Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong quá trình đô thị hoá ở huyện từ liêm hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.68 KB, 92 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
LỜI MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của đề tài
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sinh sống ở
khu vực nông thôn và 70% lao động làm việc ở trong ngành sản xuất nông
nghiệp. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế bắt đầu từ chỉ thị 100 của Ban Bí
thư, Nghị quyết X của Bộ Chính Trị đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát
triển nền kinh tế nước ta. Nông nghiệp nước ta trong những năm qua đã đạt
được rất nhiều thành tựu đáng kể. Chúng ta đã từ một nước thiếu lương thực
triền miên, giờ đây chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai
trên thế giới. Tuy nhiên, trong ngành nông nghiệp sản xuất vẫn chủ yếu là
trồng trọt, chăn nuôi và thuỷ sản chưa phát triển, mức sống giữa nông thôn và
thành thị ngày càng chênh lệch. Điều đó, chứng tỏ nông nghiệp -nông thôn
nước ta còn nhiều khó khăn. Để giải quyết được vấn đề đó, thì một trong
những biện pháp mang tính cấp thiết hiện nay là chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp- nông thôn nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng.
Từ Liêm- Hà Nội là một trong 5 huyện ngoại thành Hà Nội, có vị trí địa lý
thuận lợi để phát triển các mặt kinh tế - văn hoá - xã hội. Trong những năm
vừa qua, mặc dù tốc độ đô thị hoá diễn ra tương đối nhanh chóng, song sản
xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện
Từ Liêm. Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp còn những hạn chế, chưa phát huy
tốt các tiềm năng vốn có của huyện. Do chưa xác định được hệ thống trồng
trọt hợp lý, có hiệu quả cao. Vấn đề đặt ra cho sản xuất nông nghiệp của
huyện Từ Liêm đặc biệt là ngành trồng trọt trong những năm tới là nghiên
cứu chuyển dịch cây trồng một cách hợp lý, hiệu quả cao. Mặt khác, đất nông
nghiệp của huyện Từ Liêm trong một vài năm tới sẽ mất đi hàng nghìn ha
cho công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH-HĐH) nông nghiệp nông
thôn và đô thị hoá. Do đó, sẽ có hàng vạn lao động mất đi tư liệu sản xuất,
không có việc làm. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở huyện Từ Liêm
một cách có hiệu quả và hợp lý lại bức xúc và cần thiết hơn bao giờ hết.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT


Từ những lý do thực tiễn trên em đã chọn đề tài: “Những giải pháp chủ
yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong quá trình đô thị hoá ở huyện
Từ Liêm Hà Nội” làm đề tài tốt nghiệp.
2.Mục đích của đề tài
Làm sáng tỏ cở sở khoa học chyển dịch cơ cấu cây trồng trong nền kinh tế
thị trường. Đánh giá đúng thực trạng cơ cấu cây trồng và chuyển dịch của nó
trên địa bàn huyện, tìm ra những nguyên nhân và tồn tại của nó. Từ đó, đưa ra
những giải pháp chủ yếu để khắc phục nhằm tạo ra một cơ cấu cây trồng hợp
lý và sự chuyển dịch cây trồng có hiệu quả kinh tế cao khi mà đất nông
nghiệp dần dần mất đi do tốc độ đô thị hoá nhanh của huyện.
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp khoa học
–Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
_Phương pháp thống kê kinh tế
_Phương pháp phân tích hệ thống
_Phương pháp kế thừa kết quả nghiên cứu
_Phương pháp điều tra phỏng vấn
4.Kết cấu của đề tài này bao gồm
Chương I: Cơ sở lý luận chung về cơ cấu cây trồng và chuyển dịch
cơ cấu cây trồng.
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong quá
trình đô thị hoá của huyện Từ Liêm những năm vừa
qua.
Chương III: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm
chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong quá trình đô thị hoá
của Từ Liêm
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã được sự chỉ bảo tận tình của thầy
giáo hướng dẫn TS. Trần Quốc Khánh, các thầy cô trong khoa, cơ quan thực
tập huyện Từ Liêm, trung tâm thư viện đại học Kinh Tế Quốc Dân. Em xin
chân thành cảm ơn.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, nhưng do thời gian và trình độ có hạn
nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ
bảo, bổ sung các ý kiến quý báu của thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện
hơn.
Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2003
Sinh viên
Nguyễn Đức Thịnh
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU CÂY
TRỒNG VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG
I. KHÁI NIỆM ĐẶC TRƯNG CƠ CẤU CÂY TRỒNG
1. Khái niệm cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng
1.1. Cơ cấu cây trồng
Thuật ngữ: “cơ cấu” là một phạm trù, biểu hiện cấu trúc bên trong, mối
liên kết các bộ phận hợp thành. Nội dung của cơ cấu phản ánh vai trò, vị trí
của từng bộ phận hợp thành và mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng
trong tổng thể. Một cơ cấu cụ thể của sự vật hiện tượng không phải là bất
biến, mà nó được thay đổi phù hợp với những điều kiện lịch sử nhất định hay
nói cách khác nó phù hợp với điều kiện khách quan.
Cơ cấu cây trồng là một phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và
quản lý sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, cơ cấu cây trồng cũng là một chỉ
tiêu quan trọng của chiến lược nông sản hàng hoá.
Một quan niệm khác, định nghĩa cơ cấu cây trồng là tổng thể các mối quan
hệ hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định, chúng tác động qua lại lẫn
nhau trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định, tạo thành một
hệ thống kinh tế nông thôn, một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ
thống nền kinh tế quôc dân. Cơ cấu cây trồng còn là một bộ phận chủ yếu của
cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta.
Trên đây, là hai khái niệm cơ bản về cơ cấu cây trồng nhưng nó chỉ được

hiểu một cách tương đối và khái quát nhất.
Sự phát triển của cơ cấu cây trồng tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng đã xác lập những tỷ lệ theo mối
quan hệ nhất định. Tuỳ theo điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của
từng vùng phù hợp với những loại cây nào ví dụ: “đất nào, cây ấy”. Do đó, cơ
cấu cây trồng hình thành từ những loại cây trồng đó, cơ cấu cây trồng có thể
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
được hình thành từ nhiều nhóm, chẳng hạn nhóm cây lương thực gồm: lúa,
ngô, khoai, sắn, nhóm cây ăn quả gồm: bưởi, cam, táo nhóm cây rau màu
Như vậy, có thể hiểu cơ cấu cây trồng một cách đơn giản hơn đó chính là
thành phần và các loại cây trồng bố trí theo không gian và thời gian trong một
cơ sở hay một vùng sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng là một nội dung
trong hệ thống các biện pháp kỹ thuật gọi là chế độ trồng trọt. Ngoài ra, nó
còn bao gồm chế độ luân canh, làm đất, bón phân, phòng trừ sâu bệnh, kỹ
thuật chăm sóc Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản của chế độ canh tác vì
chính nó quyết định nội dung của các biện pháp kỹ thuật khác.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ (KHCN) ngày càng phát triển. Đặc
biệt, là công nghệ sinh học, đã tạo ra những giống lúa mới ngắn ngày, những
giống cây con cho năng suất cao, chất lượng tốt để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của con người. Cuộc cách mạng xanh đang diễn ra ở một số nước
nhiệt đới trong những năm gần đây, trong đó có cả nước ta, làm thay đổi bộ
mặt, bức tranh về nền nông nghiệp nước nhà. Như vậy, cơ cấu cây trồng là
một vấn đề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, là nước ta đang
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH-
HĐH đất nước. Vì vậy, cần có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều vùng,
nhiều địa phương để đáp ứng được yêu cầu của phương hướng sản xuất mới
cũng như của cơ chế thị trường.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Chuyển dịch cơ cấu khi xem xét trong một tổng thể nhất định là sự phát

triển về cơ cấu các bộ phận hợp thành tổng thể đó trong một khoảng thời gian
nhất định. Quá trình phát triển về cơ cấu đó bao gồm sự thay đổi những mối
quan hệ giữa các bộ phận hợp thành trong quá trình phát triển của tổng thể.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu cây trồng là quá trình phát triển hay quá trình
thay đổi về thành phần các loại cây trồng trong một cơ sở hay một vùng nhất
định.
Một số khái niệm hình thành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu là điều
chỉnh cơ cấu: là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt,
một số yếu tố của cơ cấu làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
thời kỳ, không tạo ra sự thay đổi đột biến tức thời. Cải tổ cơ cấu là quá trình
chuyển dịch mang tính thay đổi về mặt chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu,
nhanh chóng tạo ra sự đột biến.
2. Đặc trưng của cơ cấu cây trồng
2.1. Cơ cấu cây trồng mang tính khách quan
Sự phát triển của cơ cấu cây trồng mang tính khách quan cũng như cơ cấu
kinh tế nói chung, tuỳ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nói chung
và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó đã xác lập những tỷ lệ theo mối quan hệ
nhất định. Cơ cấu cây trồng và xu hướng biến đổi của nó phụ thuộc vào điều
kiện khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội nhất định
của từng vùng, từng địa phương, từng nước chứ không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. Tuy nhiên, vai trò của con người vô cùng quan
trọng. Con người có thể tác động vào cơ cấu cây trồng làm cho nó chuyển
dịch phù hợp với những điều kiện khách quan để mang lại hiệu quả và lợi ích
cao hơn, và quá trình đó diễn ra một cách nhanh hơn khi có sự tác động của
con người.
2.2. Cơ cấu cây trồng mang tính lịch sử, xã hội nhất định
Cơ cấu cây trồng không phải tự nhiên sinh ra cũng không phải tự nhiên
mất đi mà nó được hình thành do những điều kiện tự nhiên cụ thể, sản xuất

khác nhau của từng vùng, từng nước. Do vậy, chúng có điều kiện tự nhiên,
điều kiện lịch sử, xã hội khác nhau. Vì vậy, không có một cơ cấu cây trồng
nào áp dụng chung cho mọi vùng sản xuất mà nó chỉ có ý nghĩa kế thừa và
chọn lọc để phù hợp với các điều kiện nhất định trong mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định. Nhưng do quá trình phát triển không ngừng của cuộc cách mạng
KHCN thì nó nảy sinh thêm một hình thức phân công lao động quốc tế. Nói
như vậy, là chỉ có những nước nhiệt đới mới có những sản phẩm mang tính
nhiệt đới như: Cao Su, Cà phê, Cọ Dầu…còn những nước hàn đới thì không.
Điều này chứng tỏ rằng, cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện lịch sử, xã
hội của từng nước nhất định.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
2.3. Cơ cấu cây trồng không cố định mà có sự biến đổi
Cơ cấu cây trồng luôn biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện. Nó luôn
vận động và phát triển thông qua sự chuyển hoá từ cái cũ sang cái mới, từ đơn
điệu đến đa dạng, từ hiệu quả kinh tế thấp đến hiệu quả kinh tế cao. Do yêu
cầu của sự tăng trưởng và phát triển xã hội.
Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo một quá trình, không phải cơ cấu mới
có sẵn, tự nhiên xuất hiện và thay đổi đột ngột cơ cấu cũ mà nó là cả một quá
trình thay đổi. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhiều
yếu tố như trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu đáp ứng các
loại nông sản của người tiêu dùng, các chính sách vĩ mô và vi mô của Nhà
nước.
2.4. Cơ cấu cây trồng mở rộng gắn liền với công nghiệp, thương nghiệp
phát triển
Công nghiệp chế biến phát triển góp phần tăng giá trị sản phẩm nông
nghiệp, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng ngày càng cao đa dạng của xã hội. Nước ta, những sản phẩm nông
nghiệp rất phong phú và đa dạng nhưng qua chế biến thì chưa nhiều, chỉ
khoảng 20%, còn 80% vẫn còn phải xuất khẩu ở dạng thô nên giá trị rất thấp,
hiệu quả không cao. Mặt khác, thương nghiệp phát triển giúp cho cầu nối giữa

sản xuất và tiêu dùng thông suốt. Nghĩa là, quá trình tiêu thụ sản phẩm được
thuận lợi hay khó khăn.
3. Ý nghĩa của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lý
Cơ cấu cây trồng hợp lý là cơ cấu cây trồng mà trước hết phải phù hợp với
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương, từng nước.
Hơn nữa, nó phải đáp ứng đúng nhu cầu về lương thực, thực phẩm của thị
trường. Đồng thời, nó phải phù hợp với quan điểm tiên tiến về phát triển nền
nông nghiệp toàn diện trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của đất nước.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
chuyển đổi nông nghiệp từ độc canh cây lương thực sang nền nông nghiệp đa
dạng có nhiều nông sản hàng hóa, phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu,
làm tiền đề vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu cây trồng là căn cứ để xây dựng các kế hoạch
đầu tư vốn, sử dụng lao động và các loại tư liệu nông nghiệp cũng như áp
dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý theo hướng đa dạng hoá cơ cấu cây trồng
sẽ tạo điều kiện cho người nông dân giảm được rủi ro xuất phát từ nền kinh tế
thị trường với những cơn sốc về giá cả và sự thay đổi nhanh chóng của người
tiêu dùng. Mặt khác, xác định cây trồng hợp lý với việc luân canh cây trồng,
trồng xen hay gối vụ tạo điều kiện khả năng chi phí các yếu tố đầu vào như
phân công lao động, vốn…Đồng thời, nó góp phần cải tạo độ phì nhiêu của
đất đai ngày càng tốt lên, góp phần bảo vệ môi trường ngày một tốt hơn.
Hiện nay, ở nước ta với gần 80% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn,
gần 70% lao động nông nghiệp. Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý góp phần
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, lực lượng lao động dồi dào ở
nông thôn và không thể thu hút ngay vào các ngành sản xuất khác như công
nghiệp, dịch vụ. Do vậy, đây là một quá trình rất khó khăn đối với lực lượng
lao động nông thôn dư thừa này, có thể dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp cho xã
hội. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu cây trồng có khả năng tạo ra nhiều việc làm

hơn cho dân cư nông thôn, giảm thời gian nhàn rỗi trong quá trình sản xuất
nông nghiệp. Từ đó, cũng giảm được dòng di dân từ nông thôn ra đô thị. Mặt
khác, điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp thì
việc xác định một cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả cao là một đòi hỏi tất
yếu đối với thành phần kinh tế sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Việc
nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở nước ta hiện nay vừa là nội dung
trọng tâm của chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng một nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vừa là biện pháp để phát triển nông nghiệp
toàn diện, bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đất đai và môi trường.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vừa mang tính thực tiễn, vừa mang tính lý
luận. Từ việc nghiên cứu cơ cấu cây trồng, đã đặt ra cho các nhà lý luận cũng
như các nhà quản lý những nhiệm vụ mới, có ý nghĩa chiến lược trong bố trí
sản xuất trồng trọt hợp lý. Đó là xác đinh cơ cấu cây trồng trước mắt và trong
tương lai, phục vụ cho chiến lược phát triển nền nông nghiệp nước ta theo
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
hướng sản xuất hàng hoá, gắn với nhu cầu thị trường và không ngừng bảo vệ,
tái tạo tài nguyên môi trường, nhằm CNH-HĐH nông thôn nước ta.
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CỦA CƠ
CẤU CÂY TRỒNG
1. Những nhân tố ảnh hưởng
Sự chuyển dịch của cơ cấu cây trồng chịu ảnh hưởng của nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan. Sau đây là những nhân tố đó:
1.1. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Nhóm nhân tố này bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lý của các vùng, lãnh
thổ, điều kiện đất đai các vùng, điều kiện khí hậu các vùng, các nguồn tài
nguyên khác như: nước, khoáng sản, rừng, biển
Các nhân tố tác động trực tiếp đến sự hình thành, vận động và biến đổi của
cơ cấu cây trồng, sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi
loại cây trồng không giống nhau. Chính từ sự không giống nhau đó làm cho
số lượng và quy mô các loại cây trồng khác nhau. Điều này thể hiện rất rõ

trong sự phân biệt về cơ cấu cây trồng giữa các vùng trong cả nước đặc biệt là
giữa đồng bằng với miền núi, hay là bản thân ngay trong cùng một lãnh thổ.
Do đó, phải dựa vào cơ sở của các phương án phân vùng quy hoạch nông
nghiệp nhất là việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, hình thành
các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao. Cần phải
nhận thức rằng, không thể dựa vào quan niệm sản xuất hàng hoá nhỏ, phân
tán, manh mún, để bố trí cây trồng một cách tràn lan, bất hợp lý mà phải dựa
vào khai thác lợi thế từng vùng, từng địa phương để bố trí cây trồng hợp lý,
lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm thước đo để đánh giá.
-Vị trí địa lý của vùng, lãnh thổ
Vị trí địa lý của vùng là nơi chốn của vùng, lãnh thổ đó trong mối quan hệ
với các vùng, lãnh thổ khác. Mỗi vùng lãnh thổ phù hợp với một giống cây
trồng nhất định và vị trí địa lý của vùng, lãnh thổ cùng với một số yếu tố
thuộc về kinh tế, xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu cây trồng sao cho phù hợp với
mối quan hệ giữa vùng lãnh thổ đó với các vùng lãnh thổ khác.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Xác định cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng của một vùng
lãnh thổ phải dựa vào thế mạnh của từng vùng, hay lợi thế so sánh của từng
vùng. Đồng thời, phải phù hợp với quan điểm về chuyên môn hoá và đa dạng
hoá sản xuất nông nghiệp của cả nước. Vị trí địa lý là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, từng nước,
thông qua mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ về cơ sở hạ tầng, thị trường
đầu ra
-Khí hậu
Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng để xác định cơ cấu cây
trồng. Đối với việc bố trí cây trồng hàng năm, việc quan trọng là có thể xem
xét trồng cây gì, mấy vụ trong một năm. Ví dụ như Miền Bắc và Miền Nam
khác nhau cũng tạo ra cây trồng và cơ cấu cây trồng cũng rất khác nhau. Điều
này, phụ thuộc vào nhu cầu nhiệt lượng của cây trồng và tổng nhiệt lượng
hàng năm của vùng đó. Các cây trồng hàng năm ở xứ nóng có thời gian sinh

trưởng khoảng từ 90-150 ngày, tuỳ thuộc vào nhiệt lượng trung bình ngày để
cây có thể tích luỹ được một tổng nhiệt lượng cần thiết gọi là tích tổng ôn,
khoảng từ 2500 - 2600
o
C. Nếu vùng nào đó có tổng nhiệt đọ khoảng
9000
0
C/năm trở lên thì có thể gieo trồng được 3 vụ trong một năm. Vì vậy,
khí hậu là một trong những nhân tố hàng đầu để xác định cơ cấu cây trồng
hợp lý và sự dịch chuyển cơ cấu cây trồng cho phù hợp.
-Đất đai
Đất là nguồn cung cấp nước và chất dinh dưỡng cho cây trồng. Đất và khí
hậu hợp thành một hệ thống “khí hậu - đất” tác động vào cây trồng và các đặc
điểm của đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng. Hàm lượng chất dinh
dưỡng trong đất chủ yếu quyết định đến năng suất cây trồng hơn là quyết định
đến tính thích ứng của cây. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất có thể
ngày càng giảm và cạn kiệt nếu chúng ta không biết cải tạo đất đai và sử dụng
nó một cách có hiệu quả. Chúng ta có thể khắc phục nó bằng cách bón phân,
làm cỏ, trồng xen, trồng gối… Thông thường, các loại đất tốt sẽ trồng xen với
các loại cây mà phản ứng mạnh với độ màu mỡ của đất, thành phần cơ giới
đất, độ phân hoá, phèn mặn của đất cũng như một số đặc điểm lý, hoá, tính
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
khác nhau của đất để bố trí các loại cây trồng phù hợp. Do đó, nắm được đặc
điểm lý, hoá tính của đất nên con người có thể tác động cải tạo dần dần phù
hợp với cây trồng hơn. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu đặc biệt
không thể thiếu, có thể nói ở đâu có đất đai ở đó có thể sản xuất nông nghiệp
được.
-Đặc điểm sinh học của các loại cây trồng
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ sinh thái nông nghiệp. Nội dung
của việc bố trí cây trồng hợp lý là lựa chọn những loại cây trồng nào để lợi

dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu, đất đai cũng như các nguồn tài lực, vật
lực khác của vùng.
Mỗi loại cây trồng có đặc điểm sinh học riêng. Đó là yếu tố khách quan
mà con người không thể xoá bỏ được mà chỉ có thể tác động vào cây trồng đó
phù hợp đặc điểm sinh học của từng loại cây trồng nhằm đem lại lợi ích cho
bản thân con người. Với trình độ phát triển của công nghệ sinh học hiện đại
con người có khả năng thay đổi bản chất bên trong của chúng theo hướng mà
mình mong muốn bằng các biện pháp như: lai tạo, chọn lọc, gây đột biến
gen
Xây dựng cơ cấu cây trồng là xây dựng một hệ sinh thái trong nông
nghiệp. Như vậy, ngoài các thành phần chính là các cây trồng, vi sinh vật
các thành phần sống này cùng với cây trồng tạo nên một quần thể sinh vật.
Chúng chi phối lẫn nhau, tạo nên các mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Vấn đề là phải tạo dựng và duy trì mối cân bằng sinh học trong hệ sinh thái
theo hướng hạn chế các mặt có hại, phát huy các mặt có lợi đối với các lợi ích
của con người. Vì vậy, khi bố trí cây trồng cần phải có mối quan hệ giữa các
đặc điểm sinh học trong hệ sinh thái nông nghiệp.
1.2. Nhóm nhân tố kinh tế- xã hội
Nó bao gồm các nhân tố như thị trường trong và ngoài nước, vốn, cơ sở hạ
tầng, hệ thống chính sách vĩ mô của Nhà nước, kinh nghiệm tập quán truyền
thống sản xuất của dân cư, dân số và lao động Nhóm nhân tố này luôn có
tác động mạnh mẽ tới sự hình thành và biến đổi cơ cấu nông nghiệp nói chung
và cơ cấu cây trồng nói riêng. Nói chung, các nhân tố trên đều quan trọng và
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau, nhưng khách quan mà nói nhân tố
thị trường có ảnh hưởng quyết định sự phát triển kinh tế nói chung và sự hình
thành biến đổi cơ cấu kinh tế. Bởi vì, nó chỉ tồn tại và vận động thông qua
hoạt động của con người. Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất phải
sản xuất cái mà thị trường cần, những sản phẩm mà thị trường cần chứ không
phải là cái mà người sản xuất có. Nếu không tuân theo những quy luật của thị

trường thì người đó sẽ bị đào thải. Mặt khác, những người sản xuất hàng hoá
chỉ sản xuất và đem bán ra thị trường, trao đổi những sản phẩm mà họ cảm
thấy đem lại lợi ích thoả đáng. Như vậy, thông qua quan hệ cung- cầu mà tín
hiệu giá cả thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham
gia vào thị trường.
Chính sách kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm hãm
quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Nhờ chính sách đổi mới trong những
năm qua Nhà nước thông qua việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ
nông dân nên người sản xuất ở một số vùng đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, đổi mới phương thức canh tác đã thu được hiệu quả cao. Tuy nhiên,
có những chính sách nhiều khi chưa tạo môi trường thuận lợi cho việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) vào sản xuất
nông nghiệp như chính sách đất đai, chính sách đầu ra
Về chính sách tín dụng và phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
cũng ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu cây trồng hay chuyển dịch cơ cấu cây
trồng. Nếu thiếu vốn thì người nông dân khó có thể đầu tư, thâm canh, áp
dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, sản xuất sẽ gặp khó
khăn. Mặt khác, trong sản xuất nông nghiệp thì rủi ro lớn, lợi nhuận thấp. Vì
vậy, Nhà nước phải có biện pháp chính sách vay vốn ưu đãi đối với người
nông dân. Về phát triển cơ sở hạ tầng cũng đóng một vai trò quan trọng trong
sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhất là điện, thuỷ lợi, giao thông Cơ cấu
cây trồng về cơ bản phản ánh yêu cầu của sản xuất hàng hoá và thị trường,
tuân theo sự phân công lao động xã hội, tính chất chuyên môn hoá và tập
trung hoá nhu cầu sản xuất hàng hoá và thị trường là điều kiện quyết định sự
biến đổi về chất của cơ cấu cây trồng. Suy cho cùng, thì nhu cầu về nông sản
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
và môi sinh của xã hội ngày càng cao thì càng thúc đẩy cơ cấu cây trồng
chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Vì vậy, khi xác định cơ cấu cây trồng thì cần
dựa vào nhu cầu thị trường, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi vùng,
mỗi địa phương, sự phân công quy hoạch nông nghiệp và phương hướng phát

triển nông nghiệp trong từng thời kỳ.
1.3.Nhóm nhân tố về tổ chức, kỹ thuật
Nhóm nhân tố này gồm: Các hình thức tổ chức sản xuất, sự phát triển của
KHKT và việc ứng dụng KHKT vào sản xuất.
Việc ứng dụng những tiến bộ công nghệ vào sản xuất góp phần hoàn thiện
các phương thức sản xuất, sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội
và trong ngành trồng trọt. Đặc biệt, với sự phát triển nhanh như vũ bão của
KHCN, thì việc ứng dụng các thành tựu của nó vào đời sống và sản xuất ngày
càng nhiều và hiệu quả, nhất là công nghệ sinh học đưa các giống mới có
năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất, thay thế dần lao động thủ công
bằng máy móc, giải phóng sức lao động, tăng năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế.
Mặc dù, Người sản suất có tính độc lập và tự chủ trong việc sản xuất nông
sản hàng hoá, nhưng để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn thì người sản
xuất phải có sự hợp tác trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từng
hộ nông dân riêng lẻ không thể thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng một
cách có hiệu quả vì sản xuất nông nghiệp có đặc điểm riêng gắn liền với đất
đai, điều kiện tự nhiên, đặc điểm sinh học của các loại cây trồng…Điều này,
đòi hỏi việc chuyển đổi cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm phải gắn liền với
quá trình mở rộng các mối quan hệ hợp tác, liên kết, dồn đồng, đổi thửa
Mặt khác, sản xuất nông nghiệp có tính sinh lời thấp, rủi ro lớn nên muốn
chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả thì Nhà nước phải quy hoạch thành
các vùng chuyên môn hoá, vùng sản xuất hàng hoá gắn liền với việc khai thác
các lợi thế so sánh của vùng và luôn luôn đáp ứng nhu cầu thị trường. Bài học
đắt giá về cây Cà phê, cây Mía ở nước ta đã chỉ ra là người nông dân Việt
Nam vẫn sản xuất một cách tuỳ tiện, khi giá cao thì cung nhiều. Từ đó, dẫn
đến cung vượt cầu, làm cho lợi nhuận giảm, thậm chí còn lỗ. Vì vậy, người
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
nông dân phải chịu sự quy hoạch vùng của Nhà nước để có thể chuyển đổi cơ
cấu cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

1.4.Đô thị hoá và ảnh hưởng của nó đến chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Trước hết, ta phải hiểu được đô thị và đô thị hoá như thế nào từ đó mới
thấy được ảnh hưởng của nó.
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mức độ cao, chủ yếu là dân cư phi
nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước của
một miền, lãnh thổ, 1 tỉnh, 1 huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc huyện.
Đô thị hoá là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác
động đến đô thị hoá cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện
mới mà biểu hiện là sự tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao
động, cơ cấu kinh tế, hình thái kiến trúc…
Trong những năm tới, tốc độ đô thị hoá của nước ta diễn ra một cách
nhanh chóng, đô thị ngày càng mở rộng, đất đai sản xuất cho nông nghiệp
ngày càng thu hẹp để các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu xây dựng, mở
rộng và phát triển. Việc hình thành, các khu đô thị mới sẽ tạo nên một bước
chuyển cấp lớn, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư nói chung, tạo nên
cảnh quan mới văn minh, hiện đại hơn làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất
nước. Thực tế cho thấy, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với gần
80% dân số sinh sống ở nông thôn và gần 70% lao động làm việc trong ngành
sản xuất nông nghiệp. Tuy nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng nguồn
nhân lực rất thấp. Đây thực sự là một nguy cơ lớn khi quá trình công nghiệp
hoá và đô thị hoá diễn ra với tốc độ cao. Diện tích đất nông nghiệp mất đi sẽ
gây khó khăn rất lớn cho hàng triệu người nông dân. Họ mất đi tư liệu sản
xuất, phần đông nông dân không được đào tạo kịp thời một ngành nghề khác
với trình độ cao để chuyển đổi nghề nghiệp và như vậy sẽ mất đi cơ hội tham
gia và hưởng thụ thành quả của quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Vấn
đề này càng gay cấn hơn đối với những hộ thuần nông, thiếu vốn, lao động
già yếu, trình độ học vấn hạn chế. Từ đó, dẫn đến nhiều vấn đề trong xã hội (“
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT

nhàn cư vi bất thiện”). Đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến
chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nước ta nói chung và Từ Liêm nói riêng. Vì
vậy, phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng làm sao cho hiệu quả cao nhất trên một
đơn vị diện tích, khi mà đất đai ngày càng thu hẹp.
2. Xu hướng có tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu cây trồng
2.1. Xu hướng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là xu hướng vận động tất yếu của nền kinh tế nói chung
và nền nông nghiệp nói riêng, trong đó chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải
tuân thủ xu hướng vận động này. Trong quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế
hàng hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì phát triển nông nghiệp có
quan hệ chặt chẽ với công cuộc CNH-HĐH. Nhờ có công nghiệp hoá cho
phép nông nghiệp được thực hiện theo phương pháp sản xuất và quản lý mang
tính công nghiệp, nhờ có hiện đại hoá mà vùng nông thôn có thể tiến kịp
thành thị và sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao.
Phát triển sản xuất hàng hoá tạo nên sự năng động trong sản xuất kinh
doanh, đặt ra yêu cầu cải tiến nhanh về kỹ thuật canh tác, công nghệ sản xuất,
nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Phát triển sản xuất hàng hoá làm cho sự phân công lao động xã hội ngày càng
phát triển sâu sắc, chuyên hoá cao, hợp tác hoá, mối liên hệ giữa các vùng,
các ngành ngày càng chặt chẽ hơn và kết quả là đẩy mạnh được quá trình xã
hội hoá sản xuất và lao động. Sức sản xuất về hàng hoá có quy mô lớn, có ưu
thế về trình độ kỹ thuật và khả năng thoả mãn sức mua của xã hội.
Xu hướng phát triển cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Xu
hướng này phản ánh quy luật cung- cầu trong xã hội, có thể thấy rõ trên các
khía cạnh sau:
Một là, nhu cầu ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng sản phẩm từ
cây lương thực, cây thực phẩm và nhiều loại cây trồng khác.
Hai là, thị trường nông sản ngày càng mang tính xã hội hoá và quốc tế
hoá.
Ba là, CNH-HĐH có quan hệ tương tác mật thiết với nông nghiệp.

Bốn là, góp phần bảo vệ môi trường.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Tóm lại, Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là
một xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, đối với nước ta
hiện nay thì xu hướng này là một tất yếu khách quan khi mà nền nông nghiệp
nước ta còn ở trình độ thấp và lạc hậu như hiện nay.
2.2. Xu hướng phát triển gắn liền với công nghiệp chế biến
Khi xây dựng chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải gắn công nghiệp với nông
nghiệp. Thông qua công nghiệp chế biến làm tăng giá trị sản phẩm nông
nghiệp đến 60%, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, chất lượng mẫu mã ngày
càng tốt của người tiêu dùng. Vì vậy, góp phần làm tăng thu nhập, đời sống
của người nông dân ngày được cải thiện và tránh hao hụt sản phẩm nông
nghiệp. Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần phải quan tâm để gắn vùng sản xuất
nông nghiệp tập trung với công nghiệp chế biến.
2.3. Xu hướng phát triển nền nông nghiệp bền vững
Xây dựng một nền nông nghiệp bền vững đó là xu hướng tất yếu của tiến
trình phát triển. Nội dung của nền nông nghiệp bền vững là:
Một nền nông nghiệp sạch biết hạn chế tối đa việc sử dụng các hoá chất có
hại cho môi trường, môi sinh và sức khoẻ của con người, kết hợp hài hoà việc
phát triển sản xuất với bảo vệ và tôn tạo môi trường.
Một nền nông nghiệp phát triển bồi dưỡng và sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên của nông nghiệp, đặc biệt là đất đai và nguồn nước.
Một nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao biết kết hợp hài hoà giữa
việc sử dụng các công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học như giống
mới với kinh nghiệm truyền thống sản xuất của người nông dân để tạo ra sản
phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt cung cấp cho xã hội.
Một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng và vật nuôi hợp lý, phù hợp với
đặc điểm và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng.
Hội nghị về năng suất xanh đã diễn ra tại Hà Nội, các nhà khoa học đã
đánh giá cao về vấn đề bảo vệ môi trường của Việt Nam, nhưng trong thời

gian tới Việt Nam cần phải giải quyết một số vấn đề về bảo vệ môi trường và
tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
IV. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
CÂY TRỒNG
1.Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo thực
hiện có kết quả cao nhất những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nhất định với chi phí
nhỏ nhất.
2.Khái niệm về hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng là kết quả so sánh giữa các chỉ tiêu
kết quả và chỉ tiêu hao phí, hoặc thước đo trình độ tổ chức sản xuất và mức độ
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể: của hoạt động sản xuất trồng trọt.
3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chuyển dịch
Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế phải được
tính toán một cách thích hợp. Vì nói đến cơ cấu cây trồng là nói đến việc bố
trí các loại cây trồng trên từng loại đất cụ thể. Mỗi loại cây trồng đều ứng với
một diện tích gieo trồng nhiều khi quyết định quy mô, số lượng và cơ cấu cây
trồng của ngành trồng trọt. Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải đảm
bảo được giá trị mục tiêu quan trọng: thu nhập và lợi nhuận của cơ cấu cây
trồng mới tất yếu phải lớn hơn thu nhập và lợi nhuận của cây trồng cũ. Mặt
khác, khi đánh giá hiệu quả kinh tế của chuyển dịch cơ cấu cây trồng có thể
dựa vào một số chỉ tiêu như: năng suất đất đai, hiệu quả vốn đầu tư, tổng sản
lượng, giá thành và thu nhập, mức lãi của các sản phẩm sản xuất ra, năng suất
lao động Tuy nhiên, việc đánh giá này rất phức tạp và cần phải có thời gian
và công sức, nó chỉ đánh giá được một cách tương đối.
+Năng suất đất đai: là số lần gieo trồng được trên một đơn vị diện tích
trong một năm, hệ số gieo trồng càng lớn biểu hiện năng suất đất đai đạt cao.
+Năng suất cây trồng chính: Là sản lượng mà loại cây trồng đem lại tính
trên một đơn vị diện tích gieo trồng.

+Năng suất lao động: được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng lao
động sống trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Năng suất lao
động phản ánh lượng sản phẩm mà mỗi lao động tạo ra trong một đơn vị thời
gian.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
+Hiệu quả đầu tư vốn: hiệu quả chi phí vật chất biểu hiện kết quả thu
được của hoạt động sản xuất kinh doanh tương ứng với mức chi phí đã bỏ ra.
+Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp là toàn bộ tổng sản phẩm giá trị vật
chất và dịch vụ do lao động nông nghiệp sáng tạo ra trong một thời gian nhất
định thường là 1 năm.
+Giá trị sản xuất hàng hoá và tỷ suất lợi nhuận.
Trên đây, là một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế của
chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Ngoài hiệu quả về mặt kinh tế còn có hiệu quả
về mặt xã hội như khi chuyển dịch cơ cấu cây trồng là giải quyết được bao
nhiêu việc làm cho lao động nông thôn, giá nhân công lao động, giá các loại
dịch vụ thị hiếu người tiêu dùng… Đời sống của người dân có tăng lên hay
giảm đi, các vấn đề an ninh chính trị có được giải quyết hay không.
Hiệu quả về mặt môi trường: Khi chuyển dịch cơ cấu cây trồng, môi
trường có được cải thiện không, đất đai và nguồn nước có bị ô nhiễm không,
sức khoẻ con người có bị ảnh hưởng không, các loại hoá chất đã sử dụng ít đi
chưa, số lượng cây xanh có tăng không.
Tóm lạị, khi đánh giá hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu cây trồng chúng ta
phải xem xét đánh giá một cách toàn diện để không bỏ sót các chỉ tiêu. Từ đó,
chúng ta có thể chuyển dịch cây trồng có hiệu quả nhất.
V. KINH NGHIỆM VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG
1. Kinh nghiệm nghiên cứu ở nước ngoài
Hiện nay, vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi là một vấn đề lớn
mang tính thực tiễn và tính luận cao. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vấn
đề này qua nhiều năm và đã đưa ra một số giải pháp phù hợp với đặc điểm, vị
trí địa lý của từng vùng, từng nước. Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đưa

nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, theo nhóm tác
giả PL. Pluekent, EJ. Rice, Bursill, HH. Fisher thì: “ Nghiên cứu hệ canh tác
trên đồng ruộng của nông dân là cần thiết và cấp bách. Muốn đạt hiệu quả cao
nhất thì phần nghiên cứu phải được tiến hành trên đồng ruộng của nông dân
chứ không phải trên các trại thí nghiệm”.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Việc nghiên cứu hệ thống canh tác được tiến hành theo nhiều chiều hướng
với nhiều nội dung khác nhau, một trong những nội dung nó là vấn đề tăng
vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo thêm nhiều công ăn việc làm
tăng thu nhập ở một số nước phải đối phó với tình trạng thiếu đất, thừa lao
động nhất là các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở các nước châu Á đã đạt được
nhiều thành tích đáng kể. Theo OShia, ở các nước Châu Á năm 1950 đã đạt
được nhiều thành tích đáng kể, tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp chiếm 20%
tổng sản phẩm xã hội thì đến năm 1980 giảm xuống còn 6% tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp ở thời điểm tương ứng là 34,9%, xuống còn 13,7%. Khu
vực Đông Nam Á giảm chậm hơn, tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp từ 43,7%
(1950) xuống 25,7% (1980) và tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 72,1% xuống
còn 55,9% ở thời điểm tương ứng.
Kinh nghiệm của Inđônêxia: bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp như kết
hợp trồng trọt, chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thuỷ hải sản, dùng các giống
cây trồng có năng suất cao, đa dạng hoá cây trồng thích hợp trên từng loại đất
trong vòng 9 năm (1975 - 1984) đã có được những thay đổi đáng kể trong đó,
thay đổi mạnh về cơ cấu cây trồng theo chiều hướng tích cực, cụ thể là trước
năm 1975 có 64% diện tích bỏ hoang hoá sau một vụ lúa chỉ còn 32% diện
tích là hai vụ lúa, 69% diện tích đã làm hai hoặc ba vụ.
Kinh nghiệm của Thái Lan: trước năm 1970 hệ canh tác hai vụ một
năm( một vụ lúa nước, một vụ màu hoặc lúa cạn) là phổ biến. Đến năm 1971
vấn đề tăng vụ được nông dân áp dụng một cách mạnh mẽ, tỷ lệ diện tích
trồng ba vụ trong năm tăng nhanh chiếm tới 68% và đến năm 1973 là 85%.

Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước lớn có nhiều điểm tương đồng với nước ta, đang
dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Quan điểm xuyên suốt
của Trung Quốc là coi trọng nông nghiệp trên cơ sở khai thác các lợi thế so
sánh, coi sản xuất lương thực là cơ sở của nông nghiệp. Trung Quốc luôn đặt
lương thực lên vị trí hàng đầu và tập trung đảm bảo mọi mặt cho sản xuất
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
nông nghiệp phát triển như: thuỷ lợi, giống mới, cơ sở hạ tầng nông thôn…
Mở mang phát triển các ngành nghề. Đây là, điểm cơ bản trong chính sách đối
với sản xuất nông nghiệp mà Trung Quốc đã thực hiện trong thời gian qua.
Trung Quốc chủ trương thi hành những biện pháp chủ yếu sau:
-Ổn định diện tích gieo trồng cây lương thực.
-Nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích bằng con đường thâm canh, xây
dựng các vùng lương thực hàng hoá trọng điểm. Nhà nước thi hành chính
sách các vùng sản xuất trọng điểm hàng hoá, đặt ra các chính sách ưu đãi để
giải quyết tốt các vấn đề cơ chế đầu tư, thực hiện tốt chính sách an ninh lương
thực.
-Điều chỉnh hợp lý giữa lợi ích giữa các vùng, các khu vực sản xuất. Đối
với các vùng sản xuất lương thực chủ yếu, họ đã chủ trương thi hành các biện
pháp đảm bảo lợi ích cho người nông dân để họ gắn bó với đồng ruộng. Mọi
vùng địa phương căn cứ vào điều kiện của mình sau khi đảm bảo lương thực
và có sự điều chỉnh cơ cấu hợp lý.
Tóm lại, Nhờ có đường lối, chính sách đúng đắn trong việc điều chỉnh cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, họ đã phát triển nền nông nghiệp một
cách toàn diện và đúng hướng, làm cho bộ mặt nông thôn Trung Quốc thay
đổi một cách nhanh chóng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
cải thiện rõ rệt.
2. Kinh nghiệm trong nước
Đối với nước ta, để hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn

hợp lý. Chúng ta chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên cơ sở chuyên môn hoá,
hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất, trên cơ sở đa dạng hoá và phát
triển tổng hợp, phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương
trước hết, là lợi thế về điều kiện tự nhiên ( thời tiết, khí hậu, đất đai ), kinh tế
và xã hội…
Để cơ cấu cây trồng mới, có tổng giá trị sản lượng cao hơn cơ cấu cây
trồng cũ, có hai phương hướng cơ bản là: tăng năng suất cây trồng hoặc tăng
vụ trong một năm. Ở nước ta việc nghiên cứu thực nghiệm và đưa vào sản
xuất một số giống lúa mới ngắn ngày, năng suất cao, đã mở ra một khả năng
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
mới: tăng vụ đông, làm cho diện tích cây trồng cũng như sản lượng cây trồng
trong một năm tăng lên đáng kể.
Đồng Bằng Sông Cửu Long có một ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc
phát triển cây lương thực chủ yếu là lúa gạo để xuất khẩu, trong khi đó vùng
Đồng Bằng Sông Hồng lại có ý nghĩa trong việc phát triển cây trồng xuất
khẩu vụ đông đặc biệt là các loại rau đậu cao cấp còn việc nuôi trồng thuỷ hải
sản có thể tìm thấy khả năng to lớn này ở các tỉnh Duyên Hải Miền Trung.
Mặt khác, vùng trung du và miền núi của cả hai miền đất nước lại hướng vào
phát triển xuất khẩu một số cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn quả,
rừng, những đặc sản từ rừng: cà phê, hồ tiêu, cao su, chè, lạc, đậu tương, cam,
dứa chuối, cây dược liệu
Theo giáo sư viện sỹ Đào Thế Tuấn, có hai hướng sử dụng tốt nguồn khí
hậu của mùa đông ở vùng đồng bằng và các tỉnh phía Bắc là: trồng các cây có
nguồn gốc xứ lạnh như: khoai tây, cải bắp, xu hào hoặc chọn các cây xứ
nóng ngắn ngày như: ngô, đậu tương chịu được lạnh để trồng các vụ đông.
Cây vụ đông không những làm tăng hiệu quả kinh tế, tăng tổng sản lượng của
cơ cấu cây trồng mà nó còn có tác dụng bảo vệ và bồi dưỡng đất.
Tác giả Lê Trọng Cúc cho rằng xen giữa cây lương thực và cây họ đậu cho
sản lượng tổng hợp cao hơn và cải tạo đất đai tốt.
Tác giả Phạm Chí Thành cho rằng khi nghiên cứu đất đồi gò tỉnh Hà Tây

cho thấy chúng ta có đủ điều kiện để kiến tạo nên những hộ canh tác có hiệu
quả kinh tế cao, sinh thái cao, thay thế diện tích đất trồng đồi núi trọc.
Thực trạng tình hình chuyển cơ cấu kinh tế ở nước ta những năm qua đã
theo chiều hướng tích cực, nhưng còn chậm và chưa phát huy hết thế mạnh
của từng vùng. Một là, trong ngành trồng trọt có các tiểu ngành sản xuất cây
lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau và hoa, cây dược liệu đã có sự
phát triển khá. Tuy nhiên, so với sản xuất lương thực thì nó vẫn chiếm tỷ lệ bé
nhỏ, nước ta về cơ bản vẫn là trồng cây lương thực, trong đó chủ yếu là sản
xuất lúa gạo. Điều này đặt ra cho nước ta nhiều vấn đề phải giải quyết trong
những năm tới. Hai là, chúng ta có thể chuyển dịch chăn nuôi và nuôi trồng,
đánh bắt thuỷ hải sản. Kinh nghiệm là để có một cơ cấu chăn nuôi hợp lý, đổi
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
mới và hợp với xu thế phát triển của nhu cầu thị trường trong ngành chăn nuôi
thì phát triển nhanh đàn bò theo hướng lấy thịt, sữa. Phát triển mạnh đàn lợn
theo hướng lạc và mở rộng chăn nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp. Phải
quan tâm đúng mức đến nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản vì đây là ngành
tiềm năng còn rất lớn. Chỉ có theo hướng đó chúng ta mới có thể phát triển
ngành chăn nuôi nước ta.
3. Những kinh nghiệm được rút ra
Nước ta hiện nay, đang trong công cuộc CNH - HĐH đất nước. Với những
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã làm cho
nền kinh tế nước ta nói chung và nền nông nghiệp nói riêng có những bước
phát triển đáng kể. Nền nông nghiệp nước ta đang chuyển dần sang nền nông
nghiệp mang tính chất sản xuất hàng hoá. Vì vậy, khi nghiên cứu chuyển dịch
cơ cấu cây trồng phải phù hợp với mỗi vùng sản xuất, chúng ta phải chú trọng
đến những cây trồng mà sản phẩm có sức tiêu thụ lớn, giá trị sản phẩm cao,
nhằm tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, góp phần ổn định và cải thiện tốt
đời sống nông thôn.
-Chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải xuất phát từ những mối quan hệ hữu
cơ, của các yếu tố nội tại trong hệ thống nông nghiệp.

-Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải phù hợp với đặc điểm của từng
vùng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của từng vùng trên cơ sở
khai thác những lợi thế so sánh của vùng nước đó để phát huy tối đa sức mạnh
tổng hợp của từng vùng, từng địa phương, từng nước, sử dụng nhân lực, vật
lực một cách có hiệu quả cao. Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp
nhiệt đới gió mùa so với một số nước trên thế giới có đặc thù riêng, rất đa
dạng và phong phú. Phát triển không chỉ tập trung cho một ngành nào đó, lại
càng không thể tách rời giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất và lưu
thông. Nếu chỉ tập trung cho trồng trọt mà xem nhẹ chăn nuôi thì quá trình
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sẽ khập khiễng và không phát triển. Vì vậy,
trong những năm tới chúng ta cần chuyển dịch cơ cấu cây trồng đi vào những
loại cây ăn quả, cây dựợc liệu có giá trị kinh tế cao. Đồng thời, phát triển
chăn nuôi và đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
-Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nói riêng và cơ cấu kinh tế nông nghiệp
là một quá trình mang tính khách quan, tính lịch sử và tính biến đổi và liên hệ
biện chứng của các yếu tố cây trồng, con người, tự nhiên theo hướng ngày
càng hoàn thiện, hiệu quả. Cơ cấu cây trồng cũ không phù hợp dần chuyển
thành cơ cấu cây trồng mới phù hợp hơn và cứ như vậy thành một quá trình
vận động liên tục. Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở một vùng hoặc
một tiểu vùng sinh thái diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó phải kể đến sự tác động trực tiếp và rất quan trọng của chủ thể lãnh
đạo, và quản lý. Những chủ thể đó hoàn toàn có thể chủ động cho quá trình
chuyển dịch diễn ra nhanh hơn theo hướng có lợi cho con người.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về cơ cấu cây
trồng ở mỗi vùng sinh thái khác nhau đã giúp cho người nông dân Việt Nam
sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên (đất đai, khí hậu )
cũng như các nguồn lực về kinh tế xã hội (vốn, lao động ) là tăng hiệu quả
sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY

TRỒNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ HUYỆN TỪ
LIÊM NHỮNG NĂM VỪA QUA
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI CỦA HUYỆN TỪ LIÊM CÓ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Huyện Từ Liêm nằm ở phía Tây nội thành Hà Nội, giáp với các quận Tây
Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân và cách trung tâm Thủ Đô Hà nội ( Hồ Hoàn
Kiếm ) 10 km. Phía Bắc Từ Liêm là một đoạn Sông Hồng ngăn cách với
huyện Đông Anh, phía Tây và Nam Từ Liêm giáp với các tỉnh Hà Tây.
Từ thị trấn Cầu Diễn trung tâm của Từ Liêm, theo đường Thăng
Long( đường vành đai 3 của Hà Nội) ngược Đông Anh 10 km sẽ tới sân bay
quốc tế Nội Bài. phía Nam 5 km là thị xã Hà Đông. Phía Tây theo đường 32
là thị gần 25 km là thị xã Sơn Tây.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Với vị trí địa lý thuận lợi Từ Liêm có nhiều lợi thế so sánh trong các hoạt
động kinh tế giao lưu thương mại nói chung và sản xuất nông nghiệp nói
riêng.
1.2. Khí hậu
Nằm trong vùng Đồng Bằng Sông Hồng, Từ Liêm có sắc thái đặc trưng
của khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí
hậu nóng ẩm, nhiều mưa. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh
và khô nhưng nửa mùa sau thường có mưa phùn và ẩm ướt. Giữa hai mùa là
thời kỳ chuyển tiếp và như vậy tạo cho Từ Liêm - Hà Nội có 4 mùa: Xuân -
Hạ - Thu - Đông.
Do Từ Liêm có, dải Sông Hồng và Tây Hồ bao bọc Phía Bắc, Đông- Bắc
và cũng như còn khá nhiều hồ, đầm nằm rải rác cùng với lớp thảm thực vật
khá phong phú đã có tác dụng hạn chế những biến động cực đoan, bất lợi của
thời tiết khí hậu đối với con người và sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
huyện.

Từ Liêm nằm trong khu vực có nền nhiệt độ khá cao và khá đồng đều.
Nhiệt độ trung bình năm đạt 23 - 24
0
C, tổng nhiệt độ hàng năm là 8500 -
8700
o
C. Hai tháng 6 và 7 là nóng nhất, nhiệt độ trung bình cao nhất rơi vào
tháng 7 với nhiệt độ xấp xỉ 29
0
C nhưng nhiệt độ tối cao trung bình lại rơi vào
tháng 6 với nhiệt độ 32 - 33
0
C. Nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 17
0
C,
tháng lạnh nhất là 1, nhiệt độ tới thấp trung bình là 13
0
C. Nhiệt độ tới thấp
tuyệt đối tới 2,7
0
C. Biên độ nhiệt trong năm khoảng 12
0
C - 13
0
C, Biên độ giao
động ngày đêm khoảng 6
0
C - 7
0
C, ẩm độ trung bình tương đối hàng năm là

82
0
C, dao động trong khoảng 78
0
C - 87
0
C.
Lượng mưa trung bình hàng năm trong huyện Từ Liêm khoảng 1600 -
1800 (mm). Số ngày mưa trong năm là 140 - 145 (ngày). Mùa mưa kéo dài từ
tháng 5 tới tháng 10 tập trung tới 85% lượng mưa toàn năm (1530 mm). Mưa
lớn nhất vào tháng 8 trùng với thời điểm có nhiều bão nhất và với 8 - 18 ngày
mưa, lượng mưa trung bình tháng 8 là 300 - 350 (mm). Mưa mùa hạ phần lớn
là mưa giông, mưa rào, có cường độ mưa lớn và tập trung.
Vào mùa đông có rất ít mưa vào những tháng đầu mùa (tháng 11,12,1) nửa
cuối mùa đông có mưa phùn ẩm ướt. Hướng gió chủ yếu trong năm là Đông
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KTNN& PTNT
Nam - Tây Bắc tốc độ 3 m/s. Mùa đông có hướng gió Đông Bắc - Tây Nam
tốc độ gió 1,5 - 2 (m/s). Bão từ biển Đông vào Từ Liêm đã vượt qua 100 (km)
nên cũng giảm bớt vận tốc, giảm bớt tác hại đối với con người và sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn.
1.3. Thuỷ văn và nguồn nước
Thuỷ văn: Sông Hồng đoạn chảy qua Từ Liêm dài 7,5 (km) các tác dụng
quan trọng về giao thông và là nguồn nước tưới tiêu đặc biệt quan trọng cho
sản xuất nông nghiệp của vùng Đồng Bằng Sông Hồng nói chung và Từ Liêm
nói riêng.
Ngoài đoạn Sông Hồng ở phía Bắc Từ Liêm còn có Sông Nhuệ chảy dọc
theo hướng Bắc – Nam. Đây là sông đào nhận nước của Sông Hồng qua cống
Liên Mạc cung cấp nước tưới sản xuất nông nghiệp cho cả một vùng rộng của
ngoại thành Hà Nội và một số huyện của Hà Tây, Hà Nam. Đồng thời, Sông
Nhuệ cũng là sông tiêu thụ lượng nước thừa trên đồng ruộng trong mùa mưa

của các địa bàn nêu trên.
Chế độ thuỷ văn của hệ thống sông trên địa bàn huyện Từ Liêm có hai
mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ trùng vào mùa mưa, thường kéo dài từ
tháng 5 đến tháng 10 vào thời điểm xuất hiện các đợt lũ nước cao trung bình
từ 9 - 12 (m) (cá biệt năm 1971 mức nước lên đến 14,113 (m).
Từ Việt Trì xuôi xuống hạ lưu, lũ Sông Hồng bị chi phối bởi 3 Lũ hợp lưu
trong đó Sông Đà chiếm 41 - 61%, Sông Lô: 20 - 34%, sông Thao 15 - 20%.
Vào những năm có lũ trùng nhau của 2 hay 3 sông thì sẽ xuất hiện ngọn lũ lớn
trên Sông Hồng, đe doạ nghiêm trọng đời sống và sản xuất của Từ Liêm cũng
như toàn vùng Đồng Bằng Sông Hồng.
Mùa cạn Sông Hồng từ tháng 11 đến tháng 5 cạn nhất là tháng 3 (26%
tổng lưu lượng cả năm). Mực nước sông thấp làm song hẹp, vùng đất bán
ngập ngoài đê điều đều đạt năng suất khá cao với suất đầu tư không cao nhờ
phù sa sau lũ.
Chất lượng nguồn nước
Tổng lượng phù sa Sông Hồng rất lớn (94,46.10
6
tấn / năm). Hàm lượng
phù sa đo tại Sơn Tây trung bình năm là 1.31kg/m
3
nước (mùa lũ: 3,0 - 3,5
kg/m
3
, mùa cạn 0,5kg/m
3
).

×