Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BÀI TIỂU LUẬN "ĐẠO ĐỨC KINH DOANH XƯA VÀ NAY" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.84 KB, 27 trang )

\
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
Khái niệm đạo đức kinh doanh
Trước khi là doanh nhân, mọi doanh nhân đều phải là một người bình thường.
Doanh nhân khác với người thường ở chỗ là người có tài chứ còn để có tiền họ không thể
làm khác. Vậy họ cũng phải làm gì đó để thu phục niềm tin của người khác và để có uy
tín? Đó là một con đường họ phải theo khi hành xử công việc. Đó là “Đạo kinh doanh”.
Người Do Thái cư xử với nhau theo 10 Điều Răn và doanh nhân của họ có Đạo
kinh doanh.Đối với các dân tộc khác không phải là người Do Thái, thì sách vở từ ngàn
xưa đã chỉ, các tôn giáo đã khuyến khích, có một số đức tính căn bản cho họ. Đó là: sự
chăm chỉ, trung thực, biết điều và không tham lam.
Riêng doanh nhân cần do có nhiều người dưới quyền thì phải thêm hai đức tính
nữa là tính sòng phẳng và lòng biết ơn. Cộng sáu đức tính đó lại với tài kinh doanh thì sẽ
có một doanh nhân xuất hiện. Và người này sẽ có nhiều tiền, hay nhiều tiền sẽ đến với họ.
Khi được hướng dẫn bởi các đức tính đó, doanh nhân sẽ giữ được chữ tín trong
kinh doanh; biết liên kết trong làm ăn; đối đãi với khách hàng; cư xử với đồng sự cùng
nhân viên.
Triết lý giúp con người thăng hoa, đạo đức giúp họ bền vững. Doanh nhân có một
sợi dây đạo đức chung, một triết lý chung thì chúng là một chất keo để kết họ lại với
nhau. Hội nọ đoàn kia ra đời. Và khi kết lại được như thế doanh nhân sẽ có rất nhiều tiền.
Hiện nay, chúng ta bàn về “Đạo kinh doanh” là vì trong những mức độ khác nhau
có doanh nhân rất tài, có tiền nhưng không có đủ các đức tính căn bản của “một người
bình thường”. Lỗi đó là do lịch sử.
Thí dụ, muốn khuyến khích sự chăm chỉ chúng ta nêu khẩu hiệu “lao động là vinh
quang”. Khi ở một mình, nếu một người biết tự nhủ “ta phải chăm chỉ” thì họ sẽ bó buộc
mình làm; còn nếu bảo “để vinh quang” thì họ sẽ bảo “tôi không cần” và… đi chơi!


Doanh nhân chúng ta bị ảnh hưởng bởi sự thiếu sót chung này. Họ có tài, có tiền nhưng
thiếu “Đạo kinh doanh”.
2
Đa số thành viên của xã hội phải có những đức tính tốt căn bản của “một người
thường” để họ làm gương, làm mẫu mực, và là áp lực cho doanh nhân phải làm theo, khi
tài ba của họ hé mở rồi nở rộ.
“Đạo kinh doanh” là cách thức mà các doanh nhân cư xử với nhau và cho những ai
có quyền lợi liên quan (stakeholders) với họ, nghĩa là trong giới của họ.
Khi vứt bỏ nghề nghiệp của mình đi thì tất cả đều là “một người bình thường”.
Một điều cũng rất quan trọng là khi doanh nhân có “Đạo” thì xã hội phải đáp ứng lại; kẻo
cái “Đạo” của doanh nhân khiến họ bị lừa lọc! Cuộc sống là một sự tương tác vĩnh cửu.
Đây là một sự thật hiển nhiên giống như nhân dân anh hùng tạo nên quân đội anh hùng.
Do vậy, “Đạo kinh doanh” phải được hun đúc từ những đức tính căn bản tồn tại
trong đa số thành viên của xã hội. Doanh nhân xuất phát từ xã hội rồi dùng sự thành công
của mình để giải quyết những vấn đề xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Việc ấy giống như nhân dân anh hùng sản sinh ra quân đội anh hùng và đất nước bình an.
Không có chiều ngược lại.
3
CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH XƯA VÀ NAY
1. Nhìn lại phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
a. Đỉnh cao của phong trào duy tân
Bỏ lối học từ chương khoa cử, tập trung cho thường thức và thực nghiệm, dạy cả
tiếng Việt, Pháp và Hán văn. Chủ trương này lại xuất phát từ tầng lớp nho gia cuối cùng
của Việt Nam. Dù chỉ tồn tại trong 9 tháng (5.1907 – 1.1908), nhưng trường Đông Kinh
Nghĩa Thục thực sự là đỉnh cao của cuộc cách mạng xã hội to lớn đầu thế kỷ 20 có tên là
Duy Tân.
Cánh chim đầu đàn
Nhiều tài liệu cho rằng Đông Kinh Nghĩa thục là trường học miễn phí và dạy theo
lối cải cách đầu tiên ở Việt Nam. Nguyên cuối năm 1904 Phan Châu Trinh cùng Trần
Quý Cáp và Huỳnh Thúc kháng chu du mấy tỉnh miền Trung. Đến Bình Thuận, Phan

Châu Trinh bị bệnh phải ở lại. Thời gian này ông cùng với Hồ Tá Bang lập một thư xã ở
đình Phú Tài để giảng sách Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Nguyễn Trọng Lội nhiệt
thành dự khán những cuộc thuyết trình ấy. Đây chính là bước tập dượt để Đông Kinh
Nghĩa Thục ra đời.
Nhà thờ cụ Phan Châu Trinh
Đem nhà
làm trường
Hôm quyết
định thành lập,
cũng tại số 4 Hàng
Đào có mặt các ông
Lương Văn Can,
Dương Bá Trạc,
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… nhưng lại vắng mặt Tăng Bạt Hổ và Phan Châu Trinh.
Người cao tuổi hơn cả là Lương Văn Can được các đồng chí nhất trí tôn làm thục trưởng.
4
Về tài chánh, hội viên tự
ý góp bao nhiêu cũng được và
quyên thêm ở những chỗ quen,
hảo tâm. Tiền - thục trưởng
quản chi, nhưng sổ sách do
Nguyễn Quyền giữ.
Hai người đảm nhiệm việc lập
các thủ tục xin phép lập trường
tại phủ Thống sứ Bắc Kỳ là
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn.
Cả nhà cùng “Nghĩa Thục”
Dù chỉ bằng truyền miệng, nhưng tin tức trường Đông Kinh Nghĩa thục sắp ra đời
lan rất nhanh khắp cả hai vùng đất bảo hộ, miền Bắc và miền Trung. Việc học trò đi học
không phải mất tiền là một việc chưa từng có. Danh sách ứng sinh đăng ký theo học dồn

dập đổ về địa chỉ số 4 Hàng Đào. Trong khi đó thủ tục xin phép đã nộp gần hai tháng mà
nha Thống sứ vẫn cứ im lặng. Nguyên do là vì… cái tên. Chữ nghiã thục gần giống với
nghĩa quân nên thực dân Pháp vẫn cứ im lặng. Đợi không được ông đành mởi hai lớp nhỏ
một lớp nam,một lớp nữ chỉ dạy chữ quốc ngữ.Quốc ngữ là lợi khí để khai dân trí, nhưng
hợp với chiêu bài “khai hóa” mà người Pháp không có lý do
gì cấm.
b. Chấn hưng công thương, kỹ nghệ
“Tôi cầm bút ký tờ đoạn mãi mà tay run lên. Từ nhỏ,
có bao giờ dám động tới di sản của tổ tiên đâu”.
Đó là lời thuật lại sau này của bà
Lương Văn Can khi bà ký vào giấy tờ bán hiệu buôn Quảng
Bình An ở Hàng
Ngang, lấy 7.000 đồng đưa chồng tiêu vào việc trường Lương Văn Can
5
Phố Hàng Đào thời Đông Kinh Nghĩa Thục.
Những tấm lòng vàng :Theo Nguyễn Hiến Lê, những nhà quyên tiền nhiều nhất là
hiệu kim hoàn Thế Xuân ở Hàng Bạc và hiệu hàng tấm (tơ lụa) Phúc Lợi ở Hàng Ngang.
Hồi mới phát động, dân khí đang lên, ai nghe nói giới cựu học và tân học bắt tay nhau mở
mang dân trí, chấn hưng đất nước cũng hăm hở kẻ góp công người góp của.
Đưa môn kinh tế vào trường:
Mở mang công thương nghiệp lúc
đó là vấn đề cấp bách, trước mắt là kiếm
tiền trang trải cho Đông Kinh Nghĩa
Thục và ủng hộ các học sinh Đông du.
Về lâu dài, nó là nền tảng của toàn bộ
công cuộc duy tân đất nước.
Những chủ trương phát triển công
thương, kỹ nghệ này trước hết được đưa
vào trong chương trình học của nhà
trường. Sách Quốc dân độc bản, một tài

liệu giáo khoa quan trọng của trường, có
79 bài thì có tới 24 bài (từ bài 56 đến bài 79) đề cập trực tiếp đến các vấn đề thuộc về
kinh tế, kỹ nghệ.
Khi nhà nho đi buôn:
Tiên phong trong việc này ở đất
Bắc là ông Đỗ Chân Thiết. Năm 1904,
nhân vua Thành Thái ra bái yết lăng tẩm tổ
tông ở làng Gia Miêu, Thanh Hoá, Đỗ
Chân Thiết cùng Phương Sơn thảo Hưng
Quốc sách, nhảy xe lửa vào tận Thanh Hoá
định dâng vua, nhưng bị viên tổng đốc
Thanh Hoá gàn cản, việc không thành. Hai ông trở về Hà Nội, rủ nhau đi buôn, mướn
thuyền về Hải Dương chở gạo lên Hà Nội bán. Thuyền về đậu bến cột Đồng Hồ mấy
ngày, dân buôn thấy thuyền của ông Cử, ông Nghè không ai dám tới mua, sau nhờ một bà
6
Phố Hàng Gai nơi ông Hoàng Tăng Bí mở
xưởng dệt, chế biến các loại trà
Phố Mã Mây xưa, nơi ông Đỗ Chân Thiết
cùng Phương Sơn mở hiệu Đồng Lợi Tế
chuyên bán hàng nội hoá
xuống bán dùm, chỉ nửa buổi đã hết. Sau hai ông gọi thêm vài người đồng chí hùn vốn
được vài ngàn bạc, mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây,…
Lập đồn điền, khai mỏ :
Nghĩa Thục còn khuyến khích đồng chí lập đồn điền để khuếch trương nông
nghiệp.
Một việc ít ai biết là những người trong Nghĩa Thục còn có nhiều chiến sục sạo
trên vùng thượng du Bắc Việtvà đã tìm được một số mỏ than, chì, kẽm, lưu huỳnh.
Nói chung, giới nho sĩ chủ trương đều thiếu kinh nghiệm quản trị, thiếu vốn, thiết
bị kỹ thuật nên các công trình chỉ để lại tiếng vang, kích thích lòng yêu nước là chính.
Tuy nhiên, các cơ sở kinh tế nói trên còn là nơi gặp gỡ thuận tiện để họ bàn bạc chuyện

khác, quan trọng và cao cả hơn.
100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm
nguyên nhân mất nước không phải ở đâu khác mà là ở trong văn hoá, trong “những nhược
điểm cơ bản về văn hoá của xã hội Việt Nam”. Nhược điểm, thua kém so với ai? “So với
phương Tây”. Ông là người Việt Nam đầu
tiên nhận ra cuộc toàn cầu hoá thời bấy giờ,
cuộc toàn cầu hoá lần thứ nhất, trong đó Việt
Nam đã thua, vì vẫn sống như chưa hề có
thực tế thời đại to lớn đó. Thời đại đã thay
đổi. Đối thủ của chúng ta đã thay đổi. Phan
Châu Trinh đã tiến một bước rất xa trong
nhận thức về số phận dân tộc; ông không chỉ Phan Châu Trinh
đặt vấn đề độc lập dân tộc, ông đặt vấn đề (1872 – 1926)
phát triển dân tộc, ông cho rằng phải nhìn và
đặt vấn đề độc lập dân tộc trong toàn bộ vấn đề rộng xa hơn nhiều là phát triển dân tộc
trong một thời đại đã đổi khác một cách căn bản.
100 năm đã qua. Có phải vấn đề hôm nay là tiếp tục công cuộc “cách mạng tân văn
hoá”, như cách gọi của Hoàng Xuân Hãn, mà lịch sử, với tất cả sự thật khắc nghiệt của
nó, đã buộc chúng ta còn để dở dang từ ngày còn người ấy, “khuôn mặt sáng giá nhất của
Việt Nam” đầu thế kỷ XX đã khởi xướng, và chưa xong.
7
Đông Kinh Nghĩa Thục đã đề ra một chương trình đào tạo với nội dung phong phú,
“tìm đúng cái cần xây, cần chống ngay tại xứ sở quốc gia mình”.
Nội dung giảng dạy trong nhà trường trải trên hầu khắp các lĩnh vực từ khoa học
cơ bản đến các ngành đào tạo thực nghiệp.
Đặc biệt là vấn đề chấn hưng công nghiệp được đặt ra một cách bức thiết. Những
người làm nghề buôn bán lại trở lại một địa vị xứng đáng.
Ngày nay chúng ta đang tiến hành từng bước cải cách giáo dục, gắn việc học với
thực tiễn, đó chẳng phải là mục tiêu chính của mô hình thực nghiệp Đông Kinh đặt ra hay
sao? Đông Kinh Nghĩa Thục là một gợi mở, một bước đệm quan trọng, giáo dục Việt

Nam đã, đang và sẽ thực hiện những trăn trở của các sĩ phu từ trăm năm trước.
Trăm năm hàng Việt:
Tại Nam kỳ nổi lên cuộc vận động xã hội sôi nổi với tên gọi mới là Cuộc Minh
Tân. Hoạt động công khai của Cuộc Minh Tân là khuyến khích sự tự cường kinh tế của
người Việt với nhiều hoạt động sản xuất, kinh thương đến tài chính, dịch vụ…
Nền kinh tế trong tay ngoại bang: Đầu năm 1908, tờ Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) phát
hành số 1 (15.1.1908), chủ bút là Trần Nhật Thăng, một bút danh của ông Trần Chánh
Chiếu.
Cùng với việc nắm độc quyền thương nghiệp của người Hoa là sự đổ xô của người
Ấn đến Nam kỳ để nắm lấy độc quyền về việc cho vay bạc.
Ông Trần Chánh Chiếu là người nhìn thấu rõ hiện tượng này. Trong khi đó, Cuộc
Minh Tân muốn đạt được thành công phải có sự đồng lòng của toàn xã hội, mà nông dân
là lực lượng đông đảo nhứt. Và, cũng không thể tiến hành cuộc Minh Tân mà không có
nguồn vốn lớn. Ông Chiếu thường nói: “Phải có tàu lớn thì mới ra biển được”.
Gom góp lòng yêu nước
Để giải quyết điểm then chốt ông Chiếu đã đưa ra sáng kiến chưa từng có trước đó,
là huy động vốn. Ông đã bán hết toàn bộ điền sản của mình ở Rạch Giá và luôn là người
có tên góp vốn đầu tiên để thành lập các cơ sở công kỹ nghệ và thương mại trong cuộc
Minh Tân.
Ngoài việc kêu gọi góp vốn thành lập các cơ sở kinh doanh của người Việt, ông G.
Chiếu còn chủ trương thành lập ở Sài Gòn một tổ chức kinh doanh tài chính, dạng như
8
một ngân hàng tín dụng, gọi là Hãng cho vay Sài Gòn – Chợ Lớn: " lập một cái hãng
cho vay, mỗi phần hùn 5 đồng, Hãng cho vay bạc rẻ hơn người Ấn" (LTTV số 11).
Vài việc cụ thể:
Công ty nhà in: góp vốn 36.000 đồng.
Mỹ Tho Minh Tân túc mễ tổng cuộc: Được hình dung như là một tổng công ty
xuất khẩu lúa gạo.Ngày 12.3.1908 cho biết đã có 25 vị ra vốn đầu tiên với số tiền là
16.980 đồng, trong đó ông G.Chiếu góp 1.000 đồng.
Ước lập hoả thuyền: ông tri phủ Nguyễn Bá Phước ở Bạc Liêu kêu gọi phần hùn

mua hai chiếc tàu để chở hành khách Sài Gòn – Đại Ngãi – Bạc Liêu – Cà Mau theo
đường biển.
2. “Tập đoàn” kinh tế đầu tiên của người Việt
Trong những chủ trương phát triển công kỹ nghệ của ông Trần Chánh Chiếu thì
việc thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân công nghệ có thể được xem là táo bạo nhứt.
Liên tục trên các số báo Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) từ số 21, ra ngày 9.4.1908 đến
số 49, ra ngày 22.10.1908, luôn có những thông tin về kết quả vận động, tổ chức và bước
đầu đi vào hoạt động của công ty này.
Kinh doanh đa ngành
Có thể hình dung đây là một tập đoàn kinh tế theo hình thức góp vốn cổ phần, có
lĩnh vực hoạt động kinh doanh rộng lớn từ sản xuất, đào tạo nhân lực, đến thương mại,
xuất nhập khẩu…
Một khu phố buôn bán của Hoa kiều ở Chợ Lớn vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20
9
Trong điều lệ “rao theo luật buộc” (LTTV số 32) cho biết rõ mục đích của việc
thành lập:
“Khoản thứ nhứt – Những người có mặt tại đây và chư vị hùn sau, cùng nhau lập
một công ty đặng mà:
1. Lập lò nghệ tại Nam kỳ: lò chỉ (kéo sợi từ bông vải, tơ tằm – NV), lò dệt, lò
savon (xà phòng – NV), thuộc da và pha ly (thuỷ tinh – NV)…
2. Dạy con nít làm các nghề ấy.
Gilbert Chiếu làm tổng lý công ty.
Quán chánh công ty ở tại thành Mỹ Tho”.
LTTV số 39 lại thấy rao: “Tổng lý là G. Chiếu ra thông cáo cho biết ai có hùn vốn
thì có quyền gởi con đến học nghề, thời hạn học là bảy năm, công ty nuôi cơm nước còn
quần áo, mùng mền thì cha mẹ phải chịu. Công ty lo nhà ngủ, nhà ăn cho học trò, đứa
nào học giỏi sẽ được hưởng lương tháng, sau đó, khi biết nghề rồi phải giúp việc cho
công ty bảy năm”.
Việc khởi xướng cuộc vận động thành lập Nam Kỳ Minh Tân công nghệ bắt đầu từ

ngày tháng nào, vẫn chưa tìm thấy được. Nhưng bắt đầu từ số 21 trên LTTV đã thấy rao:
“Hễ cuối tháng thì sẽ có rao số chư vị có đóng bạc, còn số rao mỗi khi đó thì nay
không ghi nữa, vì đã khỉ (khởi – NV) sự thâu bạc. Phiến ngôn cửu đỉnh, nhứt nặc thiên
kim. Cúi xin bạn đồng bang phải giữ lời hứa, chớ khá giêng (diên – NV) trì mà hư việc
cả. Nay kính. Gilbert, Mỹ Tho”.
Lại thấy ghi thêm:
“Minh Tân Công Nghệ đã nhóm đại hội hôm ngày 31 Mai (tháng Năm – NV) này.
Nay đã nộp điều lệ cho Notaire cầu chứng, vài ngày nữa sẽ rao và in ra 3.000 cuốn phát
cho chư vị có hùn, trong chừng một tháng nữa sẽ khởi công khai trương”.
Như thế, cho đến thời điểm này đã có ít nhứt là 3.000 cổ đông, tất nhiên một cổ
đông có thể sở
hữu nhiều cổ
phần.
Người Việt Cũng
trong LTTV số
10
29, trang 5 còn đăng lời rao, ký tên G. Chiếu:“DẦU SẢ: Bên phương Tây hay mua sả cây
làm dầu, trộn với savon để làm savon thơm, còn xác còn lại lấy làm giấy. Trong Nam kỳ
ai có đất hoang nên trồng sả cho nhiều, chừng nửa năm nữa tôi sẽ rao mua nhiều lắm”.
Ngày 3.9.1908 công ty rao mua 100.000 trái dừa khô để làm xà bông.
Trong Nam Kỳ Minh Tân công nghệ cuộc Ga tàu lửa từ Chợ Lớn đi Sài
Gòn ở những năm đầu thế kỷ 20
còn có cơ sở bào
chế Đông Nam dược, làm ra các loại thuốc ta dạng tán, dạng nước, dạng viên, ngâm
rượu… Trong lời rao có đoạn:
3. Tranh thương
Nam Kỳ những năm đầu thế kỷ 20, việc kinh doanh buôn bán phần lớn nằm trong
tay người Hoa ở Chợ Lớn. Sự độc quyền thương nghiệp của người Hoa đã đem về cho họ
món lợi to lớn.
Do đó trong các chủ trương về cuộc Minh Tân, Trần Chánh Chiếu đặc biệt khuyến

khích người Việt tích cực tham gia vào công cuộc buôn bán.
Hùn vốn mở công ty
Như một thứ quảng cáo miễn phí. Cũng với phương thức chủ yếu là kêu gọi vốn
cổ phần để thành lập các tiệm buôn ở các chợ đầu mối, các trung tâm dân cư. Hai ngành
kinh doanh được quan tâm hàng đầu đó là lúa gạo và bách hoá, cả xuất và nhập khẩu. Và
đây là một trong những chủ trương Minh Tân đem lại kết quả cụ thể hơn cả. Theo tài liệu
mà chúng tôi có được, đã có hơn chục cơ sở kinh doanh lớn của người Việt ra đời khắp
Nam kỳ, từ Biên Hoà, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Gạo, Sa Đéc, Rạch Giá
Tạo nguồn nhân lực mới
Để chuẩn bị nhân lực dài lâu cho cuộc Minh Tân, ông Trần Chánh Chiếu cùng
những đồng sự của ông đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo thế hệ kế tục. Ở hoạt động
này, một mặt ông công khai hô hào khuyến học, mở mang trường lớp, khuyến khích dạy
nghề thông qua tờ LTTV, mặt khác ông bí mật vận động tổ chức để đưa con em người
Việt ra du học nước ngoài nhằm mưu sự lâu dài.
Cùng với Nam Kỳ Minh Tân công nghệ, vừa mở xưởng sản xuất kết hợp việc đào
tạo dạy nghề, ta còn thấy trong các hoạt động của phong trào Minh Tân có nhiều hình
11
thức tương trợ: “Bổn quán tính mướn thầy chiều chiều từ 7 giờ đến 10 giờ dạy cách làm
sổ sách buôn bán tại Nam Trung khách sạn. Học phí phải đóng trước là 4 đồng mỗi
tháng, ai muốn học thì ghi tên”. (LTTV số 19).
Còn đây là những lời nhắn gởi đến các quan lại người Việt vừa được chánh quyền
thực dân bổ nhiệm: “Xin các quan dạy các làng phải lo lập mỗi làng một trường học, dạy
dân con trai, con gái biết chữ, biết lễ nghi (…); lập các cuộc cấp cứu thuỷ, hoả đạo tặc;
kêu An Nam thức dậy tranh quyền lợi, giục nhà giàu hùn hiệp buôn bán lúa gạo, mua tàu
đưa khách và các việc khác
2. Đạo đức kinh doanh này nay
Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời
thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm lời
bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc lột người lao
động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ quan chức

năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi công đoàn và
chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường được doanh
nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua nhiều phương tiện
hiện đại mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết thì cũng đã muộn vì đã
lỡ mất tiền, không thể đòi lại được.
Nếu như chuyện lừa dối trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục
vụ tiêu dùng đáng bị lên án thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng
là điều không thể chấp nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về
quản lý, trong đó có chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời của đạo đức
kinh doanh. Lẽ đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác
làm văn hóa doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho
mình văn hóa trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh
hẳn sẽ được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều
người vẫn tưởng.
Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường: Theo cơ chế cạnh tranh của thị
trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng tiêu dùng nhanh, hàng điện máy,
12
ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,… các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh
tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau.
Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt
gần gấp 3 lần giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi
Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng
cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến 10
lần so với giá của các công ty của Việt Nam.
Tuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so với
phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các phân
khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách hàng dùng
thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu như không tạo ra
sự khác biệt.
Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản

phẩm và các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ hơn
tại thị trường tiêu thụ nhiều lần.
Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của sản
phẩm hay của dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để được sử
dụng thương hiệu mà họ yêu thích?
Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh?
Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm, hay
của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng mang
lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi phí kinh doanh sẽ giám
xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp 3 lần chai bia Sài
Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại sao một đôi giày thể
thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới 15 Đô-la Mỹ lại có giá
bán gần 200 Đô-la Mỹ?
Trong bài viết này, sau khi nói về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tác giả tập trung luận giải vấn đề xây
dựng xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường. Theo tác giả trách nhiệm xã hội ở Việt Nam đã được nhận
13
thức và bước đầu được thực hiện và đó chính là cơ sở để chúng ta tin rằng, cùng với quá
trình phát triển đất nước, trách nhiệm đó sẽ được đề cao cùng với sự hoàn thiện của
khung pháp luật, bộ máy nhà nước, thể chế kinh tế thị trường và các thể chế của xã hội
dân sự.
a. Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp
Hội thảo của chúng ta diễn ra trong khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ngày
càng lan rộng và trở nên nghiêm trọng hơn. Nhân loại đang đứng trước những nguy cơ
lớn về khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, trái đất ấm lên do hiệu ứng khí
thải. Tất cả các hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về trách
nhiệm xã hội của chính phủ, của doanh nghiệp, của người dân và xã hội dân sự. Cuộc
khủng hoảng toàn cầu khởi đầu từ nước Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra các nước khác

trên thế giới, từ khủng hoảng tài chính - tiền tệ lan sang khủng hoảng “nền kinh tế thực”
(real economy), dẫn đến khủng hoảng việc làm và khủng hoảng xã hội. Ở một số nước đã
và sẽ diễn ra khủng hoảng chính trị như ở Băng Đảo (iceland). Câu hỏi được đặt ra là, hệ
thống kinh tế thị trường hiện nay với các biến thể của nó từ kinh tế thị trường tân tự do
(Neoliberalism) ở Hoa Kỳ đến nền kinh tế thị trường xã hội (Social market economy) như
ở Đức, nền kinh tế phúc lợi xã hội (wealthfare economy) như ở Bắc Âu, trách nhiệm của
nhà nước, trách nhiệm của thị trường và doanh nhân, trách nhiệm và quyền giám sát của
người dân có những thiếu sót gì để dẫn đến một thảm hoạ như vậy. Mới đây, vụ sữa
nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc (San Lu) ở Trung Quốc đã gây ra biết bao đau
khổ cho các gia đình, trẻ nhỏ thì trách nhiệm của nhà nước, của doanh nghiệp như thế
nào. Trách nhiệm (responsibility) là một khái niệm rất rộng và được nhiều khoa học cùng
nghiên cứu. Luật học xác định các khái niệm trách nhiệm khác nhau, như trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kinh tế trách nhiệm tài
chính và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, v.v., kèm theo đó là những quy định
chặt chẽ về trách nhiệm bồi thường, các mức phạt cao thấp khác nhau nếu vi phạm.
Xã hội học coi trách nhiệm xã hội như một sự cam kết về tinh thần, đạo đức, văn
hoá đối với gia đình, cộng đồng địa phương và toàn xã hội, nhân viên, môi trường. Trong
nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân và doanh nghiệp đều hành xử sao cho có lợi nhất cho
14
mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Kinh tế thị trường được mô tả trong Tư bản
của C.Mác không có trách nhiệm xã hội, ở đó người ta thấy người chủ tư bản được mô tả
là một kẻ bóc lột tàn bạo, mù quáng, mất nhân tính, vô văn hoá đến kiệt sức người lao
động nhằm tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn. Sự mô tả chính xác đó đã giúp kinh tế thị
trường tự hoàn thiện trong quá trình đấu tranh của nhân dân cùng với tiến bộ trong nhận
thức của khoa học kinh tế. (Chẳng hạn như kinh tế học về thông tin đã chỉ rõ bản chất của
sự lừa đảo là bất đối xứng thông tin, giải pháp là công khai, minh bạch, giám sát nhằm
giảm bớt sự bất đối xứng thông tin đó chứ không phải gán ghép lừa đảo như một bản chất
của kinh tế thị trường). Kinh tế kế hoạch hoá tập trung dưới chế độ toàn trị một đảng đã
không đem lại giải pháp thực chất và bền vững cho tăng trưởng, không đem lại hệ thống
động lực cho người lao động, không phát huy sức sáng tạo, sáng kiến của mỗi một cá

nhân, nên nó đã không vượt qua được thử thách của lịch sử. Trong một chế độ như vậy,
khái niệm trách nhiệm xã hội chỉ thuộc về những người có quyền quyết định, người dân
chỉ biết tuân thủ các quy định và được thụ hưởng trong phần họ được cho phép. Các hiện
tượng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường, ém nhẹm các tai hoạ là những ví dụ về
thiếu trách nhiệm xã hội trong quá trình quyết định và điều hành nền kinh tế theo mô hình
này. Kinh tế thị trường ngày nay đã hình thành một hệ thống các quy định pháp luật chi
tiết nhằm chế định hành vi của các bên tham gia và bảo vệ lợi ích của cộng đồng, của xã
hội. Các quy định đó đã giảm bớt đáng kể những hành vi vô trách nhiệm một cách thái
quá của những người có quyền lực trong hệ thống chính trị và doanh nghiệp. Chính trị gia
không được lòng dân sẽ bị hệ thống bầu cử dân chủ thay thế (như việc bầu cử tổng thống
Obama thay thế tổng thống Bush vừa qua). Doanh nhân hành xử tư lợi, thiếu hiệu quả,
thiếu trách nhiệm sẽ bị thay thế khi doanh nghiệp thua lỗ hay phá sản.
Song, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã cho thấy mô hình hiện thời của kinh
tế thị trường và vai trò của nhà nước không những không hoàn hảo mà còn có những
khiếm khuyết nghiêm trọng, rất cần được phát hiện và chỉnh sửa. Việc đóng gói
(packaging) những món nợ hay thế chấp (debt and mortgages) thành những sản phẩm
phái sinh điên loạn (derivates) đem bán trên thị trường chứng khoán, việc nới lỏng trần tín
dụng để đẩy việc xây nhà và tiêu dùng lên cao, việc đồng loã giữa các công ty đánh giá và
xếp hạng (rating company) với ngân hàng được xếp hạng (như Lehman Brothers), che
15
dấu và lừa dối khách hàng, việc cho phép lòng tham vô hạn độ của những người điều
hành hệ thống tài chính ngân hàng hoành hành, v. v. đều cần phải điều chỉnh và xem xét
trách nhiệm của từng bên tham gia và có quy định pháp luật chặt chẽ để khắc phục.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility CSR) có
thể được định nghĩa ngắn gọn như một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với
lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng, nhà cung
ứng, nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Theo đó, trách nhiệm xã hội được coi là
một phạm trù của đạo đức kinh doanh (Business Ethics), có liên quan đến mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Ở thế kỷ thứ XXI, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, khi ý
thức của loài người về các nguy cơ đối với môi trường sống ngày càng cao thì các đòi hỏi

về trách nhiệm xã hội cũng ngày càng tăng lên, như đòi hỏi phải kiểm soát khí thải của xe
hơi lưu hành trên đường phố, kiểm soát mức độ khói bụi trong các khu dân cư, v.v Như
vậy, có thể thấy, ít nhất đã có bốn nhóm đối tượng mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm
trong ứng xử đối với các đối tượng sau đây:
- Thị trường và người tiêu dùng, bao gồm cả nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung ứng
và hợp tác; người lao động; cộng đồng trong khu vực và trong xã hội trong nước và thế
giới (như vụ sữa nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc ở Trung Quốc);môi trường
sống.
Đối với thị trường và người tiêu dùng, doanh nghiệp phải bảo đảm chữ “tín”, bảo
đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thực hiện đúng các tiêu chuẩn chất lượng của sản
phẩm, dịch vụ, thực hiện các cam kết dịch vụ sau khi bán như đã bảo đảm với khách
hàng, không quảng cáo quá sự thật. Pháp luật không thể quy định và tiết chế tất cả các
hoạt động của doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp phải bảo đảm thương hiệu của mình
bằng cách duy trì chất lượng, tính ổn định của chất lượng sản phẩm, dịch vụ không vượt
ra khỏi các quy định của pháp luật. Trong kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ không chỉ
với khách hàng, mà còn quan hệ với các nhà đầu tư ngân hàng, nhà cung ứng các sản
phẩm, dịch vụ trợ giúp, các viện khoa học, trường đại học thực hiện các dịch vụ nghiên
cứu, giảng dạy, thiết kế, v.v Trong tất cả các mối quan hệ đó, doanh nghiệp không chỉ
thực hiện đúng các cam kết theo Luật Dân sự, Luật Hợp đồng, mà còn phải từ bỏ tham
vọng làm “giàu nhanh” một cách bất chính bằng cách lừa đảo khách hàng và đối tác. Việc
16
làm giàu của doanh nghiệp không những phải phù hợp với pháp luật, mà còn phải bảo
đảm và tôn trọng lợi ích chính đáng và hợp pháp của khách hàng và đối tác. Như vậy,
cách làm giàu “chụp dật” là hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm xã hội. Không thể chỉ trông
đợi vào sự tự nguyện hay kêu gọi đạo đức, luật pháp, người tiêu dùng, xã hội phải phát
hiện, ngăn chặn và trừng phạt các hành động gian trá, lừa đảo, đồng thời khuyến khích,
ủng hộ các doanh nghiệp làm ăn chính đáng.
Đối với người lao động, doanh nghiệp phải coi người lao động là tài sản lớn nhất
của mình, chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, bảo đảm cho
người lao động không chỉ tái sản xuất sức lao động, mà còn được nâng cao trình độ

chuyên môn, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Về phía người lao động cũng phải tôn
trọng các cam kết trong hợp đồng lao động, làm việc tại doanh nghiệp phù hợp với những
cam kết khi được bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Luật pháp phải bảo đảm sự cân bằng lợi
ích giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa hai bên phải thường xuyên trao
đổi thông tin để thông cảm lẫn nhau, tránh sự hiểu lầm không cần thiết hay sự ưu đãi thái
quá cho một bên.
Doanh nghiệp cũng cần phải tôn trọng và bảo vệ môi trường vì lợi ích của các thế
hệ mai sau. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều tiêu chuẩn, định mức quy định chế độ
hạch toán xã hội (social accounting), kiểm toán xã hội (social auditing) và báo cáo cho xã
hội (social reporting) biết kết quả thực hiện. Hiện nay, các nước nhập khẩu đã đòi hỏi
doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam phải tuân thủ hàng loạt
quy định (guidelines) hay tiêu chuẩn (standards), như SA 8000, AA1000, ISO 14000,
v.v Vì lợi ích kinh doanh, doanh nghiệp phải bảo đảm sự tuân thủ các quy định được đòi
hỏi để có thể tiếp tục duy trì quan hệ kinh doanh.
Vấn đề ở đây là có thể trông cậy đến đâu vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, nếu
thiếu khung pháp luật, thiếu chế tài và sự giám sát cần thiết của xã hội dân sự và công
chúng. Kinh nghiệm cho thấy, mãnh lực của lợi nhuận có thể làm cho doanh nhân trở nên
mù quáng, vô trách nhiệm bằng cách che dấu các hành vi phạm pháp của mình và sự tự
nguyện của doanh nghiệp là rất mỏng manh. Ngay cả sau khi phải cầu cứu chính phủ trợ
giúp bằng tiền đóng thuế của người dân, họ vẫn chia nhau cả 18 tỷ USD tiền thưởng
(CNN, ngày 30.1.2009) làm cho tổng thống Obama phải thốt lên là “đáng hổ thẹn”; song
17
vấn đề không phải là quở mắng, mà là làm cho họ có trách nhiệm hơn và ngăn chặn
những hành vi như vậy trong tương lai. Như vậy, có thể thấy vai trò then chốt của hệ
thống luật pháp, các tiêu chuẩn về đạo đức được quy định thành tiêu chuẩn pháp luật để
thực hiện trách nhiệm xã hội của cá nhân và doanh nghiệp nhằm chế ngự lòng tham và
kiểm soát các hành vi làm giàu vô đạo đức, gây nguy hại cho cộng đồng.
Bên cạnh vai trò của nhà nước, rõ ràng là cần phải có vai trò bổ sung của xã hội
dân sự nhằm phát huy các mặt tích cực của nhà nước, đồng thời bổ sung cho nhà nước,
giám sát và hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của nhà nước.

b. Kinh tế thị trường, xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội ở Việt Nam
Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong đó nhà nước có vai
trò tuyệt đối trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, sang kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang từng bước hình thành các tổ chức của xã hội dân sự.
Các tổ chức xã hội đông đảo của Việt Nam được hình thành và có thói quen hoạt động
theo mô hình kinh tế chỉ huy trước đây đang từng bước thay đổi để hoạt động có hiệu quả
hơn trong kinh tế thị trường. Các tổ chức đó đang từng bước chuyển sang cách hoạt động
tự chịu trách nhiệm, phản ứng kịp thời trước các biến động của kinh tế thị trường, như ô
nhiễm môi trường, đình công, v.v Hiện nay, Việt Nam chưa có Luật về các hội, khái
niệm xã hội dân sự chưa được chính thức chấp nhận, các cơ quan nhà nước đang đảm
nhận một khối lượng ngày càng lớn các công việc và bị quá tải. Bộ máy nhà nước ngày
càng được mở rộng hơn; mặc dù đã có sự kêu gọi giảm biên chế, nhưng cấp xã hiện nay
vẫn được giao (theo thống kê chưa đầy đủ) đến 320 việc (từ cấm đốt pháo đến hạn chế
sinh con thứ ba, xoá đói giảm nghèo, đăng ký hộ khẩu đến chuẩn bị hồ sơ để trình cấp
huyện cấp sổ đỏ sở hữu đất đai, v.v.) với bộ máy đầy đủ lên đến hơn 100 người. Bộ máy
nhà nước không thể thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, như bảo đảm chất lượng an toàn
thực phẩm, chất lượng dịch vụ massage, cắt tóc, v.v
Hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu rộng, từ Hiến
pháp đến hệ thống luật, nghị định song còn thiếu đồng bộ, giữa các luật được chuẩn bị bởi
các Bộ khác nhau, được ban hành vào những thời điểm khác nhau còn không ít chồng
18
chéo, mâu thuẫn với nhau. Việc thực thi luật pháp còn có nhiều vấn đề phải đổi mới,
khoảng cách giữa luật trên văn bản và luật trong thực tế còn lớn.
Do cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý còn chưa được thể chế hoá đầy đủ và
cụ thể, cơ quan đảng có quyền quyết định cao nhất, trong khi Nhà nước, cụ thể là Chính
phủ chịu trách nhiệm trước pháp luật và Quốc hội về việc tổ chức thực hiện làm cho quá
trình quyết định và tổ chức thực hiện khá phức tạp, như sơ đồ sau đây cho thấy.
Hệ quả là hiệu lực của pháp luật chưa cao, trách nhiệm của doanh nghiệp trong
thực thi pháp luật chưa cao. Đã xuất hiện nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận, như vụ
công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải nhưng không được xử lý nghiêm minh; có tới

bốn Bộ chịu trách nhiệm về chất lượng thực phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế), nhưng trách nhiệm chưa rõ
ràng và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều thiếu sót kéo dài.
Về các doanh nghiệp tham gia thị trường, bên cạnh khoảng 350.000 doanh nghiệp
có đăng ký có đến 3 triệu hộ kinh doanh gia đình, 5 triệu hộ nông dân có quy mô rất nhỏ.
Nhiều doanh nghiệp chưa có thương hiệu, chưa đăng ký chất lượng sản phẩm, số nông
sản được sản xuất theo quy trình hiện đại (GAP Good Agricultural Practice), có đăng ký
nhãn hiệu vùng sản xuất, như thanh long, xoài, cà phê, bưởi, v. v. tuy đã tăng lên nhiều,
nhưng vẫn còn ít so với tổng sản lượng các sản phẩm gieo trồng và chăn nuôi. Việc các
doanh nghiệp lớn như Metro đã ký kết hợp đồng và hướng dẫn sản xuất, thu mua nhiều
mặt hàng nông sản bảo đảm chất lượng đã đem lại nhiều tiến bộ trong cung ứng nông sản,
kể cả cho xuất khẩu. Trình độ hiểu biết về pháp luật và tuân thủ pháp luật của doanh
nghiệp nhỏ còn nhiều hạn chế, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp lớn đã được đề cao
và có nhiều tiến bộ, song tại các doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình và hộ nông dân, việc
tuân thủ luật lao động, các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhều hạn chế.
Các doanh nghiệp lớn, có thương hiệu, có nhãn hiệu đăng ký, hoạt động trên lĩnh
vực xuất khẩu đạt trình độ về trách nhiệm xã hội được các nhà nhập khẩu chấp nhận
được. Các doanh nghiệp này thực hiện đầy đủ nghiêm túc các tiêu chuẩn SA 8000, ISPO
14000, bảo đảm trình độ vệ sinh và an toàn thực phẩm tốt. Các doanh nghiệp này đã có
chiến lược dài hạn để thực hiện ngày càng đầy đủ hơn trách nhiệm xã hội cả về bảo vệ
môi trường, hạn chế lượng khí thải v.v Một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam là các
19
doanh nghiệp tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, như giúp đỡ nạn nhân của bão
lụt, thiên tai hay tai nạn, đóng góp vào Quỹ xoá đói giảm nghèo của các tổ chức quần
chúng khác nhau. Bên cạnh mặt tích cực của sự đóng góp, do thiếu quy định pháp luật
chặt chẽ về việc khấu trừ số tiền đóng góp vào chi phí trước thuế, v.v., nên còn có không
ít ý kiến khác nhau về động cơ lành mạnh của sự đóng góp này và liệu có thể đồng nhất
sự đóng góp với trách nhiệm xã hội hay không. Bên cạnh ý kiến hoan nghênh, có không ít
ý kiến cho rằng, một số doanh nghiệp có động cơ “đánh bóng hình ảnh” và có mục đích
vụ lợi.

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khung pháp luật và hướng dẫn về việc các doanh
nghiệp phải có báo cáo về hạch toán xã hội, kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội để cộng
đồng biết và giám sát.
Về luật pháp chế định các thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam đã ban hành luật
Cạnh tranh, nhưng chưa có Luật Kiểm soát độc quyền và việc thực hiện Luật Cạnh tranh
còn có nhiều hạn chế. Các luật pháp về kế toán, kiểm toán, các chuẩn mực đã được ban
hành, nhưng việc thực hiện trong thực tế còn nhiều hạn chế. Việt Nam đang chuẩn bị Luật
về Quyền tiếp cận thông tin, song chưa có luật về Hiệp hội và chưa chuẩn bị Luật về Vận
động hành lanh. Thông tin kinh tế còn nhiều hạn chế, nhiều số liệu chưa được công bố
công khai và kịp thời. Các hoạt động giám sát đối với ngân hàng, thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản còn sơ khai và cần được nhanh chóng hoàn thiện.
Các tổ chức thuộc xã hội dân sự Việt Nam đã được hình thành và hoạt động, có
đóng góp thiết thực, như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội
ngành nghề, như Dệt may, Xuất khẩu Thuỷ sản, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính, v. v…
Nhiều tổ chức đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn, vận động thực hiện các tiêu chuẩn và quy
định của trách nhiệm xã hội, nhất là đối với người lao động và người tiêu dùng. Song, do
thiếu cơ sở pháp lý cần thiết, nên sự đóng góp đó còn hạn chế. Bản thân các hiệp hội đó
còn cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả thiết thực đối với hội viên.
Tóm lại, trách nhiệm xã hội ở Việt Nam đã được nhận thức và bước đầu được thực
hiện. Chắc chắn rằng, cùng với quá trình phát triển của đất nước, trách nhiệm đó sẽ được
đề cao hơn cùng với sự hoàn thiện của khung pháp luật, bộ máy nhà nước, thể chế kinh tế
thị trường và các thể chế của xã hội dân sự
20
3. Nhìn chung về đạo đức kinh doanh xưa và nay
Trong giới sử học, ông thuộc số ít viết sử kinh tế. Người như ông, GS Đặng Phong
- tác giả của hàng chục ngàn trang sử kinh tế VN, còn ít hơn nữa. Ông bảo: “Nền kinh tế
miền Nam trước 1975 phồn vinh thật nhưng giả tạo ở chỗ nó không tự nuôi nổi nó”. Báo
Người Đô Thị xin giới thiệu cùng bạn đọc bài phỏng vấn GS Đặng Phong, thuộc ĐH
Kinh tế Quốc dân Hà Nội trong chuyên đề “Sài Gòn-TPHCM năm thứ 33: Nhận định bản
sắc, phát triển tiềm năng”

Ông mời tôi ăn cơm trưa: "Có cá diếc kho tương và rau muống học trò vừa mang
đến. Đừng ra quán, tôi mà thấy “chúng nó” hét dzô, dzô không nuốt nổi". Ăn lối nhà
quê, nhưng ông hút xì gà và có cả một bộ sưu tập tẩu Tây sang trọng.
Người ta sợ tôi bị “mua”
Thưa, ông học kinh tế trong nước, sao lại qua Pháp giảng dạy?
- GS Đặng Phong: Tôi học ĐH Kinh tế Quốc dân ở Hà Nội, rồi làm tổng biên tập
tờ Vật giá của Ủy ban Vật giá Trung ương. Đến 1988, cao trào thời kỳ đổi mới, Tổ chức
Lương Nông Liên Hiệp quốc (FAO) dành cho VN 2 suất học bổng Học viện Nông nghiệp
Địa Trung Hải (TP Montpellier – Pháp). Trường này nổi tiếng, các tiền bối GS Nguyễn
Mạnh Tường, GS Phạm Huy Thông, GS Đỗ Đình Thiện ở đó ra. Tôi cũng bất ngờ vì họ
chọn mình, luận văn kết thúc khóa học của tôi là: “Chế độ thu mua thóc ở VN”, được
đánh giá tốt, có lẽ vì thế ông thứ trưởng Bộ Giáo dục Pháp mời tôi ở lại giảng ở trường
ĐH Paris VII.
Nghe nói ông từng bị “đả đảo” ở Mỹ?
- Việc tôi du học Pháp, được họ giữ lại giảng dạy là “chuyện động trời” đối với
một trí thức xã hội chủ nghĩa. Thêm chuyện trường ĐH Irvine (bang California - Mỹ) mời
tôi từ Pháp qua luôn với họ, dư luận xôn xao rằng tôi đã “bị phương Tây mua rồi”. Ngại
bị hiểu lầm, nên sau khi trao đổi thẳng thắn với một cán bộ đại sứ quán ta ở Pháp, tôi
quyết định trở về nước. Rồi từ VN tôi mới qua Mỹ vào năm 1991.
Buổi giảng đầu tiên tại Irvine “Thực trạng kinh tế VN” khá ồn ào vì bị một số Việt
kiều biểu tình “đả đảo”, đòi “Đặng Phong hãy nói về nhân quyền!” Họ đòi bằng được
phải có đại diện vào giảng đường chất vấn. Tôi đồng ý, có ba người xấn vào nóng nảy lên
án tình trạng tham nhũng ở VN và chính quyền tham quyền cố vị. Về tham những, tôi nói
21
đúng có tham nhũng - nhưng chính quyền Sài Gòn trước kia tham nhũng gấp 10 lần cơ.
Tôi làm sử kinh tế, có đầy đủ số liệu chứng minh, họ chịu. Còn tham quyền cố vị, thì
chính quyền Thiệu, Kỳ không hề muốn xuống ghế. Vì bản chất người cầm quyền có ai
chịu tự nguyện rời chức vụ đâu? Tôi cũng chỉ là một công dân, có nguyện vọng chính
quyền không nên tham quyền, và được bày tỏ nguyện vọng đó như mọi công dân khác.
Sau này trở thành bạn bè, thỉnh thoảng qua Mỹ tôi lại gặp họ trò chuyện. Tôi có

một kinh nghiệm rằng đừng nổi nóng, đừng vội quy kết ta-địch, mình có sai lầm thì thừa
nhận, sửa chữa - sự tử tế là cách thuyết phục nhau tốt nhất.
Nhặt tiền lẻ xây được nhà lầu?
Năm 1975 ở R về Sài Gòn, khá “choáng váng” trước cảnh phồn vinh của đô thị
này, tôi được nghe giải thích sự phồn vinh ấy chỉ là giả tạo?
- Phồn vinh là thật đấy! Miền Nam VN dân số trước 1975 chừng 17 triệu, trừ số
dân thuộc vùng giải phóng, còn khoảng 8 triệu người. Sở dĩ họ giàu là nhờ nguồn viện trợ
khổng lồ của Mỹ bằng 4 con đường chính.
Thứ nhất, bình quân mỗi năm Mỹ đổ vào Nam VN 1 tỉ USD. Con số đó không
thấm tháp gì so với vốn nước ngoài bây giờ đầu tư vào VN – nhưng xin nhớ dân số VN
nay khoảng 84 triệu. 1 tỉ USD chia bình quân cho 8 triệu người, vẫn là lớn. 1 tỉ USD trút
vào nuôi bộ máy Nhà nước, binh lính - thu nhập của họ rất cao. Cấp thiếu úy được nhà
riêng (gia binh), một tổng trưởng (bộ trưởng) lương trị giá 10 cây vàng/tháng.
Thứ hai, chi phí chiến tranh (nằm ngoài 1 tỉ USD viện trợ - có thời kỳ lên đến 28 tỉ
USD/năm, như các năm 1967, 1968). Mỹ quản lý nhưng vẫn rơi vãi vô khối ra dân sự.
Riêng vỏ đạn cũng đủ tạo ra 7 nhà máy đồng, xác chiến xa và các loại vũ khí là đầu vào
của các nhà máy cán thép, dù miền Nam làm gì có mỏ sắt. Chi phí quân sự đã trở thành
kinh tế dân sự.
Thứ ba, cũng nằm ngoài 1 tỉ USD viện trợ - là sức chi tiêu tại chỗ của nửa triệu
binh lính Mỹ, bình quân 1 người 800 USD/tháng. Khoản tiền khổng lồ này tạo ra vô khối
ngành dịch vụ và thu nhập cho người dân. Câu “nhất Mỹ, nhì lô, tam cô, tứ tướng” là vậy.
Tôi quen một chủ tiệm giặt là từng nhận thầu giặt đồ cho lính Mỹ. Anh ta bảo chỉ nhặt
tiền lẻ trong đống quần áo, gom lại trong 1 năm xây được nhà 4 tầng lầu và anh ấy có đến
dăm cái tiệm như thế ở các quận Sài Gòn.
22
Thứ tư, ngoài 1 tỉ USD tiền còn các khoản viện trợ thường xuyên bằng hàng hoá
do người Mỹ chỉ định mua từ nước nào, hãng nào, loại hàng gì, theo giá nào để giải
quyết cán cân thương mại giữa Mỹ và các nước đồng minh. Cách làm này tạo ra vô số
nhà máy đường, nhà máy dệt v.v không trồng mía, bông – nhưng nhập nguyên liệu từ
Indonesia, Malaysia, Nhật Bản để sản xuất.

Có thể nói chiến tranh là bầu sữa quan trọng nhất của nền kinh tế Nam VN trước
năm 1975. Nó tạo ra cuộc sống phồn vinh thật ở các đô thị miền Nam (vùng nông thôn rất
nghèo khổ). Nhưng đó là nền kinh tế không nuôi nổi nó.
Bộ máy kinh tế giỏi: Không nuôi nổi nó, cần gì một bộ máy vận hành kinh tế
giỏi?
- Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và
người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao
nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm
chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm , Ngô Đình Diệm là ông quan của triều đại phong kiến.
Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh.
Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng ) và các chuyên gia hàng
đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối
lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ
thống thuế, bảo hiểm trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc, các công cụ
tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện
đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.
Theo ông, có thể kế thừa công nghệ quản lý nền kinh tế đó?
- Rất tiếc chúng ta xóa bỏ bộ máy điều hành kinh tế miền Nam nhanh quá. Tới Đại
hội Đảng VI đã ghi nhận sai lầm do chủ quan, nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhiều chuyên gia kinh tế đã ra đi
Nhưng bây giờ chúng ta lại có nhiều doanh nhân làm kinh tế giỏi?
- Marx nói “Giai cấp tư sản đã tạo ra sự phát triển trong 100 - 200 năm bằng tất
cả lịch sử của nhân loại”. Tức là tư sản tạo ra sự tăng trưởng. Trước kia ta đánh tư sản
mại bản (xuất nhập khẩu hàng hóa), giờ ta khuyến khích xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ và
nhập máy móc của họ. So với mại bản trước 1975, thì mại bản bây giờ (trong công
23
nghiệp, tài chính, hàng không) quy mô lớn hơn nhiều. Sự tăng trường ấy tốt về số lượng,
nhưng quản lý tồi.
Chúng ta đánh đổ giai cấp tư sản cũ, nhưng phải xây dựng được tầng lớp hữu sản
mới. Sự ra đời của tầng lớp này là cần thiết, chứ với chỉ “lực lượng lao động hợp tác xã”

thì chết. Nhưng đó phải là một tầng lớp hữu sản có văn hóa và có lương tâm. Con đường
ra đời giai cấp này trên thế giới khác ta- bằng cách cướp bóc thuộc địa, gây chiến tranh. Ở
ta, ra đời bằng cách đánh đổ giai cấp tư sản cũ - nằm trong diễn biến chung của các nước
xã hội chủ nghĩa.
Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn,
chụp giật hơn, lưu manh hơn
Nhưng chính quyền Sài Gòn trước 1975 tham nhũng ghê gớm?
- Đó là một trong các nguyên nhân lớn của sự sụp đổ. Quân đội thì nhận hàng của
Mỹ, tuồn ra ngoài, lợi dụng chiến tranh nhiều rủi ro không kiểm soát nổi. Chính quyền
dân sự thì ăn vào các dự án, bệnh viện Vì Dân (Thống Nhất bây giờ), sân bay Tân Sơn
Nhất là vài ví dụ. Tướng tá, quan chức thầu công trình, đường sá rồi bán thầu cho Hoa
kiều. Tướng Đồng Văn Khuyên thầu hết các bãi rác quanh các căn cứ quân sự (tivi,
honda, tủ lạnh cũ ) chuyển thành hàng secondhand cho dân Sài Gòn v.v Tất nhiên sự
tham nhũng ấy có lợi cho ta. Nhờ thế ta mua được xăng, gạo, thuốc men, vũ khí Đó một
nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.
Làng Yên Phụ cổ của ông giờ nằm kẹp giữa hai con đường đang mở. Đô thị hóa
đến tận nhà rồi, miếng đất 150m² này đã đưa ông thành người hữu sản?
Năm 1975 dọn từ phố ra làng, tôi mua nó giá 1,5 cây vàng. Bây giờ 7 cây vàng/m
2
,
tài sản của tôi tăng 1.000 lần, mà không cần làm gì. Chiếm hữu thật nhiều đất đai là cũng
là con đường "nâng giai cấp" của người Việt hiện nay đấy, anh bạn.
Hơn và kém xưa: Tròn 33 năm giải phóng miền Nam, GS Đặng Phong nhận xét
về đời sống người dân đô thị miền Nam trước 1975 và ngày nay:
- Mức sống vật chất bây giờ rõ ràng là cao hơn trước đây rất nhiều. Thu nhập, tiện
nghi, nhà cửa, phương tiện đi lại, mức ăn, mặc đều vượt xa Sài Gòn trước đây, nếu nhìn
trên bình diện chung của toàn xã hội. Riêng một số tầng lớp trên - thì ngày xưa giới
thượng lưu giàu có không nhiều và cũng không giàu như những triệu phú đô la ngày nay.
24
- Về mức an toàn của cuộc sống thì trước đây rất kém, vì có chiến tranh. Nhà nào

cũng có người đi lính, nếu muốn tránh đi lính thì phải trốn, phải chạy vạy, đút tiền. Cái
chết đe dọa, rình rập tất cả các gia đình ở thành thị. Xe của cảnh binh có khi chặn ngay ở
các cửa trường để bắt lính. Đến năm 1975 thì hầu như nhà nào cũng có bàn thờ một hay
hai đứa con chết trận. Còn bây giờ đã có hòa bình, người ta không sợ đi bộ đội, thậm chí
người ta còn chạy vạy để được đi bộ đội, để học các trường sĩ quan. Vào quân đội bây giờ
không bị cái chết đe dọa mà lại được đảm bảo cuộc sống, vị trí xã hội. Trong đời sống
hiện nay cũng có nhiều khía cạnh không an toàn như những vụ trấn lột, chém giết, cướp
bóc Nhưng đó chỉ là những hiện tượng cá biệt, đột xuất. Cuộc sống hằng ngày của
người dân nói chung rất an toàn. Thậm chí có thể nói cuộc sống ở VN là một trong những
nơi an toàn nhất thế giới. Không có khủng bố, không có phe này phái kia đánh nhau,
trừng trị nhau, không có lật đổ, không có bạo loạn Mọi người được yên ổn làm ăn.
- Cuộc sống văn hóa và tinh thần thì có thể nói thời trước có hai mặt của nó. Một
mặt là sự hiện diện của quân đội Mỹ và quân đội đồng minh để lại những ảnh hưởng rất
xấu trong xã hội. Đó là tệ nạn đĩ điếm, ma cô, chạy theo đồng đô la một cách khá trắng
trợn. Chính người dân miền Nam thời đó cũng phản ứng rất gay gắt. Nhưng mặt khác,
cuộc sống xã hội và tinh thần trong nội bộ xã hội Việt Nam, trong trường học, trong công
sở, trong các gia đình, xóm giềng, bạn hữu lại là quan hệ có nề nếp, có văn hóa. Học trò
lễ phép với thầy, vợ chồng, cha con, mẹ con thương yêu gắn bó với nhau. Thời đó học trò
ra đường không hỗn láo như bây giờ. Không có hiện tượng chửi thề, các quan chức cũng
có chơi bời nhưng không tệ hại tới mức như một số quan chức hiện nay. Công an thời đó
ít có hiện tượng chặn đường để ăn tiền mãi lộ một cách phổ biến như ngày nay. Xin giấy
tờ ở cấp này cấp kia cũng không phải đút lót một cách phổ biến, đặc biệt là trong trường
học thì tình trạng chạy điểm, mua điểm, ném phao, quay cóp gần như không có. Có thể
nói, so với xã hội trước đây thì trên một số khía cạnh nào đó, cuộc sống văn hóa và tinh
thần hôm nay đã xuống cấp nghiêm trọng Những trí thức trước đây, công chức trong
công sở là những người có tư cách, đàng hoàng, cả nói năng và hành xử rất có văn hóa.
Còn bây giờ, một tỉ lệ đáng kể công chức và cả một số trí thức cũng không có được một
phong độ văn hóa như trước đây.
25

×