Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

KIẾN THỨC - THÁI ĐỘ - THỰC HÀNH VỀ PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.23 KB, 22 trang )

KIẾN THỨC - THÁI ĐỘ - THỰC HÀNH VỀ PHÒNG CHỐNG
HIV/AIDS

TÓM TẮT
Mục tiêu: Học sinh là nguồn nhân lực lao động tương lai quan trọng
cho xã hội. Nguy cơ lan tràn dịch HIV/AIDS ra cộng đồng đang đe dọa sức
khoẻ của các em học sinh phổ thông trung học nói riêng và thế hệ trẻ nói
chung. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích xác định tỉ lệ kiến thức, thái
độ, thực hành của học sinh phổ thông trung học tại Thành phố Phan Thiết về
phòng chống HIV/AIDS.
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên
750 học sinh nhằm đánh giá mức độ kiến thức, thái độ, thực hành về phòng
chống HIV/AIDS của học sinh phổ thông trung học năm học 2005 - 2006 tại
Thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận. Với kỹ thuật chọn mẫu cụm ngẫu
nhiên và phân tầng theo từng khối lớp10, 11 và 12.
Kết qủa: Đa số các em có kiến thức về đường lây truyền 69,07%, về
khả năng điều trị 67,47%, về phát hiện nhiễm HIV 98,8% và cách phòng
chống 63,60%; Kiến thức chung 35,07%. Thái độ trong phòng chống
HIV/AIDS có 68,85% học sinh chấp nhận sử dụng bao cao su, 90,67% đối
xử tích cực với người nhiễm và 95,99% sẵn sàng xét nghiệm khi nghi ngờ
nhiễm HIV. Trong thực hành, đáng lưu ý là có 3 học sinh (chiếm 4%) trong
tổng số 766 học sinh có hành vi sử dụng ma tuý, trong đó 01 em đã từng
chích ma tuý. Có 28 em học sinh (chiếm 3,73%) đã từng quan hệ tình dục,
trong đó 15 em đã từng quan hệ tình dục và không sử dụng bao cao su là
điều chúng ta đáng quan tâm. Sự khác biệt giữa kiến thức của học sinh nam
và nữ; thái độ phòng chống HIV/AIDS giữa học sinh nam, nữ là có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).
Kết luận: Học có từng kiến thức đúng về phòng chống HIV/AIDS
khá cao nhưng không đầy đủ. Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không sử
dụng bao cao su và hành vi sử dụng ma túy trong học sinh là điều chúng ta
đáng quan tâm trong thời gian tới.


ABSTRACT
Objective: Students are the important future human sources for the
society. The rick of spreading HIV/AIDS into community threatens the
health of high school pupils in particular as well as the youth in general.
Thus, the surpose of this study determines the proportion of pupils having
knowledge, attitude and practice concerning HIV/AIDS prevention and
control.
Methods: A cross - sectional study was conducted among 750 high
school pupils in Phan Thiet city of Binh Thuan province in 2006. With
cluster sampling technique and stratified by grade 10, 11 and 12.
Results: By the study, we found that: the proportion of students
having correct knowledge about the HIV transmiting routes was 69,07%, the
ability of treatment was 67,47%, the way of disease determinant was 98,8%
and the way of HIV preventive was 63,60%. The common knowledge was
35,07%. 68,85% students had acceptable attitude concerning HIV/AIDS
prevention to use the condom, 90,67% students had active attitude behaving
with patients and 95,99% students had ready attitude having the HIV test
when having doubt. In practice, alarmingly, there were 3 pupils among 766
pupils having drug using (4%), with 1 pupil having ever drug injecting.
There were 28 among them (3,73%) having ever sexual relation with 15
pupils among 28 not always using the condom sexual relations. It existed a
statistically significant difference about the knowledge of schoolboys and
schoolgirls , the attitude on HIV/AIDS prevention and control between the
schoolboys and schoolgirls form (p=0,05).
Conclusion: Students have ever had correct knowledge of HIV/AIDS
provention and control but the common knowledge is not complete. Sexual
relation before getting married without using the condom and using drug for
pupils in school.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch HIV/AIDS phát triển với tốc độ rất nhanh và giới trẻ đang

gánh chịu những hậu qủa nặng nề của đại dịch AIDS. Trong những năm gần
đây, theo báo cáo của UNAIDS (tổ chức phòng chống AIDS toàn cầu)
khoảng 64% tổng số người mới nhiễm HIV/AIDS hàng năm ở các nước
đang phát triển là những người trong độ tuổi 15-24. Sự gia tăng này đặc biệt
rõ rệt trong nhóm phụ nữ trẻ và trẻ em gái. Điều này, tác động rất lớn đến
các vấn đề y tế, giáo dục, chăm sóc xã hội và xa hơn nữa là đến nguồn nhân
lực - tài sản qúy giá nhất của mỗi quốc gia; tương lai, hạnh phúc nòi giống
của nhiều gia đình, dòng họ, dân tộc
(2)
Tại Việt Nam, theo Cục phòng
chống HIV/AIDS - Bộ Y tế, tính đến hết ngày 30/6/2006 đã có tổng số
nhiễm HIV trong toàn quốc là 109.989 ca trong đó số bệnh nhân AIDS có
18.581 ca và 10.785 người chết do AIDS.
Trong những năm qua, cùng với cả nước tại Bình Thuận công tác giáo
dục sức khoẻ về phòng chống HIV/AIDS với nhiều hình thức truyền thông
đại chúng đã tiến hành liên tục. Tuy nhiên, kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên
được phát hiện đầu tiên tại Thành phố Phan Thiết vào tháng 8/1994. Đến
nay toàn tỉnh (không kể số liệu từ Cơ sở giáo dục Huy Khiêm và Trại giam
Z30D) đã phát hiện tổng cộng 460 trường hợp nhiễm HIV, trong đó 206
trường hợp chuyển AIDS và 177 trường hợp tử vong do AIDS. Cả 10/10
huyện, Thị xã, Thành phố đều có người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS;
trong đó Thành phố Phan Thiết chiếm tỉ lệ cao nhất trong toàn tỉnh (số
nhiễm HIV: 262, Bệnh nhân AIDS: 146, Tử vong: 105). Hơn nữa, Thành
phố Phan Thiết với đặc điểm là thành phố trẻ có những điểm du lịch nổi
tiếng, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước tham quan, nghỉ dưỡng
nên một số tệ nạn như ma tuý, mại dâm dưới những hình thức trá hình vẫn
còn tồn tại dễ tạo điều kiện cho dịch lây lan và phát triển. Do đó, nghiên
cứu này nhằm mục đích đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành
của học sinh phổ thông trung học tại Thành phố Phan Thiết về phòng chống
HIV/AIDS, sự tiếp cận các nguồn thông tin và mối liên quan giữa kiến thức,

thái độ, thực hành với trình độ học vấn, tuổi, giới và nghề nghiệp của cha mẹ
học sinh. Từ đó góp phần định hướng cho việc xây dựng kế hoạch phòng
chống AIDS hiệu qủa trên địa bàn Thành phố và tỉnh.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng: Học sinh phổ thông trung học.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Năm 2006, tại Thành phố Phan
Thiết tỉnh Bình Thuận.
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Mẫu nghiên cứu
Cở mẫu
Dân số mục tiêu của nghiên cứu là 9.385 học sinh phổ thông trung
học tại 3 trường trong Thành phố Phan Thiết. Theo các nghiên cứu trước đây
(1,3,4,5)
tại Việt Nam trong học sinh khoảng trung bình tỉ lệ học sinh có kiến
thức đúng hoặc thái độ đúng hoặc thực hành đúng là 52,3%. Do đó, để có
95% tin tưởng xác định tỉ lệ là 52,3% với sai số cho phép 5% và hiệu qủa
thiết kế của mẫu cụm là 2. Cở mẫu được ước lượng là 766 học sinh.
Phương pháp chọn mẫu
- Bước 1. chọn mẫu phân tầng theo khối lớp 10, 11, 12.
- Bước 2. chọn mẫu cụm bậc 1 với cụm là lớp được chọn ngẫu
nhiên theo danh sách từng khối lớp.
Tất cả học sinh trong lớp được đưa vào nghiên cứu, trừ học sinh vắng
mặt hoặc không tham gia.
Thu thập dự kiện
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền gồm 21 câu hỏi. Học sinh không cần ghi
tên để tránh tâm lý e ngại trả lời và bảng câu hỏi được thu hồi ngay sau khi
điền xong.
Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê Stata 8.0
Dùng phương pháp thống kê mô tả để ghi nhận các tần suất, tỉ lệ %.

Sử dụng phép kiểm chi bình phương ở ngưỡng ý nghĩa 5% và giá trị p. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi trị số p <0,05 để tìm mối liên quan giữa
kiến thức, thái độ, thực hành với trình độ học vấn, giới, tuổi, nghề nghiệp
của cha mẹ học sinh. Mức độ liên quan được ước lượng theo tỉ số số chênh.
Khía cạnh y đức của nghiên cứu
Không vi phạm y đức.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong số 766 học sinh được chọn, có 750 em đồng ý trả lời, tỉ lệ mất
mẫu là 2,08% do học sinh vắng mặt ở thời điểm điều tra.

Bảng 1. Các đặc tính của mẫu nghiên cứu (n = 750)
Đặc tính n Tỉ lệ
(%)
Lớp 10

267

35,65

Lớp 11

263

35,11

Trình
độ học vấn
Lớp 12

219


29,24

Nam 309

41,20

Giới
Nữ 441

58,80

> 17
tuổi
251

33,47

Tuổi
<= 17
tuổi
499

66,53

Lao
động trí óc
194

25,90


Nghề
nghiệp Cha
(mẹ)
Lao
động chân
tay
555

74,10

Bảng 2. Tiếp cận các nguồn thông tin (n= 750)
Nguồn
thông tin
n Tỉ lệ
(%)
Truyền
hình
741

98,80

Phát
thanh
609

81,20

Sách
báo

720

96
Pano,
áp phích, tờ
rơi
490

65,33

Nhà
trường
716

95,47

Bạn bè

478

63,73

Gia 526

70,13

đình
Cán bộ
y tế
407


54,27

Bảng 3. Tỉ lệ học sinh có kiến thức về phòng chống HIV/AIDS (n=
750)
Nội dung Tần
số
Tỉ lệ
(%)
Biết đúng về
đường lây truyền HIV
518 69,07

Biết đúng về
khả năng điều trị
506 67,47

Biết đúng về
phát hiện nhiễm HIV
741 98,80

Biết đúng về
phòng lây nhiễm
477 63,60

Kiến thức chung

263 35,07

Bảng 4. Tỉ lệ học sinh có thái độ tích cực (chấp nhận) về phòng chống

HIV/AIDS (n=750).
Nội
dung
Tần
số
Tỉ lệ
(%)
Chấp
nhận sử
dụng bao
cao su
trong quan
hệ tình dục
515 68,85

Thái
độ tích cực
đối với
người
nhiễm HIV
680 90,67

Sẵn
sàng xét
nghiệm khi
718 95,99

nghi ngờ
Bảng 5. Tỉ lệ hành vi của học sinh trong phòng chống HIV/AIDS (n=
750)

Nội
dung
Tần
số
Tỉ
lệ(%)
Sử
dụng riêng
dao cạo râu ở
học sinh nam
(n= 309)
208 67,31

Sử
dụng riêng
bàn chải
đánh răng
613 81,73

Sử
dụng riêng
kềm cắt
141 18,88

móng tay

quan hệ tình
dục
28 3,73
Có sử

dụng bao cao
su (n= 28)
13 46,43


hành vi sử
dụng ma tuý
03 0,40

tiêm chích
khi sử dụng
ma tuý(n= 3)
01 33,33

Có sử
dụng bơm
kim tiêm
01 100
riêng(n=1)

Bang 6. Các yếu tố liên quan đến kiến thức về phòng chống
HIV/AIDS.
Nội dung Các yếu tố Khoảng tin
cậy 95%
p
Nam so với
nữ
1,67 (1,19 -
2,35)
0,001


Kiến thức về
đường lây
Học sinh có
cha mẹ lao động
trí óc so với lao
động chân tay
1,81 (1,23 -
2,77)
0,002

Kiến thức về
phòng lây
Nam so với
nữ
1,45 (1,05 -
1,99)
0,017

Học sinh có
cha mẹ lao động
trí óc so với lao
động chân tay
1,75 (1,21 -
2,56)
0,002

Bảng 7. Các yếu tố liên quan đến thái độ về phòng chống HIV/AIDS
Nội dung Các yếu tố Khoảng tin
cậy 95%

p
Thái độ phòng
lây nhiễm HIV
Nam so với
nữ
1,67 (1,19 -
2,35)
0,001


BÀN LUẬN
Đối tượng nghiên cứu là học sinh phổ thông trung học tại Thành phố
Phan Thiết. Học sinh là những chủ tương lai của đất nước, được trang bị
những kiến thức cơ bản cũng như những tri thức lớn của xã hội để từ đó hình
thành nên nhân cách và quyết định những hành vi đúng đắn cho bản thân
đồng thời có khả năng truyền đạt kiến thức, hướng dẫn thực hành cho những
đối tượng khác trong gia đình và cộng đồng. Tỉ lệ học sinh ở các khối lớp
được phân bố khá đồng đều và mang tính đại diện cho toàn thành phố, học
sinh nam chiếm 41,20% và học sinh nữ 58,80% tương đồng với tỉ lệ phân bố
giới tính ở các trường phổ thông trung học trong tỉnh và cơ cấu dân số tự
nhiên tại địa phương. Nghề nghiệp cha mẹ học sinh: lao động trí óc 25,90%
và lao động chân tay 74,10%, phù hợp với tỉ lệ ngành nghề tại địa phương
(bảng 1).
Cở mẫu đủ lớn, đã có biện pháp giảm ảnh hưởng do thiết kế, kỹ thuật
chọn mẫu thích hợp, tỉ lệ mất mẫu thấp (2,08%), mẫu nghiên cứu mang tính
đại diện cao.
Đa số học sinh thu nhận thông tin từ truyền hình, sách báo, nhà
trường, phát thanh. Do đó việc duy trì và sử dụng các kênh truyền thông này
là cần thiết. Tuy nhiên vẫn còn 45,73% học sinh không nhận được thông tin
từ các cán bộ y tế (bảng 2). Điều này cho thấy trong những năm tới cần tăng

cường phối hợp hơn nữa giữa y tế và giáo dục trong việc triển khai sâu rộng
công tác phòng chống HIV/AIDS trong nhà trường.
Kiến thức về phòng chống HIV/AIDS
Những kiến thức về phòng chống HIV/AIDS của học sinh được điều
tra bao gồm kiến thức về đường lây truyền HIV, kiến thức về khả năng điều
trị AIDS, kiến thức về phát hiện nhiễm HIV và kiến thức về phòng lây
nhiễm HIV. Có (98,8%) học sinh biết HIV được phát hiện chủ yếu qua xét
nghiệm (bảng 3). Kết qủa này tương đương với kết qủa điều tra của Ngô văn
Tán (99,2%). Tỉ lệ kiến thức đúng về khả năng điều trị AIDS thấp (67,47%)
so với kết quả nghiên cứu của Ngô Văn Tán (87,9%) và Lê Trọng Lưu
(77,9%). Điều này có thể lý giải, gần đây có thông tin về các loại thuốc tây
cũng như đông y đang sử dụng cho người bị nhiễm HIV/AIDS nhưng chỉ
đang giai đoạn nghiên cứu do đó các thông tin này được các em hiểu sai
lệch, thiếu chính xác. Đây là vấn đề cần lưu ý cho những người làm công tác
truyền thông, giúp cho các em có kiến thức về khả năng điều trị AIDS để
luôn có ý thức cảnh giác. Tỉ lệ kiến thức chung đúng (35,07%) thấp hơn kết
qủa của Lê Trọng Lưu (46,7%) mặc dù công tác truyền thông về phòng
chống HIV/AIDS trong nhà trường đã triển khai nhiều năm. Kiến thức
chung được định nghĩa là đúng khi tất cả kiến thức đúng. Điều này chứng tỏ
nhiều học sinh có kiến thức đúng nhưng chưa đầy đủ, đây là nguy cơ dẫn
đến thực hành sai. Do đó vấn đề này cần lưu ý điều chỉnh thông điệp truyền
thông trong thời gian tới.
Khi xem xét các mối liên quan của kiến thức với trình độ học vấn,
giới, tuổi, nghề nghiệp cha mẹ học sinh. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa học sinh nam và nữ; học sinh có cha mẹ lao động trí óc và chân tay về
kiến thức đường lây và phòng lây (bảng 6). Điều này có thể do nam giới với
tính cách mạnh mẽ dễ dàng tiếp cận nhiều kênh truyền thông về phòng
chống HIV/AIDS, cũng như học sinh có cha mẹ lao động trí óc sẽ có điều
kiện thuận tiếp cận nhiều kênh truyền thông hơn các em có cha mẹ lao động
chân tay.

Thái độ về phòng chống HIV/AIDS
Thái độ chỉ là bước trung gian chuyển nhận thức thành hành vi, rất
khó đánh giá về mức độ tác động đến hành vi cũng như khó tác động để
chuyển biến thái độ của đối tượng. Trong nghiên cứu này chỉ khảo sát một
số tiêu chí nhất định có liên quan đến thái độ về phòng chống HIV/AIDS.
Các thái độ được khảo sát là thái độ chấp nhận sử dụng bao cao su trong
quan hệ tình dục, thái độ đối xử với người nhiễm HIV, thái độ sẵn sàng xét
nghiệm khi nghi ngờ bị nhiễm HIV. Tỉ lệ học sinh có thái độ chấp nhận gần
gũi, động viên, chăm sóc với người nhiễm HIV/AIDS là (90,67%) (bảng 4).
Tỉ lệ này phù hợp với kết qủa nghiên cứu của Lê Trọng Lưu (91,8%). Nhưng
vẫn còn (9,33%) tỉ lệ học sinh có thái độ đối xử cách ly riêng một khu vực
hoặc không quan tâm với người nhiễm HIV. Điều này cho thấy không dễ
dàng vượt qua rào cản tâm lý khi tiếp xúc với người nhiễm HIV, thái độ đối
xử không đúng với người nhiễm HIV/AIDS xuất phát từ tâm lý sợ hãi căn
bệnh vẫn còn tồn tại trong cộng đồng. Có 68,15% học sinh cho rằng cần sử
dụng bao cao su trong quan hệ tình dục (bảng 4) thấp hơn kết qủa điều tra
của Lê Trọng Lưu (75,8%) và Ngô Văn Tán (89,7%). Kết qủa này có thể bị
ảnh hưởng do thái độ học sinh chỉ chấp nhận quan hệ tình dục chỉ với mọi
người, đó là vợ hoặc chồng và sự lựa chọn này cũng đi theo khuynh hướng
tự nhiên, được xã hội công nhận và khuyến cáo "một vợ một chồng không sợ
SIDA". Kết qủa cho thấy vẫn còn 4,01% (bảng 4) học sinh không chấp nhận
xét nghiệm khi nghi ngờ có khả năng nhiễm. Việc xét nghiệm khi nghi là
cần thiết không những giúp cho cá nhân đánh giá tình trạng sức khoẻ của
mình mà còn liên quan đến sức khoẻ của cộng đồng. Vì vậy trong thời gian
tới, cần chọn lựa bổ sung nội dung truyền thông kết hợp công tác tư vấn trực
tiếp nhằm giải quyết vấn đề trên.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa học sinh nam và nữ về thái độ
phòng lây nhiễm HIV (sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục ngoài hôn
nhân) (bảng 7). Điều này là do vấn đề sử dụng bao cao su dễ được chấp nhận
đối với những đối tượng có tính cách mạnh mẽ như nam giới hơn là nữ giới.

Thực hành về phòng chống HIV/AIDS .
Do đối tượng là học sinh nên yếu tố thực hành chỉ khảo sát ở các vấn
đề liên quan như sử dụng dao cạo râu (nam), bàn chải răng, kềm cắt móng
tay các thực hành liên quan đến truyền máu, vô trùng trong dịch vụ y
tế không đề cập trong nghiên cứu này.
Cả học sinh nam và nữ mặc dù có kiến thức đúng về phòng bệnh nhưng
những hành vi phòng lây qua đường máu thì chưa tốt. Đó là sự chủ quan sử
dụng chung đồ dùng cá nhân với người khác ở các dịch vụ cắt tóc, làm móng
tay cũng như ở gia đình, điều này càng nguy hiểm hơn đối với những gia đình
đông đảo thành viên trong đó có người đã nhiễm nhưng chưa phát hiện. Tỉ lệ
học sinh dùng chung dao cạo râu (32,69%), kềm cắt móng tay (81,12%), bàn
chải răng (18,27%) (bảng 5). Kết qủa này cho thấy thói quen sử dụng chung
dụng cụ cá nhân, nhất là kềm cắt móng tay còn phổ biến trong các gia đình Việt
Nam. Tuy nhiên, nếu trong gia đình không có người nhiễm HIV/AIDS thì việc
dùng riêng kềm cắt móng tay là không cần thiết. Kết qủa nghiên cho thấy có 28
học sinh đã từng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân chiếm tỉ lệ 3,73 cao hơn kết
qủa nghiên cứu của Lê Trọng Lưu (0,5%) và 03 học sinh chiếm tỉ lệ 0,4% có
hành vi sử dụng ma tuý, trong đó có 15 học sinh không sử dụng bao cao su
trong quan hệ tình dục và 01 học tiêm chích ma túy (bảng 5), đây là điều đáng
quan tâm. Mặc dù tỉ lệ thấp nhưng khó ai biết được những học sinh đã từng
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân có hay chưa tiếp xúc với những người đã
nhiễm và có tiếp xúc với những người khác nữa hay không. Đây là một thực
trạng đáng báo động về hành vi quan hệ tình dục và sự xâm nhập của ma túy
vào học đường đồng thời còn là yếu tố nguy cơ lây nhiễm cao bởi kết qủa cho
thấy học sinh vẫn chưa có ý thức trong việc tự bảo vệ.
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
Hầu hết học sinh có từng kiến thức đúng về phòng chống HIV/AIDS
khá cao nhưng không đầy đủ. Tỉ lệ học sinh có kiến thức chung về phòng
chống HIV/AIDS thấp (35,07%). Học sinh vẫn có thói quen sử dụng chung
dụng cụ cá nhân, nhất là kềm cắt móng tay, dao cạo râu ở nam. Trong khi

thái độ đối xử với người nhiệm HIV/AIDS khá tích cực (90,67%) thì thái độ
phòng lây nhiễm HIV liên quan đến các vấn đề tình dục còn hạn chế
(68,85%). Thực trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không sử dụng bao
cao su và hành vi sử dụng ma túy trong học sinh là điều chúng ta đáng quan
tâm trong thời gian tới.
Do kiến thức đầy đủ về phòng chống HIV/AIDS của học sinh vẫn còn
thấp cho nên cần tăng cường các chương trình giảng dạy về HIV/AIDS trong
nhà trường, chính khoá cũng như ngoại khoá. Truyền hình và sách báo là
kênh thông tin phổ biến mà học sinh thu nhận kiến thức về HIV/AIDS, cần
tiếp tục duy trì và cải tiến nội dung truyền thông, thông điệp cần rõ ràng dễ
hiểu và đa dạng dưới nhiều hình thức, chú ý nhấn mạnh sự nguy hiểm của
căn bệnh giúp cho đối tượng cảnh giác phòng bệnh cho bản thân bên cạnh
cũng cần thay đổi những hình ảnh quá mức về người nhiễm, tránh tâm lý sợ
hãi trong cộng đồng. Lồng ghép và tăng cường chương trình giáo dục sức
khoẻ sinh sản vị thành niên cho học sinh và phòng chống HIV/AIDS như
các kiến thức về giới tính, sinh sản và các biện pháp tránh thai để các em
có môi trường thuận lợi trao đổi, nâng cao kiến thức, thái độ từ đó các em sẽ
dần hình thành những thói quen đúng, thực hành đúng có lợi cho sức khoẻ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng quan hệ tình dục và sử dụng ma tuý
trong học đường đáng báo động nên trong thời gian tới cần phối hợp chặt
chẽ việc tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS với phòng chống các tệ nạn
ma túy và mại dâm trong nhà trường.

×