyển dụng người lao động trong đơn vị sự nghiệp. `
t số lầm lẫn về hợp đồng lao động
Cập nhật lúc 11:11 | 15/07/2010 (GMT+7)
Chỉ đến khi có tranh chấp kiện tụng giữa người lao động với doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp mới
phát hiện ra những lầm lẫn trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng lao động với người lao động.
Việc giao kết hợp đồng lao động diễn ra rất thường xuyên
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải có một lực lượng lao động giỏi tham gia thực
hiện các công việc của doanh nghiệp. Do đó, việc giao kết hợp đồng lao động diễn ra rất thường xuyên
đối với rất nhiều các doanh nghiệp.
Điều 26 Bộ luật Lao động có quy định về Hợp đồng lao động (HĐLĐ) như sau: “HĐLĐ là sự thỏa
thuận giữa NLĐ (NLĐ) và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”. Như vậy hợp đồng lao động là một bằng chứng thể
hiện sự cam kết, thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Lầm lẫn trong việc soạn thảo hợp đồng
Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp làm HĐLĐ rất sơ sài với NLĐ, nhiều doanh nghiệp chỉ làm HĐLĐ
theo mẫu chung chung, rồi sử dụng mẫu HĐLĐ này cho tất cả các đối tượng NLĐ khác nhau mà không
quan tâm đến việc mỗi một NLĐ sẽ có những vị trí khác nhau, công việc khác nhau, điều kiện làm việc
khác nhau
Ngoại trừ trường hợp các nhà máy, xí nghiệp có nhiều lao động làm việc cùng vị trí, mức lương như

công nhân may, công nhân kỹ thuật, lắp ráp … thì có thể sử dụng mẫu HĐLĐ chung chung còn trong
trường hợp NLĐ làm những công việc mang tính chuyên biệt, khác nhau thì doanh nghiệp, tổ chức hoặc
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn lao động nên chú ý về nội dung của HĐLĐ khi thỏa thuận và ký kết
với từng NLĐ.
Trường hợp doanh nghiệp đã ký kết HĐLĐ với người lao động cũng cần phải rà soát lại xem HĐLĐ ký
với người lao động đã đầy đủ các điều khoản bắt buộc phải có theo quy định của pháp luật lao động hay
chưa. Cụ thể: HĐLĐ phải có những nội dung chủ yếu như công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh
lao động và bảo hiểm xã hội đối với NLĐ.
Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung các HĐLĐ quy định quyền lợi của NLĐ thấp hơn
mức được quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đang áp dụng
trong doanh nghiệp hoặc hạn chế các quyền khác của NLĐ thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó phải
được sửa đổi, bổ sung.
Khi Thanh tra lao động phát hiện, nếu người sử dụng lao động và NLĐ không sửa đổi, bổ sung các nội
dung đó thì Thanh tra lao động có quyền buộc hủy bỏ các nội dung đó; quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
các bên được giải quyết theo quy định của pháp luật. (Điều 29 Bộ luật lao động)
Lầm lẫn về chủ thể giao kết hợp đồng lao động:
Về nguyên tắc HĐLĐ phải được đúng người có thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động giao kết. Tuy
nhiên nhiều doanh nghiệp phó mặc cho bộ phận nhân sự giao kết HĐLĐ với NLĐ mà chẳng quan tâm
xem việc giao kết HĐLĐ có được đúng người có thẩm quyền giao kết hay không. Theo Điều 5 của Nghị
định số 44/2003/NĐ-CP quy định người có thẩm quyền giao kết HĐLĐ với NLĐ như sau:
-Đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp;
- Đối với hợp tác xã là Chủ nhiệm hợp tác xã, đối với Liên hiệp hợp tác xã là Giám đốc Liên hiệp hợp
tác xã;
- Đối với các cơ quan, tổ chức, các chi nhánh, các văn phòng đại diện (gọi chung là tổ chức) của quốc tế
hoặc nước ngoài đóng tại Việt Nam là người đứng đầu tổ chức (Trưởng chi nhánh, Trưởng văn phòng,
Trưởng đại diện );
- Đối với cá nhân, hộ gia đình là người trực tiếp sử dụng lao động.
Trường hợp những người có thẩm quyền không trực tiếp giao kết HĐLĐ thì có thể uỷ quyền cho người

khác bằng văn bản, trừ trường hợp đã quy định về phân cấp quản lý nhân sự. Riêng đối với người sử
dụng lao động là cá nhân thì không được uỷ quyền.
Quy định là vậy nhưng trên thực tế việc lầm lẫn về chủ thể giao kết HĐLĐ với NLĐ xảy ra khá thường
xuyên ngay cả ở các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp cũng cần lưu ý trong trường HĐLĐ không
do người có thẩm quyền của doanh nghiệp ký kết HĐLĐ với NLĐ thì quyền lợi của NLĐ vẫn được
pháp luật bảo vệ, ngược lại doanh nghiệp gặp không ít phiền phức khi xảy ra tranh chấp với NLĐ hoặc
bị cơ quan quản lý nhà nước về lao động phát hiện.
BLLĐ quy định một nhóm đối tượng trong nhóm người dưới 18 tuổi là “người lao động chưa thành
niên”. Người lao động chưa thành niên được xác định như sau:
Tại Điều 6 BLLĐ quy định: “người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều
119 quy định “người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Kết hợp quy định tại
Điều này với quy định tại Điều 6 trên, ta thấy độ tuổi của người lao động chưa thành niên là từ đủ 15
tuổi cho tới dưới 18 tuổi. Từ đó, có thể hiểu người lao động chưa thành niên là một nhóm lao động đặc
thù, ở độ tuổi từ đủ 15 tuổi cho đến dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao
động.
Cụ thể hoá quy định về độ tuổi của người lao động chưa thành niên là từ đủ 15 tuổi cho đến dưới 18
tuổi, tại điểm 51 trong Danh mục công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên được ban hành kèm
theo Thông tư số 09/TT-LB ngày 13/4/1995 của Liên Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế
quy định nhóm tuổi này là từ 180 tháng tuổi cho đến dưới 216 tháng tuổi. Tuy nhiên, quy định tại điểm
51 nêu trên chỉ áp dụng đối với trường hợp người lao động chưa thành niên tham gia công việc liên quan
đến mang vác trọng lượng một vật nhất định, không thấy đề cập tới việc áp dụng chung cho tất cả các
công việc, ngành nghề cấm sử dụng lao động chưa thành niên.
Quy định trên cho thấy pháp luật lao động chỉ thừa nhận những người từ đủ 15 trở lên mới được tham
gia quan hệ lao động, còn những người chưa đủ 15 tuổi tham gia quan hệ lao động thì không được pháp
luật lao động thừa nhận
1
. Việc quy định tuổi lao động này được dựa trên một số cơ sở như: đây là độ
tuổi tối thiểu để một người có đủ năng lực chủ thể để tham gia quan hệ lao động, có thể tự mình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ trong lao động; việc quy định này còn căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội
về số lượng và cơ cấu của lực lượng lao động xã hội; mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường lao

động; cơ cấu và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội; ngoài ra, quy định này còn nhằm bảo đảm yêu
cầu phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế, phù hợp giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế
và các nước khác trong khu vực.
Bổ sung thêm cho quy định tại Điều 6 trên, tại Điều 120 khẳng định thêm “Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15
tuổi vào làm việc, ngoại trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy
định” như: diễn viên, các nghề truyền thống, các nghề thủ công mỹ nghệ, vận động viên năng khiếu. Và
khi người sử dụng lao động nhận những em dưới 15 tuổi vào làm việc thì phải tuân theo những điều kiện
chặt chẽ do luật quy định như: trẻ em đủ 12 tuổi, có sức khoẻ phù hợp với công việc, có giấy cam kết và
đồng ý theo dõi của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp, môi trường lao động không được quá 4 giờ
một ngày hoặc 24 giờ một tuần, có hợp đồng lao động… Như vậy, đối với người dưới 15 tuổi, thì ngoài
một số nghề, công việc và các điều kiện như trên nêu thì bất kỳ người nào dưới 15 tuổi tham gia quan hệ
lao động đều là trái pháp luật lao động của Việt Nam.
Quy định trên phù hợp với Công ước số 138 về Độ tuổi tối thiểu mà Việt Nam đã tham gia năm 2003.
Trong Công ước quy định các nước thành viên tham gia công ước phải xác định độ tuổi tối thiểu được đi
làm việc hoặc được đi lao động và không một ai ở dưới độ tuổi tối thiểu đó được đi làm việc hoặc được
lao động trong bất cứ nghề nào, độ tuổi tối thiểu đó không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo
dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi. Như vậy, có thể thấy pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi.
3. Trong Luật BVCSVGDTE lại quy định một nhóm đối tượng trong nhóm người dưới 18 tuổi là “trẻ
em”. Trẻ em trong Luật này được xác định là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi (Điều 1).
Ngoài ra, tại khoản 7 Điều 7 Luật BVCSVGDTE và Điều 228 BLHS có đề cập đến nhóm đối tượng “lao
động trẻ em”. Xét ở khía cạnh pháp lý thì trong hệ thống pháp luật của Việt Nam không có một quy định
nào để xác định khái niệm “lao động trẻ em”. Do đó, khái niệm lao động trẻ em chỉ có thể xác định dựa
trên mặt thuật ngữ khoa học. Để hiểu rõ nội hàm của thuật ngữ “lao động trẻ em”, ta có thể đi từ việc
làm rõ khái niệm “trẻ em” và khái niệm “lao động”.
Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 xác định “Trong phạm vi của Công ước này,
trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. Phù hợp với quy định này và đặc điểm của Việt Nam, Luật BVCSVGDTE tại
Điều 1 xác định: trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Mặt khác, theo Từ điển tiếng Việt thông dụng thì “Lao động là hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất hay

tinh thần”. Kết hợp hai khái niệm về “trẻ em” và “lao động” ở trên, ta có thể hiểu: lao động trẻ em là
hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần do những người dưới 16 tuổi thực hiện. Nhóm tuổi
của lao động trẻ em theo khái niệm trên là để chỉ tất cả những người dưới 16 tuổi.
Từ các quy định trên, trong Luật BVCSVGDTE thì “lao động trẻ em” được hiểu là những người dưới 16
tuổi, trong đó có một nhóm người từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi tham gia lao động cũng sẽ được gọi là “lao
động trẻ em”. Mặt khác, theo quy định trong BLLĐ thì người “lao động chưa thành niên” là người từ đủ
15 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong đó có một nhóm người từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi tham gia lao động
cũng sẽ gọi là người “lao động chưa thành niên”. Như vậy, rõ ràng, cùng một nhóm đối tượng từ 15 tuổi
cho đến dưới 16 tuổi trong hai văn bản luật lại được gọi khác nhau: “lao động trẻ em” và “lao động chưa
thành niên”. Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc áp dụng luật trên thực tế,
như đối với trường hợp người sử dụng lao động sử dụng nhóm đối tượng từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng
điểm b khoản 2 Điều 15 của Nghị định số 113/2004/NĐ-CP để xử lý (phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng với người sử dụng lao động sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại…). Nhưng sau khi xử phạt xong, người sử dụng
lao động vẫn tiếp tục vi phạm thì khó xử lý tiếp theo Điều 228 BLHS (người nào sử dụng trẻ em làm
công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy
định gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị
phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm…). Đó là do quy định trong Điều 228 chỉ áp dụng đối với hành vi vi phạm sử
dụng lao động trẻ em, nhưng với nhóm từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi lại được hiểu là “lao động trẻ em”
hoặc “lao động chưa thành niên” nên sẽ dẫn đến việc lúng túng khi áp dụng Điều 228 của BLHS.
Để khắc phục những nhược điểm trên, theo chúng tôi:
Thứ nhất, cần quy định rõ ràng, cụ thể ngay trong BLLĐ khái niệm về “người lao động chưa thành niên”
theo hướng: Trong thời gian đang sửa đổi, bổ sung BLLĐ thì tại Điều 119
2
cần sửa lại như sau: “Người
lao động chưa thành niên là người lao động từ đủ 180 tháng tuổi cho đến dưới 216 tháng tuổi”. Cách
quy định này tương tự như cách quy định về tính thời hạn hợp đồng lao động tại Điều 27 BLLĐ sửa đổi,
bổ sung năm 2002 là tính bằng tháng (hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng trong khoảng

thời gian từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng), thay cho cách tính bằng năm trong BLLĐ năm 1994 (hợp
đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến 3 năm).
Thứ hai, cần có sự điều chỉnh lại về cách quy định trong BLLĐ và Luật BVCSVGDTE đối với nhóm
người từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi, để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật. Sự điều chỉnh
này theo hướng: Tại khoản 7 Điều 7 của Luật BVCSVGDTE cần sửa lại như sau: “Với trẻ em dưới 180
tháng tuổi: cấm lạm dụng sức lao động của các em, cấm sử dụng các em làm công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao
động”.
Thứ ba, để có cách hiểu chính thức về thuật ngữ “lao động trẻ em” (như cách sử dụng thuật ngữ này
trong BLHS, Luật BVCSVGDTE, Công ước số 138 về Tuổi tối thiểu được đi làm việc, Công ước số 182
về Cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất…) thì nên đưa ra
một cách xác định chính thức về thuật ngữ này trong một văn bản quy phạm pháp luật. Cách xác định
này có thể như sau: “Lao động trẻ em là những em dưới 180 tháng tuổi tham gia lao động”.
Chú thích:
Một số qui định trong pháp luật lao động còn hạn chế về kỹ thuật lập pháp, mâu thuẫn với các qui định khác,
nhiều thuật ngữ pháp lý không được giải thích cụ thể dẫn đến khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ
Điều 31 Bộ Luật Lao động qui định: “… người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện
hợp đồng lao động đối với người lao động…”. Trên thực tế một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà
nước làm ăn không có hiệu quả phải tổ chức lại sản xuất hay chuyển thành công ty cổ phần… trong trường hợp
này chủ doanh nghiệp mới vẫn phải gánh hậu quả của doanh nghiệp cũ, không có quyền quyết định về nhân sự
trong doanh nghiệp của mình. Nếu nhìn vấn đề này ở góc độ khác thì có thể coi đó là vi phạm quyền tự do kinh
doanh đã được Hiến pháp qui định. Hoặc Điều 148 về việc tham gia bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, chỉ đơn giản nêu nên rằng các doanh nghiệp có trách nhiệm tham
gia các loại hình bảo hiểm xã hội phù hợp đặc điểm cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Rõ ràng là, cần phải có văn bản
dưới luật hướng dẫn thêm nếu muốn thực hiện điều khoản này. Cũng tương tự như vậy Điều 156, khoản 4 Điều
158 Bộ Luật Lao động có ghi: “… đại diện của người sử dụng lao động…” nhưng qui định về tổ chức đại diện
người sử dụng lao động cũng như hoạt động của tổ chức này chưa được qui định cụ thể.

×