Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp việt nam năm 2005 những vấn đề đặt ra và giải pháp tháo gỡ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.05 KB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, em đã
nhận được rất nhiều sự động viên, hướng dẫn, giúp đỡ và hướng dẫn, đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, người đã
trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian làm khóa luận này. Với sự quan tâm
hướng dẫn của cô, em đã bước đầu làm quen với việc nghiên cứu một đề tài khoa
học, đặc biệt là trong lĩnh vực Luật. Trong suốt thời gian được cô hướng dẫn, em đã
học được rất nhiều điều từ cô về kiến thức chuyên môn, cách tư duy học Luật cũng
như phương pháp nghiên cứu. Chính nhờ đó em mới có thể hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa quản trị kinh doanh,
trường Đại học Ngoại Thương đã có những bài giảng hữu ích, nhiệt tình hướng dẫn
em, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập.
Cuối cùng em xin cảm ơn sự khuyến khích, động viên và góp ý của bạn bè và
gia đình đã giúp em hoàn thành khóa luận này.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 10
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP, THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP VÀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 3
1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp 3
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp 3
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp 4
1.1.3. Phân loại doanh nghiệp. 5
1.2.Thành lập doanh nghiệp 7
Thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật là quyền của tổ
chức, cá nhân và được Nhà nước bảo hộ. Doanh nghiệp phải được
thành lập theo đúng quy định của pháp luật. Luật doanh nghiệp năm
2005 đã đưa ra những quy định rất chi tiết về việc thành lập doanh


nghiệp và đăng ký kinh doanh. Điều 13 LDN 2005 đã nêu rõ những cá
nhân, tổ chức được quyền thành lập doanh nghiệp đồng thời liệt kê
những đối tượng không được quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt
Nam. Theo quy định này, các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá
nhân nước ngoài có quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam, trừ
những đối tượng không có quyền tham gia thành lập doanh nghiệp
được liệt kê tại Điều 13 Khoản 2 như sau: Cơ quan nhà nước, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để
thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị
mình, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân Việt Nam, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các
doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử
làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác, người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang chấp
hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh và
những trường hợp khác theo quy định của Luật phá sản. 7
1.2.1. Thủ tục thành lập doanh nghiệp 8
1.2.1.1. Trình tự các bước thành lập doanh nghiệp 8
1.2.2. Những quy định về cơ cấu, tổ chức của các loại hình doanh
nghiệp 13
1.2.3. Quy định về chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể doanh
nghiệp 16
1.3.Góp vốn thành lập doanh nghiệp 19
Hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong việc thành lập doanh nghiệp, tạo tiền đề cho các hoạt động kinh
doanh sau đó của doanh nghiệp. Chính vì lí do đó mà LDN 2005 đã có

những quy định chi tiết và chặt chẽ về việc góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Theo Điều 4 Khoản 14 LDN 2005 thì “Góp vốn là việc đưa tài
sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung
của công ty” Các hình thức góp vốn cũng được Luật quy định khá linh
hoạt khi cho phép tài sản góp vốn có thể là “ tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí
tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ
công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty” theo Điều 4
Khoản 4 LDN. Ngoài ra, do sự quan trọng của việc góp vốn thành lập
doanh nghiệp mà hoạt động góp vốn cần phải thỏa mãn những điều
kiện nhất định về chủ thể, vốn pháp định, vốn điều lệ…LDN 2005 cũng
có những quy định về các thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp như
thủ tục chuyển quyền sở hữu để có thể hướng dẫn cụ thể các chủ thể
tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp. Những quy định của Luật,
mặc dù vẫn còn tồn tại những bất cập nhưng đã góp phần đáng kể vào
việc xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đầy phát
triển kinh tế 19
1.3.1. Điều kiện góp vốn thành lập doanh nghiệp 20
1.3.2. Tỷ lệ góp vốn thành lập doanh nghiệp 23
1.3.3. Hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp 24
1.3.4.Nguyên tắc và thủ tục góp vốn 25
Khi góp vốn để thành lập doanh nghiệp, điều quan trọng là phải xác
định phần vốn góp của từng thành viên. Để xác định được chính xác
phần vốn góp, tỷ lệ góp vốn của mỗi thành viên trong doanh nghiệp, về
nguyên tắc pháp luật cần phải có sự định giá tài sản góp vốn. Như vậy,
định giá tài sản góp vốn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định
phần đóng góp của từng thành viên 25
1.3.4.1. Định giá tài sản góp vốn 25
1.3.4.2. Chuyển quyền sở hữu tài sản giữa chủ sở hữu là thành viên
góp vốn và doanh nghiệp 27

CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM NĂM
2005 28
2.1. Những quy định chung về góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với
mọi loại hình doanh nghiệp 28
2.1.1. Về loại tài sản được phép góp vốn vào doanh nghiệp 28
2.1.2. Định giá tài sản góp vốn 30
2.1.3. Thủ tục góp vốn 31
2.1.4. Các hành vi bị cấm khi góp vốn thành lập doanh nghiệp 32
2.1.5. Chủ thể được quyền tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp33
2.2. Những quy định riêng về góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với
từng loại hình doanh nghiệp 36
2.2.1. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn 36
2.2.2. Đối với công ty hợp danh 42
2.2.3. Đối với công ty cổ phần 45
3.1. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi LDN năm 2005 liên
quan đến góp vốn thành lập doanh nghiệp 51
3.1.1. Những bất cập trong các quy định liên quan đến góp vốn thành
lập doanh nghiệp 51
3.1.1.1. Vẫn còn những quy định chưa rõ ràng 51
3.1.1.2. Vẫn còn sự chồng chéo giữa LDN năm 2005 và các văn bản
hướng dẫn 52
3.1.2. Những khó khăn trong quá trình thực thi LDN năm 2005 liên
quan đến góp vốn thành lập doanh nghiệp 54
3.1.2.1. Chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể 54
3.1.2.2. Chưa có chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp
vi phạm 55
3.1.2.3. Chưa có những quy định phù hợp với thực tiễn 57
3.2. Các giải pháp tháo gỡ 59
3.2.1. Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện Luật doanh nghiệp

năm 2005 nhằm loại bỏ bất cập trong các quy định về góp vốn thành
lập doanh nghiệp 59
LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định
chi tiết và phù hợp hơn với môi trường kinh doanh so với LDN 1999.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những bất cập trong các quy
định về góp vốn thành lập doanh nghiệp trong LDN 2005 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, gây khó khăn trong việc thực thi. Trong khi
đó, hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp là một trong những vấn
đề rất quan trọng trong việc thành lập doanh nghiệp và những vấn đề
về quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau
này. Chính vì thế mà việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện LDN 2005 là
rất cần thiết để tạo ra một hành lang pháp luật hoàn thiện cho các
doanh nghiệp. Những quy định chi tiết, rõ ràng và phù hợp hơn về hoạt
động góp vốn thành lập doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thuận lợi hơn trong việc thành lập doanh nghiệp cũng như điều
hành doanh nghiệp sau khi thành lập, đồng thời tránh xảy ra những
tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với
nhau. Khung pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp hoàn thiện
hơn sẽ góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, tạo
nên một sân chơi công bằng và phù hợp với điều kiện kinh tế hơn cho
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thúc đầy nền kinh tế đất
nước phát triển hơn. Dưới đây là một số giải pháp tháo gỡ để loại bỏ
những bất cập trong các quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp
trong LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. 59
3.2.1.1. LDN cần bổ sung quy định hướng dẫn các thành viên khi thỏa
thuận góp vốn thành lập công ty 60
Ngoài công ty TNHH MTV, các thành viên khi thành lập doanh nghiệp
đều cần đạt được một bản thỏa thuận về mức góp vốn, loại tài sản góp
vốn, thời hạn góp vốn, tổng số góp vốn, thời hạn góp vốn… Bản thỏa
thuận này có thể coi là một hợp đồng phục góp vốn thành lập doanh

nghiệp. Hợp đồng này là tiền đề pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của
công ty. Nó là căn cứ xác định sự minh bạch pháp lý đối với các giao
dịch của các thành viên trong quá trình góp vốn, tồn tai song hành
cùng 60
mọi dự án thành lập công ty. Hình thức của hợp đồng góp vốn thành
lập công ty được thể hiện bằng lời nói hoặc ghi nhận bằng văn bản.
Trên thực tế, không phải tất cả các trường hợp thỏa thuận góp vốn, đi
đăng ký kinh doanh đều được cấp giấy chứng nhận kinh doanh. Khi
đó, các sáng lập viên sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phân chia rủi ro
do quá trình thành lập doanh nghiệp không thành. Qúa trình thỏa
thuận góp vốn vào công ty qua rất nhiều giai đoạn như: định giá tài
sản, chuyển quyền sở hữu Nếu đăng ký kinh doanh không thành, giả
sử như chi phí mời tổ chức chuyên nghiệp tư vấn về định giá tài sản thì
ai sẽ chịu hay trách nhiệm trả chi phí chuyển quyền sở hữu tài sản là
của ai? Trong khi đó, văn bản ghi nhận các thảo thuận trên một cách
chính thức là Điều lệ công ty. Nhưng Điều lệ công ty chỉ tồn tại khi
công ty chính thức được thành lập. Do đó, những tranh chấp nêu trên
không thể giải quyết dựa vào Điều lệ công ty được mà phải dựa vào
những thỏa thuận góp vốn trước đó của các thành viên hay cổ đông
sáng lập. LDN nên bổ sung những quy định về hợp đồng góp vốn thành
lập công ty, làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp. Hiện nay, chỉ đối
với loại hình liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài thì hợp đồng liên doanh mới được yêu cầu phải có trong hồ
sơ đăng ký kinh doanh mà thôi 60
Tuy vậy, ngay cả với những trường hợp hồ sơ đăng ký kinh doanh
không có yêu cầu thì các nhà đầu tư cũng nên lập hợp đồng hoặc thỏa
thuận thành lập doanh nghiệp để có thể xác định quyền và nghĩa vụ
của từng nhà đầu tư, tránh những tranh chấp không đáng có sau này.
Hợp đồng hoặc thỏa thuận này sẽ bao gồm những quyền và nghĩa vụ
của từng bên trong quá trình chuẩn bị thành lập doanh nghiệp cho đến

khi bắt đầu tiến hành đăng ký kinh doanh và ở giai đoạn doanh nghiệp
mới thành lập, xử lý trường hợp doanh nghiệp không thể thành lập
được. Căn cứ vào quy mô vốn đầu tư hoặc tính chất ngành nghề lĩnh
vực kinh doanh mà hợp đồng góp vốn bắt buộc phải được lập thành
văn bản 61
3.2.1.2. LDN 2005 cần phải quy định về nghĩa vụ của các doanh nghiệp
trong việc phải công khai tiến độ góp vốn trên mạng thông tin doanh
nghiệp 61
Trên thực tiễn hiện nay, như đã đề cập, có rất nhiều trường hợp các
doanh nghiệp đăng ký vốn điều lệ “ảo” khiến cho các khách hàng lẫn
đối tác của doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp gặp rất nhiều khó
khăn. Từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của việc công khai minh
bạch hóa các thông tin về doanh nghiệp, đặc biệt là những thông tin về
vốn điều lệ. Khách hàng chỉ có thể biết được vốn điều lệ, quy mô của
doanh nghiệp dựa trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc do
chính các doanh nghiệp tự công bố trên cổng thông tin của doanh
nghiệp. LDN 2005 hiện nay có quy định về công bố nội dung đăng ký
kinh doanh của doanh nghiệp tại Điều 28. Một trong những nội dung
đăng ký kinh doanh phải được công khai đó là vốn điều lệ của doanh
nghiệp tại Khoản d Điều 28 “Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh, số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và
số cổ phần được quyền phát hành đối với CTCP, vốn đầu tư ban đầu
đối với doanh nghiệp tư nhân, vốn pháp định đối với doanh nghiệp
kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định” Các doanh
nghiệp phải đăng những nội dung cần thiết, trong đo có vốn điều lệ
trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh
hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên
tiếp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Quy định này là cần thiết để có thể công khai minh
bạch hóa thông tin về doanh nghiệp cho các khách hàng, đối tác tìm

hiểu. 61
Tuy nhiên, với thực trạng góp vốn không đúng theo cam kết xảy ra
nhiều trên thực tế hiện nay thì quy định trên không còn mang tính hiệu
quả thực thi nhiều nữa. Thông tin về doanh nghiệp cần phải minh bạch
một cách chi tiết hơn nữa. Theo đó, để các chủ đầu tư thực hiện góp
vốn một cách nghiêm túc và tạo điều kiện cho khách hàng được tiếp
xúc với những thông tin chi tiết của doanh nghiệp thì LDN nên bổ sung
thêm quy định các doanh nghiệp phải công khai số vốn thực góp tên
mạng thông tin doanh nghiệp ngoài vốn Điều lệ. Và đi kèm theo đó là
những bằng chứng chứng minh số vốn thực góp đó của doanh nghiệp.
Như vậy, khách hàng sẽ có một cái nhìn chi tiết hơn về doanh nghiệp
trước khi quyết định làm ăn kinh doanh cùng doanh nghiệp 62
3.2.1.3. LDN năm 2005 nên mở rộng hơn các loại tài sản được phép góp
vốn khi thành lập doanh nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp tận dụng
các tài sản trí tuệ trong thành lập doanh nghiệp 62
Quy định về các loại tài sản được phép góp vốn trong LDN năm 2005
có thể coi là một quy định “mở”, có tính linh động cao khi cho phép các
loại tài sản đều có thể góp vốn, chỉ cần các thành viên, cổ đông sáng lập
đồng thuận. Tuy nhiên, theo như vấn đề về việc góp vốn bằng tri thức
vào công ty hợp danh như đã đề cập ở trên thì Pháp luật Việt Nam vẫn
còn thiếu những quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Việc góp
vốn bằng tri thức không chỉ phổ biến trong thành lập công ty hợp danh
mà còn được dùng để góp vốn thành lập các loại hình công ty khác.
Tuy nhiên, với đặc điểm là mô hình công ty đối nhân và nên việc góp
vốn bằng tri thức hay việc làm vào công ty hợp danh phổ biến hơn so
với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong khi đó, mô hình công ty
hợp danh tuy đã được thừa nhận từ LDN 1999 nhưng đến nay số lượng
công ty hợp danh được thành lập vẫn rất ít so với các mô hình khác. Do
vậy, khung pháp luật về công ty hợp danh vẫn còn nhiều điểm bất cập
và thiếu sót. Chính vì thế, điều tất yếu đặt ra đối với pháp luật của công

ty hợp danh nói riêng và cho các loại hình công ty khác nói chung là
cần hoàn thiện các văn bản về hình thức góp vốn, đặc biệt là khi góp
vón thành lập công ty. Mục tiêu của việc hoàn thiện là làm cho chế định
pháp luật này phù hợp với nhu cầu đầu tư của thị trường, hài hòa lợi
ích của nhà nước và nhà đầu tư làm thúc đẩy phát tiển nền kinh tế.
Theo đó, LDN nên bổ sung quy định về hình thức góp vốn chi tiết hơn,
xác định rõ mọi tài sản có khả năng định giá thành tiền thì đều có thể
dùng để góp vốn chỉ cần các thành viên đồng ý. 62
Song song với LDN, những văn bản hướng dẫn có liên quan cũng cần
được sửa đổi sao cho tương thich, đồng bộ với LDN. Do trên thực tế
hiện nay, định giá các tài sản vô hình vẫn còn là một vấn đề gây nhiều
tranh cãi. Trong khi đó, tài sản vô hình như tri thức, việc làm rất khó
để định giá. Vì thế, ngoài LDN, Nhà nước cũng cần ban hành và sửa
đổi những văn bản pháp luật để có thể hướng dẫn chi tiết các chủ thể
tham gia góp vốn như việc: hạch toán tài sản góp vốn vào đâu, định giá
những tài sản vô hình đó như thế nào và việc lập hợp đồng góp vốn một
cách chi tiết để tạo dựng một khung pháp luật thuận lợi cho nhà đầu tư
đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước 63
3.2.1.4. Hoàn thiện và ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện góp vốn
và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu 63
Do không có quy định cụ thể về vấn đề góp vốn bằng quyền sử dụng
nhãn hiệu khiến cho các doanh nghiệp tự ý góp vốn theo cách riêng
của mình cộng với thực trạng các doanh nghiệp mang quyền sử dụng
nhãn hiệu tham gia góp vốn ngày càng gia tăng, Bộ tài chính đã đưa ra
dự thảo Thông tư hướng dẫn góp vốn và nhận góp vốn bằng quyền sử
dụng nhãn hiệu vào ngày 02/07/2010. Theo đó, các tập đoàn, tổng công
ty, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân và các chủ thể khác có giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu được tham gia góp vốn và nhận vốn
góp bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu. Theo đó, căn cứ vào từng
trường hợp cụ thể, các bên góp vốn có thể lựa chọn phương pháp định

giá giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu phù hợp với quy định hiện hành về
thẩm định giá. Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu góp vốn vào các doanh
nghiệp phải được các thành viên, cổ đông thống nhất và được xác định
thông qua một tổ chức chuyên nghiệp thẩm định giá. Về giá trị quyền
sử dụng nhãn hiệu khi đem góp vốn, Điều 5 Khoản 1 Điểm a của dự
thảo quy định “Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu góp vốn được ghi
nhận là một khoản đầu tư của Bên góp vốn. Giá trị quyền sử dụng
nhãn hiệu tham gia góp vốn không được phản ánh tăng tài sản, tăng
nguồn vốn chủ sở hữu của Bên góp vốn. Bên góp vốn có trách nhiệm
mở sổ theo dõi riêng ngoài Bảng cân đối kế toán đối với giá trị quyền
sử dụng nhãn hiệu đã đầu tư tham gia góp vốn, thực hiện quyền, nghĩa
vụ theo Hợp đồng góp vốn, phù hợp với pháp luật và Điều lệ của công
ty nhận vốn góp”. Bên góp vốn được chia cổ tức từ phần vốn góp bằng
giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu. Dự thảo thông tư này là một tín hiệu
đáng mừng cho các doanh nghiệp, được coi như một bước đáp án cho
bải toán góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu trong thời gian qua.
Tuy nhiên, đã gần hai năm kể từ ngày đưa ra dự thảo mà thông tư vẫn
chưa được ban hành chính thức để đi vào áp dụng trong thực tiễn.
Nhiều ý kiến cho rằng những quy định trong dự thảo thông tư được
đưa ra tuy rằng đã chi tiết hóa việc hướng dẫn góp vốn và nhận góp
vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu nhưng vẫn còn nhiều quy định
chưa phù hợp như: 63
Thứ nhất, dự thảo quy định giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu được gia
tăng trong cả quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhận
vốn góp. Tuy nhiên, trong khi bên góp vốn được chia cổ tức từ phần
vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, thì bên nhận góp vốn
không được phát hành cổ phiếu tương ứng với giá trị nhãn hiệu nhận
vốn góp. Doanh nghiệp nhận góp vốn được hạch toán giảm giá trị tài
sản dài hạn khác, giảm nguồn vốn chủ sở hữu tương ứng với giá trị
quyền sử dụng nhãn hiệu mà trước đây doanh nghiệp đã ghi trên bảng

cân đối kế toán khi hết hạn hợp đồng góp vốn. Điều này sẽ đặt ra một
số bất lợi cho những cổ đông góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn
hiệu, vì vốn chủ sở hữu của mình sẽ không thể chuyển nhượng trong
công ty nhận đầu tư 64
Thứ hai, dự thảo có hướng dẫn việc định giá giá trị quyền sử dụng
nhãn hiệu đem góp vốn căn cứ vào Thông tư số 146/2007/TT-BTC ngày
6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài
chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành
CTCP. Mặc dù thông tư này có quy định về cách xác định lợi thế kinh
doanh, giá trị thương hiệu, nhưng rất chung chung và chỉ có ý nghĩa
đối với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước 65
Nhìn chung, có lẽ cơ quan có thẩm quyền cũng xem xét và thấy được
những quy định bất hợp lý trong dự thảo trên nên đã không đưa dự
thảo ban hành chính thức trong thực tiễn. Tuy nhiên, đã hơn 2 năm kể
từ khi đưa dự thảo ra lấy ý kiến thì đến nay vẫn chưa thấy Bộ tài chính
có những sửa đổi, hoản thiện dự thảo để ban hành thành thông tư
chính thức hướng dẫn các doanh nghiệp khi tham gia góp vốn bằng
quyền sử dụng nhãn hiệu. Do vậy, việc góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu đến nay vẫn còn một Khoản trống pháp lý cần được
hoàn thiện. Vì thế, Bộ tài chính cần nhanh chóng hoàn thiện dự thảo và
ban hành chính thức để tạo cơ sở pháp lý cho việc góp vốn và nhận góp
vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu.Nhìn chung, cõ lẽ cơ quan có
thẩm quyền cũng xem xét và thấy được những quy định bất hợp lý
trong dự thảo trên nên đã không đưa dự thảo ban hành chính thức
trong thực tiễn. Tuy nhiên, đã hơn 2 năm kể từ khi đưa dự thảo ra lấy
ý kiến thì đến nay vẫn chưa thấy Bộ tài chính có những sửa đổi, hoản
thiện dự thảo để ban hành thành thông tư chính thức hướng dẫn các
doanh nghiệp khi tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu. Do
vậy, việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu đến nay vẫn
còn một Khoản trống pháp lý cần được hoàn thiện. Vì thế, Bộ tài chính

cần nhanh chóng hoàn thiện dự thảo và ban hành chính thức để tạo cơ
sở pháp lý cho việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu 65
3.2.2. LDN Việt Nam năm 2005 cần quy định các chế tài đủ mạnh để
xử lý các vi phạm về góp vốn thành lập doanh nghiệp nhằm loại bỏ khó
khăn khi áp dụng LDN 2005 trong thời gian tới 65
3.2.2.1. Quy định cụ thể những chế tài vi phạm khi góp vốn không
đúng theo cam kết 65
3.2.2.2. Quy định rõ trách nhiệm khi định giá sai tài sản góp vốn thành
lập doanh nghiệp 66
3.2.3.1.Bổ sung vào Luật hình sự chế tài xử phạt đối với chủ thể không
góp vốn theo cam kết 67
3.2.3.2. Tăng cường công tác hậu kiểm tra việc thực hiện góp vốn
thành lập doanh nghiệp 68
3.2.3.3. Các chủ thể tham gia thành lập doanh nghiệp cần nghiên cứu
để nâng cao hiểu biết về LDN 2005 trước khi tham gia góp vốn thành
lập doanh nghiệp 69
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
I, TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 73
PHỤ LỤC 2 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTCP Công ty cổ phần
Công ty TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty TNHH MTV Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
LDN 2005 Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005
Nghị định 139 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 05 tháng 09 năm 2007 hướng dẫn chi tiết thi hành
một số Điều của LDN
Nghị định 43 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành

ngày 15 tháng 04 năm 2010 về đăng ký doanh nghiệp.
Nghị định 102 Nghị định 102/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01
tháng 10 năm 2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số
Điều của LDN
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi Nhà nước cho phép hình
thành chế độ sở hữu tư nhân thì đã xuất hiện thêm rất nhiều các loại hình doanh
nghiệp mới. Việc Luật doanh nghiệp 2005 ra đời thay thế cho Luật doanh nghiệp
1999 đã quy định chi tiết hơn về các loại hình doanh nghiệp cũng như về việc thành
lập doanh nghiệp. Điều này tạo ra một khung pháp luật phù hợp hơn, hoàn thiện
hơn nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thành lập doanh nghiệp và
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thành lập doanh nghiệp nói chung, đặc biệt
là việc góp vốn thành lập doanh nghiệp đã có không ít những vấn đề thực tiễn phát
sinh. Một doanh nghiệp để được thành lập và hoạt động cần phải có tài sản và các tài
sản này là do các thành viên của doanh nghiệp góp vào. Do đó, việc góp vốn có thể
coi là một trong những bước đầu tiên và quan trọng nhất để thành lập doanh nghiệp
và là cơ sở cho những hoạt động sau này của doanh nghiệp. Chính vì lý do trên mà
pháp luật Việt Nam cũng đã rất chú trọng vấn đề này và đưa ra những quy định chi
tiết nhằm hướng dẫn các chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp cũng như quy định
về tài sản góp vốn. Nhưng trên thực tế, rất nhiều tranh chấp phát sinh do Luật không
quy định rõ, lợi dụng kẽ hở của luật hoặc do sự thiếu hiểu biết về luật của chủ thể
tham gia góp vốn. Làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Để trả lời câu hỏi đặt ra cần
có sự nghiên cứu cụ thể về vấn đề góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Đó là lý do mà vấn đề “Góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của
Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005: Những vấn đề đặt ra và giải pháp tháo
gỡ” được chọn làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp này.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp, góp vốn thành lập
doanh nghiệp và nghiên cứu những quy định của Luật doanh nghiệp Việt Nam năm
2005 về góp vốn thành lập doanh nghiệp, đề tài chỉ ra những bất cập cùng những vấn
đề đặt ra trong việc thực thi Luật này trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp
tháo gỡ.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề liên quan đến thành lập
doanh nghiệp, góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh
nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn có liên quan về việc góp vốn thành lập
doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp được thành lập
dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau như công ty TNHH hai thành viên trở lên,
công ty TNHH MTV, công ty cổ phần,…Việc góp vốn thành lập doanh nghiệp theo
từng loại hình công ty này có nhiều điểm không giống nhau. Tuy nhiên, trong khuôn
khổ một khóa luận tốt nghiệp, phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn ở việc đi
sâu phân tích những vấn đề về việc góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần và công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để đưa ra nhận định,
phương pháp hệ thống hóa và phương pháp đọc và phân tích văn bản luật.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp và góp vốn
thành lập doanh nghiệp.
Chương 2: Những quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp theo Luật
doanh nghiệp Việt Nam năm 2005
Chương 3: Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi Luật doanh nghiệp Việt

Nam năm 2005 liên quan đến góp vốn thành lập doanh nghiệp và giải pháp tháo gỡ.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP, THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP VÀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có vị trí
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kì quốc gia nào trên
thế giới. Bằng cách kết hợp có hiệu quả các nguồn lực, doanh nghiệp tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, là nhân tố chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Trong
những năm gần đây, hoạt động của các doanh nghiệp đã có những bước phát triển
mạnh, góp phần giải phóng và phát triển phương thức sản xuất, huy động và phát
huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần phục hồi và tăng trưởng kinh tế,
tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo….
Chính vì nhận ra tầm quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế mà kể từ
khi chế độ sở hữu tư nhân được Nhà nước ta thừa nhận, khung pháp luật về doanh
nghiệp cũng bắt đầu được hình thành. Khái niệm về doanh nghiệp lần đầu tiên được
đề cập đến một cách chính thức trong Luật công ty của Việt Nam năm 1990. Theo
đó, doanh nghiệp được hiểu là “ đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích
chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”
1
. Quy định này nhìn chung khá sơ
sài và đơn giản do pháp luật nước ta vẫn đang trong giai đoạn mới hình thành để
thích ứng với định hướng phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian đó. Hơn nữa,
khái niệm doanh nghiệp dường như chỉ nói lên được mục đích của việc thành lập
doanh nghiệp là để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Với tính chất tổng quát như
quy định này thì tất cả những đơn vị có hoạt động kinh doanh thì đều được gọi là
doanh nghiệp. Một thập kỷ sau, khi nền kinh tế Việt Nam đã phát triển hơn, các
doanh nghiệp cũng xuất hiện nhiều hơn và tồn tại dưới nhiều hình thức pháp lý đa

dạng hơn trong hoạt động kinh doanh thì những quy định đơn giản như trên của
Luật công ty năm 1990 đã không còn phù hợp. Thay vào đó là Luật doanh nghiệp
năm 1999 ra đời, thay thế cho Luật công ty năm 1990. Luật doanh nghiệp năm 1999
1
Khoản 2, Điều 3 Luật công ty năm 1990
3
định nghĩa doanh nghiệp là “ tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh”
2
Với định nghĩa này, doanh nghiệp đã phần
nào được định hình rõ ràng hơn, là một “tổ chức” chứ không chỉ đơn thuần là một
“đơn vị” với tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch ổn định và đặc biệt là phải được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Quy định này chi tiết và rõ ràng
hơn rất nhiều, vừa chỉ ra được đặc điểm, mục đích và cả những điều kiện cần thiết
của một doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà đến năm 2005, khi LDN 2005 ra đời
thay thế cho Luật doanh nghiệp năm 1999 cũ vẫn giữ nguyên khái niệm về doanh
nghiệp như trên. Tuy nhiên, LDN 2005 sau khi nêu khái niệm về doanh nghiệp tại
Điều 4 Khoản 1 đã đưa ra định nghĩa về kinh doanh. Điều 4 Khoản 2 LDN 2005 quy
định “ Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”. Với cách hiểu về kinh doanh như vậy, LDN 2005 đã
có những quy định cụ thể hơn về khái niệm doanh nghiệp: Không phải mọi tổ chức
kinh tế đều là doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là các tổ chức kinh tế được thành lập
để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp
Từ khái niệm doanh nghiệp trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu của
doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập về mặt pháp lý. Đây là
điều kiện cần phải có để được công nhận là một doanh nghiệp. Đặc điểm này thể

hiện ở chỗ: doanh nghiệp phải có “tên riêng” để không bị trùng lặp với các doanh
nghiệp khác, tránh gây nhầm lẫn khi kinh doanh, có “tài sản” để đảm bảo các hoạt
động kinh doanh và phải có trụ sở giao dịch ổn định. Đây chính là điểm giúp định
hình doanh nghiệp và là điểm hoàn thiện hơn, tạo sự khác biệt của khái niệm về
doanh nghiệp trong LDN 2005 với Luật công ty năm 1990.
Thứ hai, mục đích của doanh nghiệp là nhằm ‘thực hiện các hoạt động kinh
doanh” theo Điều 4 Khoản 1 LDN. Việc kinh doanh của doanh nghiệp sẽ dẫn tới mục
đích cuối cùng là nhằm mục đích sinh lợi theo định nghĩa kinh doanh tại Điều 4
2
Khoản 1, Điều 3 LDN 1999
4
Khoản 2 LDN 2005. Từ định nghĩa này có thể suy ra mục đích cuối cùng của doanh
nghiệp là nhằm mục đích sinh lợi, giúp phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức khác.
Thứ ba, điều kiện đủ để được công nhận là doanh nghệp thì phải có đăng ký
kinh doanh. Theo Nghị định số 43/2010/NĐ- CP về đăng ký doanh nghiệp, việc
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh được kết hợp với đăng ký thuế tạo thành một thủ
tục đăng ký hợp nhất là đăng ký doanh nghiệp. Theo Điều 3 Khoản 1 của Nghị định
43 thì “ Đăng ký doanh nghiệp quy định tại Nghị định này bao gồm nội dung về
đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối với các loại hình doanh nghiệp thành lập
theo quy định của LDN. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập mới
doanh nghiệp và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.” Cũng theo Nghị
định 43 tại điều 5 Khoản 1 thì việc thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật là “quyền của cá nhân, tổ chức và được Nhà nước bảo hộ” Đồng thời, “Người
thành lập doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp theo quy
định của Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan” theo Điều
5 Khoản 2 Nghị định 43. Như vậy, nếu doanh nghiệp vẫn hoạt động nhưng không
đăng ký kinh doanh thì chưa được pháp luật thừa nhận về mặt hành chính và khi
xảy ra tranh chấp thì không được pháp luật bảo vệ quyền lợi. Tuy nhiên, những
người tham gia thành lập, tổ chức hoạt động kinh doanh vẫn phải chịu trách nhiệm
về các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ tư, doanh nghiệp có thể tồn tại dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau
như công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh… Theo quy định của LDN
2005, khi thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp được quyền lựa chọn 4 hình thức là
công ty TNHH( công ty TNHH MTV, công ty TNHH hai thành viên trở lên) , công
ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
1.1.3. Phân loại doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của thị trường, các loại hình doanh nghiệp ngày càng
xuất hiện đa dạng hơn. Có rất nhiều tiêu chí để phân loại doanh nghiệp, dưới đây là
một số tiêu chí phân loại doanh nghệp phổ biến:
1.1.3.1. Căn cứ vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh
Căn cứ vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, doanh nghiệp được
chia thành 2 loại: Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản và doanh
5
nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản.
Doanh nghiệp gắn với chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản là doanh nghiệp
có sự tách bạch giữa tài sản của doanh nghiệp với các tài sản khác của chủ doanh
nghiệp(đồng chủ sở hữu doanh nghiệp). Trong đó, chủ doanh nghiệp(đồng chủ sở
hữu) doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp (chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác phát sinh từ hoạt động của
doanh nghiệp) bằng tài sản mà chủ doanh nghiệp(đồng chủ sở hữu) doanh nghiệp
đã góp hoặc cam kết góp vào doanh nghiệp. Theo pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu
(đồng chủ sở hữu) công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước
và thành viên góp vốn trong công ty hợp danh chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản
trong kinh doanh.
Doanh nghiệp gắn với chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản là doanh nghiệp
không có sự tách bạch giữa tài sản của doanh nghiệp với tài sản khác của chủ sở
hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của doanh nghiệp (chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp) bằng toàn bộ tài sản của chủ sở hữu
doanh nghiệp. Theo quy định của LDN 2005, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên

hợp danh trong công ty hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản trong kinh
doanh theo Điều 141 Khoản 1 và Điều 130 Khoản 1 Điểm b Luật doanh nghiệp.
1.1.3.2. Căn cứ theo hình thức pháp lý.
Căn cứ theo hình thức pháp lý, khi thành lập doanh nghiệp, các nhà sáng lập
có thể chọn nhiều hình thức pháp lý khác nhau và tự chịu trách nhiệm về việc lựa
chọn đó. Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định doanh nghiệp ở Việt Nam có thể
tồn tại dưới các hình thức pháp lý như: công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai
thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV),
công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra còn có
doanh nghiệp Nhà nước. Điều 4 Khoản 22 LDN 2005 quy định “Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.
1.1.3.3. Căn cứ vào số lượng thành viên
Doanh nghiệp có 1 thành viên: Doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH MTV.
Trong đó, doanh nghiệp tư nhân do 1 cá nhân làm chủ còn công ty TNHH MTV do
6
1 cá nhân hoặc 1 tổ chức làm chủ sở hữu
3
.
Doanh nghiệp có từ hai thành viên trở lên: CTCP, công ty hợp danh và công ty
TNHH hai thành viên trở lên. Trong đó, số lượng thành viên công ty TNHH hai
thành viên trở lên tối thiểu là hai, tối đa là 50 theo Điều 38, Khoản 1 Điểm A LDN
2005. CTCP có số thành viên tối thiểu là ba và không giới hạn số thành viên tối đa
theo quy định tại Điều 77 Khoản 1 Điểm b LDN 2005.
1.2. Thành lập doanh nghiệp
Thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật là quyền của tổ chức, cá
nhân và được Nhà nước bảo hộ. Doanh nghiệp phải được thành lập theo đúng quy
định của pháp luật. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra những quy định rất chi
tiết về việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. Điều 13 LDN 2005 đã
nêu rõ những cá nhân, tổ chức được quyền thành lập doanh nghiệp đồng thời liệt kê
những đối tượng không được quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Theo quy

định này, các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam, trừ những đối tượng không có quyền tham gia
thành lập doanh nghiệp được liệt kê tại Điều 13 Khoản 2 như sau: Cơ quan nhà nước,
đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập
doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình, cán bộ, công chức
theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân Việt Nam, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các
doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo
uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác, người chưa
thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi
dân sự, người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh
doanh và những trường hợp khác theo quy định của Luật phá sản.
3
Điều 141 Khoản 1 và Điều 63 Khoản 1 LDN 2005.
7
1.2.1. Thủ tục thành lập doanh nghiệp
1.2.1.1. Trình tự các bước thành lập doanh nghiệp.
Tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp thì phải làm thủ tục đăng ký
kinh doanh theo quy định của LDN và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Theo
Nghị định 43 thì đăng ký kinh doanh là bắt buộc, là nghĩa vụ của người thành lập
doanh nghiệp. Kể từ khi Nghị định 43 về đăng ký doanh nghiệp ra đời thì quy trình
đăng ký kinh doanh được hợp nhất với đăng ký thuế và goi chung là đăng ký doanh
nghiệp được mô hình hóa theo sơ đồ 1 dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Trình tự thành lập doanh nghiệp.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
8
Người thành lập doanh nghiệp
Cơ quan đăng ký kinh doanh

cấp tỉnh
1
1
2
1
Hệ thống thông tin đăng ký
doanh nghiệp quốc gia
Tổng cục Thuế Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2
3
4
5
6
7
Bước 1: Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện theo ủy quyền nộp
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tại phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh. Người thành
lập doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên sáng lập của công ty hợp
danh, công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu của công ty TNHH MTV,
cổ đông sáng lập của công ty cổ phần.
Bước 2: Phòng đăng ký kinh doanh kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và nhập
đầy đủ, chính xác thông tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp vào Hệ thống thông
tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Với các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì hồ
sơ đăng ký doanh nghiệp bao gồm những giấy tờ cần thiết khác nhau. Nghị định 43
đã quy định chi tiết về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp của mỗi loại hình doanh nghiệp.
Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp, dự thảo
Điều lệ công ty( đối với công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh), danh
sách thành viên( đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh và
công ty cổ phần), Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân, Văn
bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty
kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định, Bản

sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo quy định đối với
công ty kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng
chỉ hành nghề.
Bước 3: Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh phải thông
báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập doanh
nghiệp trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ theo Điều 25
Khoản 4 Nghị định 43 về đăng ký doanh nghiệp.
Bước 4: Khi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định, thông tin về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
được chuyển sang cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính). Hồ sơ đăng ký
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện quy định
tại Điều 24 Luật doanh nghiệp. Đây là bước phối hợp giữa Tổng cục Thuế và Phòng
đăng ký kinh doanh để Tổng cục Thuế tiến hành cấp mã số cho doanh nghiệp.
9
Bước 5: Nếu Tổng cục Thuế từ chối cấp mã số cho doanh nghiệp thì phải gửi
thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó nói rõ lý do từ chối để chuyển cho
cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thông báo cho doanh nghiệp theo Điều 26
Nghị định 43.
Bước 6: Tổng cục Thuế có trách nhiệm tạo mã số doanh nghiệp và chuyển mã
số doanh nghiệp sang Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trong thời
hạn hai ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp
Bước 7: Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nhận thông tin từ Cơ sở dự liệu
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp. Kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân và chính thức hoạt động theo ngành nghề, lĩnh vực, địa
bàn đăng ký
Trường hợp đăng ký kinh doanh qua mạng điện tử, trình tự thủ tục đăng ký
kinh doanh tương tư như các bước trên, chỉ khác là người thành lập doanh nghiệp
thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh

nghiệp quốc gia. Nếu người thành lập doanh nghiệp chưa có chữ ký điện tử, việc
đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử được thực hiện theo quy trình tại Khoản 3
Điều 27 Nghị định 43.
1.2.1.2. Nhiệm vụ, chức năng của cơ quan đăng ký kinh doanh
Cơ quan đăng ký kinh doanh bao gồm Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế
hoạch và Đầu tư (sau đây gọi chung là Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh), Phòng
Đăng ký kinh doanh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có số lượng
hộ kinh doanh và hợp tác xã đăng ký thành lập mới hàng năm trung bình từ 500 trở
lên trong hai năm gần nhất hoặc Phòng Tài chính - Kế hoạch nếu không thành lập
Phòng đăng ký kinh doanh theo Điều 9 Nghị định 43. Đối với việc thành lập doanh
nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh là Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Tỉnh, có
nhiệm vụ và chức năng theo Điều 10 Nghị định 43 và Điều 163 LDN 2005 như sau:
- Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng
ký doanh nghiệp và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
10
- Phối hợp xây dựng, quản lý, vận hành Hệ thống thông tin đăng ký doanh
nghiệp quốc gia, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có
yêu cầu theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi
xét thấy cần thiết cho việc thực hiện các quy định của LDN, đôn đốc việc thực hiện
chế độ báo cáo của doanh nghiệp.
- Yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện khi phát hiện doanh nghiệp không có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật, đồng thời thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy
định của pháp luật.
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp trong
các trường hợp theo quy định của pháp luật.
1.2.1.3. Điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Theo Điều 24 LDN và Điều 29 Nghị định 43 thì doanh nghiệp được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, ngành, nghề đăng ký kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh
doanh. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 102 và Điều 5 Nghị định 59/2006/NĐ-
CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn
chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiệnthì các tổ chức, cá nhân bị nghiêm cấm
thực hiện các hoạt động có liên quan đến thương mại tại Việt Nam kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh trừ trường hợp
được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ như kinh doanh vũ khí quân dụng,
trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an, kinh
doanh ma túy các loại, kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê
tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách…. Phụ lục 1 về Danh mục
hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh được ban hành theo Nghị định 59.
Thứ hai, tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của LDN. Theo
Điều 31 LDN thì “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm
theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố sau đây: Loại
hình doanh nghiệp và tên riêng”. Hiện nay, khi thành lập doanh nghiệp, doanh
nghiệp có thể tra cứu trên hệ thống thông tin đăng ký quốc gia để tránh đặt tên
11
trùng. Ngoài ra, khi đặt tên, doanh nghiệp cần tránh vi phạm những quy định cấm
vè đặt tên doanh nghiệp tại điều 32 LDN 2005 và Điều 14 Nghị định 43.
Thứ ba, doanh nghiệp phải có trụ sở chính ở trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ
được xác định gồm số nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị trấn, huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; số điện
thoại, số fax và thư điện tử (nếu có) theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 LDN
Thứ tư, hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp là hợp lệ theo quy định của
pháp luật. Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định của LDN, có nội dung
được kê khai đầy đủ theo quy định của pháp luật theo Điều 4 Khoản 3 LDN 2005.
Thứ năm, doanh nghiệp phải nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
1.2.1.4. Nhận xét về các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 liên quan
đến thủ tục đăng ký doanh nghiệp.

LDN năm 2005 ra đời cùng với các Nghị định hướng dẫn ban hành kèm theo, đặc
biệt gần đây nhất là Nghị định số 43/2010/NĐ-CP được ban hành thay thế cho Nghị
định 88/2006/NĐ-CP đã có những quy định mang tính đôt phá đến tiến trình cải cách
thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay. Những điểm mới tích cực cơ bản như sau:
Đăng ký qua mạng điện tử: Nhà đầu tư không cần thiết phải tiến hành thủ tục
đăng ký doanh nghiệp trực tiếp bằng hồ sơ giấy như trước mà hiện tại, họ có thể
đăng ký trực tuyến qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia
Hợp nhất quy trình đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế: Thay vì phải tiến
hành thủ tục đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh rồi sau đó sang cơ
quan thuế để đăng ký mã số thuế như trước đây, thì từ ngày 01/06/2010, nhà đầu tư
chỉ cần làm một thủ tục tại cơ quan đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư
Điều chỉnh phạm vi những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp: Nghị định
quy định cụ thể là không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của
doanh nghiệp khác đã đăng ký trên phạm vi toàn quốc.
Những thay đổi về cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản và hiệu
quả hơn là hết sức cần thiết nhằm mục đích giảm bớt các thủ tục rườm rà, không
cần thiết, góp phần tiết kiệm được cho doanh nghiệp thời gian, công sức, tiền bạc,
đồng thời tạo lập được một môi trường kinh doanh lành mạnh có đủ khả năng cạnh
tranh với các nền kinh tế khác trong khu vực và thế giới.
12
1.2.2. Những quy định về cơ cấu, tổ chức của các loại hình doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các loại hình doanh nghiệp ngày càng
trở nên đa dạng. Trong đó, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những đặc điểm
riêng dẫn đến sự khác biệt về cơ cấu, tổ chức. LDN năm 2005 đã có những quy định
khá cụ thể về cơ cấu, tổ chức của các loại hình doanh nghiệp như sau:
1.2.2.1.Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó” thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp”. Công ty TNHH hai thành viên trở
lên không được có quá năm mươi thành viên, trong đó thành viên có thể là cá nhân

hoặc tổ chức. Cơ cấu, tổ chức của công ty TNHH hai thành viên trở lên gồm có:
Hôi đồng thành viên bao gồm các thành viên của công ty và là cơ quan quyết
định cao nhất.
Chủ tịch hội đồng thành viên: Do hội đồng thành viên bầu chọn. Chủ tịch hội
đồng thành viên có thể đồng thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty
Giám đốc/Tổng giám đốc công ty: “là người điều hành hoạt động kinh doanh
hang ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về việc thực hiện
các quyền và nhiệm vụ của mình”
4
. Giám đốc hoặc tổng giám đốc cần phải đáp ứng
các điều kiện, tiêu chuẩn quy định trong LDN và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra khi công ty có từ mười một thành viên trở lên thì phải lập ban kiểm
soát phù hợp với yêu cầu quản trị của công ty.
Nhìn chung, do số lượng thành viên không nhiều nên cơ cấu tổ chức của công
ty TNHH hai thành viên trở lên khá đơn giản, phù hợp với mô hình công ty vừa và
nhỏ. Cùng với những ưu điểm khác, công ty TNHH hai thành viên trở lên là loại
hình doanh nghiệp phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay.
1.2.2.2.Công ty TNHH MTV
Công ty TNHH MTV là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm
chủ sở hữu( sau đây gọi là chủ sở hữu công ty), chủ sở hữu công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
Điều lệ của công ty. Cơ cấu, tổ chức của công ty TNHH MTV phụ thuộc vào việc
4
Điều 55 Khoản 1 LDN 2005
13
chủ sở hữu công ty là cá nhân hay tổ chức.
Chủ sở hữu công ty là cá nhân: Chủ sở hữu công ty sẽ đồng thời là chủ tịch
công ty. Ngoài ra, chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê Giám đốc/ Tổng
giám đốc.
Chủ sở hữu công ty là tổ chức: Chủ sở hữu công ty sẽ bổ nhiệm một hoặc một

số người đại diện theo ủy quyền. Trường hợp có ít nhất hai người được bổ nhiệm
làm đại diện ủy quyền thì cơ cấu tổ chức của công ty giống với công ty TNHH hai
thành viên trở lên, bao gồm: Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên,
Giám đốc/Tổng giám đốc, Kiểm soát viên. Hội đồng thành viên gồm tất cả thành
viên được ủy quyền. Trường hợp chỉ có một người được bổ nhiệm làm người đại
diện theo ủy quyền thì người đó làm Chủ tịch công ty. Cơ cấu tổ chức của công ty
bao gồm: Chủ tịch công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc, Kiểm soát viên.
1.2.2.3. Công ty cổ phần
CTCP là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Mỗi cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Do
CTCP không giới hạn số cổ đông nên loại hình này thích hợp cho các công ty có
quy mô hoạt đông lớn. Vì thế, cơ cấu tổ chức của CTCP thường phức tạp và hay
xảy ra tranh chấp trong việc quản lý trên thực tiễn. LDN Việt Nam năm 2005 đã
ban hành các quy định khá chi tiết về cơ cấu tổ chức của CTCP bao gồm:
Đại hội đồng cổ đông: “gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ
quan quyết định cao nhất của CTCP” theo Điều 96 LDN năm 2005. Đại hội đồng cổ
đông thường được họp thường niên hoặc bất thường khi hội đồng quản trị hoặc một
nhóm cổ đông triệu tập khi xảy ra các trường hợp như quy định trong Luật. Đại hội
đồng cổ đông phải được triệu tập theo đúng trình tự, thủ tục và thường quyết định
những vấn đề có tính chiến lược đối với công ty như: quyết định sửa đổi, bổ sung
Điều lệ công ty, quyết định số cổ phần được quyền chào bán…Cuộc họp chỉ được
tiến hành khi số cổ đông dự họp thỏa mãn tối thiểu số phần trăm tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết được quy định như trong Điều 102 LDN năm 2005.
Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công
ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thầm
14
quyền của Đại hội đồng cổ đông. Thành viên hội đồng quản trị phải thỏa mãn
những tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Cuộc học hội đồng quản trị được tiến hành
khi có ba phần tư số thành viên dự họp trở lên.

Chủ tịch hội đồng quản trị: Do Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu.
Chủ tịch hội đồng quản trị có các quyền như quy định tại Điều 111 LDN năm 2005.
Ban kiểm soát: Khi công ty có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ
đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty thì phải có ban kiểm
soát. Ban kiểm soát. Do ban kiểm soát có nhiệm vụ giám sát Hội đồng quản trị, Giám
đốc/ Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty cũng như kiểm tra và
thẩm định tình hình quản lý, kinh doanh của công ty nên các thành viên trong ban
kiểm soát cần phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn nhất định, đảm bảo năng lực
của kiểm soát viên cũng như tính khách quan trong các quyết định của Ban kiểm soát.
1.2.2.4.Công ty hợp danh
Công ty hợp danh theo quy định của LDN 2005 tại Điều 130 Khoản 1 bao
gồm hai loại thành viên: Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Thành viên
hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong khi thành viên
góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty. Chính từ đặc điểm này mà cơ cấu tổ chức của công ty hợp
danh cũng có những đặc điểm riêng. Cơ cấu tổ chức của công ty hợp danh có Hội
đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên của công ty và bầu một thành viên
hợp danh làm chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc/ Tổng giám
đốc nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Hội đồng thành viên có quyền
quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty
1.2.2.5. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân “là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cùa mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”
theo Khoản 1 Điều 144 LDN năm 2005. Công ty tư nhân là một loại hình doanh
nghiệp có cơ cấu tổ chức đơn giản và linh động nhất. Chủ doanh nghiệp tư nhân có
toàn quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
có thể trực tiếp quản lý hoặc thuê người khác quản lý. Như vậy, loại hình doanh
nghiệp này không đòi hỏi phải có Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và chủ công ty là
15

×