Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "VỀ KHÁI NIỆM CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.7 KB, 20 trang )

VỀ KHÁI NIỆM CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ
NGUYỄN TRUNG TÍN
Cán bộ Viện NC Nhà nước và Pháp luật

Trong số các văn bản pháp luật về công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài kinh tế ở Việt Nam
hiện nay chúng ta mới có Pháp lệnh Công nhận và thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước
ngoài năm 1995 mà chưa có các quy định về việc
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
kinh tế trong nước. Trong các bản Dự thảo Pháp lệnh
vềtrọng tài hiện nay ở nước ta, vấn đề này đã được đề
cập.
Bài viết này nhằm mục đích làm sáng tỏ khái niệm
công nhận và thi hành quyết định của trọng tài kinh tế
với mong muốn góp phần vào việc soạn thảo Pháp
lệnh về trọng tài hiện nay ở nước ta.
Quyết định của trọng tài kinh tế được đề cập ở đây là
quyết định cuối cùng (quyết định về thực chất vụ
việc)(1 ). Để làm sáng tỏ khái niệm công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài kinh tế, cần phải xác
định rõ các vấn đề sau:
- Thế nào là công nhận quyết định của trọng tài kinh
tế?
- Thế nào là thi hành quyết định của trọng tài kinh tế?
- Thế nào là công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài kinh tế?
- Có quyết định trọng tài kinh tế chỉ cần công nhận
mà không cần thi hành hay không?
- Có quyết định trọng tài kinh tế vừa cần công nhận


và vừa cần thi hành không?
- Mục đích công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài kinh tế là gì?
- Khái niệm công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài kinh tế khác với khái niệm công nhận và thi
hành quyết định của tòa án kinh tế như thế nào?
- Việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
kinh tế được tiến hành ở đâu?
1. Định nghĩa về công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài kinh tế
“Công nhận” theo Từ điển Tiếng Việt là sự thừa nhận
trước mọi người một điều gì đó là phù hợp với sự
thật, với lẽ phải hoặc với thể lệ, luật pháp. Trong khi
đó, “Thi hành” là việc làm cho điều gì đó trở thành
hiệu lực (được thực hiện trên thực tế) điều đã được
chính thức quyết định(2 ). Quyết định của trọng tài
trên thực tế chỉ liên quan tới các bên tranh chấp,
trong đó bên bất lợi trong việc công nhận và thi hành
quyết định ấy phải thực hiện những hành vi nhất định
mà anh ta không mong muốn trước khi đưa tranh
chấp ra trọng tài. Thế nhưng vấn đề đặt ra là bên bị
bất lợi đó (nguyên đơn hoặc bị đơn) có phải là người
công nhận và thi hành quyết định đó hay không? Nếu
có, thì sự công nhận như vậy được thể hiện như thế
nào? Về mặt pháp lý và thực tiễn hoạt động của trọng
tài, quyết định của trọng tài có thể được thực thi theo
một trong hai cách sau đây:
- Người bị bất lợi trong việc thi hành quyết định đó tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo yêu cầu của
quyết định (ví dụ, trả một khoản tiền, làm một công

việc, trả lại tài sản, giao hàng hóa khác có chất lượng
tốt hơn…);
- Người đó không tự nguyện thực hiện mà chỉ thực
hiện khi bị cưỡng chế.
Vậy trường hợp người đó tự nguyện thực hiện thì có
phải là người đó công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài hay không? Rõ ràng theo định nghĩa về
“công nhận” và “thi hành” trên thì hành vi tự nguyện
thực hiện như vậy cũng là việc công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài. Việc tự nguyện thực hiện ở
đây có thể do vì bên bất lợi hoàn toàn đồng ý với
quyết định của trọng tài, hoặc do bên đó bị đe dọa bởi
áp lực thương mại hoặc các áp lực khác của bên có
lợi trong việc công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài hoặc của các bên thứ ba. Tuy nhiên trong
các trường hợp như vậy, việc công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài không đặt ra vấn đề nan giải,
do vậy, trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật cũng như
trong khoa học pháp lý, các trường hợp đó ít được đề
cập.
Vấn đề còn lại ở đây là trong trường hợp người đó
không tự nguyện thực hiện thì sự công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài được hiểu như thế nào?
Rõ ràng đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực pháp luật
mang tính chất dân sự, cho nên trong trường hợp này
chỉ có thể đặt ra những sự kiện pháp lý liên quan đến
vấn đề cưỡng chế thi hành. Sự cưỡng chế này không
thể do bên có lợi trong việc công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài hoặc bản thân trọng tài thực
hiện. Bởi vì bên đó và trọng tài đều không phải là

người thực thi quyền lực Nhà nước. Như vậy, để cho
quyết định được thi hành trên thực tế thì sự công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài chỉ có thể
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (thường là Tòa
án) thực hiện(3 ). Thực tiễn điều chỉnh pháp luật và
trong khoa học pháp lý đều thống nhất rằng việc công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài là một giai
đoạn trong tố tụng dân sự theo nghĩa rộng. Trong đó
việc Tòa án xét công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài đóng một vai trò quan trọng nhất. Như
vậy, nếu coi việc công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài như một khâu quan trọng của chế định
trọng tài, thì nó là tổng thể các nguyên tắc và quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan tới
việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Nhưng nếu xét khái niệm công nhận quyết định của
trọng tài theo đúng nghĩa của nó (theo khái niệm về
mặt thuật ngữ như trên chúng tôi đã đề cập) thì đó là
hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa
nhận quyết định của trọng tài đã có hiệu lực pháp
luật. Và thi hành quyết định của trọng tài được hiểu
là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm cho
quyết định của trọng tài được thực hiện trên thực tế.
Một vấn đề khác đặt ra là có trường hợp nào quyết
định của trọng tài chỉ cần Tòa án có thẩm quyền công
nhận mà không cần thi hành hay không? Hoặc ngược
lại, có trường hợp nào Tòa án có thẩm quyền chỉ cần
thi hành mà không cần công nhận quyết định của
trọng tài? Thực tế cho thấy đối với bên bất lợi trong
việc thi hành quyết định của trọng tài cũng như quyết

định của Tòa án thì có trường hợp họ vừa công nhận
và vừa thi hành quyết định, nhưng lại có trường hợp
dù họ tự nguyện thi hành nhưng trên thực tế họ không
công nhận quyết định của trọng tài là phù hợp với
pháp luật. Song đối với Tòa án có thẩm quyền thì
không thể có chuyện: Tòa án chỉ thi hành quyết định
của trọng tài một cách cưỡng bức mà lại không công
nhận quyết định đó. Bởi thi hành quyết định của
trọng tài trước Tòa án có thẩm quyền chỉ đặt ra sau
khi Tòa án đó đã công nhận. Hay nói cách khác nếu
Tòa không công nhận quyết định của trọng tài thì Tòa
sẽ không ra quyết định cho thi hành.
Hai thuật ngữ “công nhận” và “thi hành” quyết định
của trọng tài thường được sử dụng cùng nhau; tuy
nhiên, trên thực tế chúng có thể được sử dụng một
cách riêng rẽ. Điều này có nghĩa là thuật ngữ “công
nhận” và thuật ngữ “thi hành” quyết định của trọng
tài mặc dù có sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau nhưng
cũng có thể được sử dụng với những hàm ý khác
nhau. Một quyết định trọng tài có thể được công nhận
nhưng lại không được thi hành. Trong khi đó nếu một
quyết định của trọng tài đã được thi hành có nghĩa là
nó đã được công nhận. Trong việc công nhận quyết
định của trọng tài được đặt ra trước một Tòa án, bên
yêu cầu công nhận thường cho rằng tranh chấp đã
được trọng tài giải quyết theo quy trình của pháp luật
và Tòa án có thẩm quyền cần ra quyết định công
nhận nó. Trường hợp này thường đặt ra khi quyết
định của trọng tài đề cập một số vấn đề tranh chấp
chứ không phải tất cả. Vì vậy, bên có lợi chỉ yêu cầu

Tòa án có thẩm quyền công nhận những vấn đề mà
trọng tài đã giải quyết chứ không yêu cầu Tòa án ra
quyết định thi hành cưỡng bức quyết định của trọng
tài về những vấn đề đó, để tránh tình trạng khỏi phải
xem xét lại bằng trọng tài hoặc một phương thức giải
quyết tranh chấp khác. Như vậy, trong trường hợp
này, vấn đề đặt ra là quyết định của trọng tài chỉ cần
công nhận mà không cần thi hành. Về việc này chúng
ta có thể lấy một ví dụ như sau: Công ty A và Công
ty B ký hợp đồng hợp tác sản xuất hàng xuất nhập
khẩu bao gồm một loạt các hợp đồng liên kết sản
xuất và hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, các tranh chấp
về hợp đồng liên kết sản xuất đã được giải quyết
bằng trọng tài và trọng tài đã ra quyết định (giả dụ
quyết định đã bác yêu cầu của nguyên đơn), còn
tranh chấp về tiêu thụ thì chưa được trọng tài giải
quyết. Công ty A yêu cầu Tòa án công nhận quyết
định của trọng tài liên quan tới tranh chấp về hợp
đồng liên kết sản xuất để tránh tình trạng Công ty B
lại đưa tranh chấp đó ra Tòa án hoặc trọng tài giải
quyết (giả dụ ở các quốc gia nơi quyết định của trọng
tài được coi là chung thẩm).
Trong khi đó, việc thi hành quyết định của trọng tài
không chỉ là việc công nhận hiệu lực của quyết định
trọng tài mà còn bao gồm cả việc đưa quyết định vào
cuộc sống (đảm bảo thực thi quyết định trên, kể cả
trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế). Do
vậy, nếu Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định cho
thi hành quyết định của trọng tài thì có nghĩa là Tòa
án đã công nhận hiệu lực của quyết định đó. Song

nếu Tòa án chỉ ra quyết định công nhận giá trị pháp
lý của quyết định trọng tài (công nhận quyết định
trọng tài là phù hợp với yêu cầu của pháp luật) thì
không có nghĩa là bao gồm cả quyết định của Tòa án
về việc cho thi hành quyết định trên.
2. So sánh khái niệm công nhận và thi hành giữa
quyết định Tòa án với quyết định trọng tài, giữa
quyết định trọng tài trong nước với quyết định trọng
tài nước ngoài
Để làm sáng tỏ khái niệm công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài kinh tế, vấn đề tiếp theo ở
đây là về mặt khái niệm, việc công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài giống và khác gì với việc
công nhận và thi hành quyết định của Tòa án. Trước
hết giữa chúng có các điểm giống nhau sau:
- Có thể được bên bất lợi trong việc thi hành các
quyết định đó tự nguyện công nhận và thi hành, hoặc
chỉ tự nguyện thi hành;
- Trong trường hợp bên phải thi hành không tự
nguyện thực thi quyết định, Tòa án phải ra quyết định
cưỡng bức thi hành (đối với quyết định của Tòa án
nước ngoài).
Tuy nhiên giữa chúng cũng có những điểm khác nhau
rất rõ nét. Đó là:
- Thứ nhất: đối với quyết định của Tòa án thì việc ra
phán quyết của Tòa án chính là việc Tòa án công
nhận phán quyết đó (đối với quyết định của Tòa án
trong nước). Và quyết định đó đương nhiên có hiệu
lực thi hành nếu không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời gian và thủ tục do pháp luật quy định (trừ

trường hợp quyết định đó cần được thực thi ở nước
ngoài). Trong khi đó đối với quyết định của trọng tài,
việc công nhận và thi hành luôn đặt ra trước Tòa án
có thẩm quyền trong trường hợp người bị bất lợi
không công nhận và không tự nguyện thi hành quyết
định đó.
- Thứ hai: việc công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài được tiến hành theo các điều kiện, thủ tục và
trình tự tố tụng riêng biệt so với các điều kiện, thủ tục
và trình tự tố tụng trong việc công nhận và thi hành
quyết định của Tòa án.
- Thứ ba: trong tố tụng ở Tòa án, việc kháng cáo về
mặt nội dung đối với quyết định của Tòa án là có thể
được, trong khi đó việc kháng cáo như vậy đối với
quyết định của trọng tài, theo khuynh hướng chung là
không được trừ trường hợp quyết định bị kháng cáo
về mặt thủ tục.
Ngoài ra khái niệm công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài kinh tế trong nước cũng khác với khái
niệm công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
kinh tế nước ngoài. Sự khác nhau ở đây chủ yếu là ở
chỗ, nếu như việc công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài kinh tế trong nước là hành vi của các cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia sở tại, thì việc công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài kinh tế
nước ngoài, còn được hiểu ở nghĩa, là hành vi của
chính quốc gia sở tại (trên cơ sở hoạt động tương trợ
tư pháp)(4 ).
3. Mục đích và nơi công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài kinh tế

a. Mục đích của việc công nhận và thi hành quyết
định của trọng tài kinh tế
Mục đích của việc công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài được thể hiện ngay trong mục đích của
các bên khi đưa tranh chấp ra trọng tài. Tuy nhiên
nếu tách rời phần “công nhận” ra khỏi phần “thi
hành” thì chúng ta thấy giữa chúng có sự khác biệt về
mục đích. Đối với công nhận, mục đích ở đây thể
hiện ở chỗ, sự công nhận được sử dụng nhằm ngăn
ngừa trường hợp một bên tranh chấp kia lại kiện cáo
tiếp về chính vụ việc đã được trọng tài giải quyết.
Trong khi đó việc thi hành lại đóng vai trò như một
công cụ hữu hiệu để buộc bên thua kiện phải thực
hiện những hành vi bất lợi cho mình mà bên đó đã
không tự nguyện thực thi. Việc cưỡng chế bên phải
thực hiện quyết định của trọng tài có thể bằng nhiều
cách khác nhau (như tịch thu tài sản, phong tỏa tài
sản ngân hàng…).
b. Nơi công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
kinh tế
Việc thi hành quyết định của trọng tài (cũng như thi
hành quyết định dân sự của Tòa án) thường nhằm vào
tài sản của bên thua kiện. Nếu tài sản tọa lạc ở một
quốc gia thì sự chọn lựa có lẽ là không cần thiết, song
trên thực tế có thể có trường hợp tài sản đó ở hai hoặc
nhiều quốc gia thì bên thắng kiện chắc chắn sẽ phải
chọn một trong các quốc gia trên (có trường hợp một
quốc gia) để tiến hành thủ tục yêu cầu công nhận và
thi hành quyết định của trọng tài. Việc xác định nơi
có tài sản của bên thua kiện để phục vụ cho việc công

nhận và thi hành quyết định của trọng tài không chỉ
đặt ra đối với trọng tài thương mại quốc tế mà còn đặt
ra cả với trọng tài trong nước. Song thông thường đối
với trọng tài trong nước, (những vụ tranh chấp không
mang tính quốc tế), tài sản của bên thua kiện thường
chỉ có trên lãnh thổ quốc gia nơi quyết định trọng tài
được tuyên. Tất nhiên tài sản đó cũng có thể nằm ở
nhiều nơi khác nhau nhưng đều trên lãnh thổ của một
quốc gia nhất định. Và vấn đề sử dụng tài sản ở các
quốc gia đó để thực thi quyết định của trọng tài
không đặt ra các vấn đề nan giải như việc công nhận
và thi hành quyết định của trọng tài liên quan đến
lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia. Thông thường
các bên tranh chấp lựa chọn trọng tài của quốc gia
thứ ba (quốc gia trung lập) để giải quyết tranh chấp.
Song trên lãnh thổ quốc gia đó có thể không có tài
sản cần cho việc công nhận và thi hành quyết định
của trọng tài được lựa chọn. Trong khi đó, việc chọn
trọng tài giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào sự thỏa
thuận ý chí của các bên, còn việc xác định nơi công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài thì lại
không thể phụ thuộc vào sự thỏa thuận ý chí của các
bên được.
Để quyết định của trọng tài được công nhận và thi
hành ở quốc gia nơi quyết định đó được tuyên, bên
thắng kiện có thể yêu cầu một Tòa án có thẩm quyền
ở nơi đó ra quyết định công nhận và thi hành quyết
định của trọng tài. Song trong trường hợp tài sản cần
được sử dụng cho mục đích công nhận và thi hành lại
không ở quốc gia nơi quyết định của trọng tài được

tuyên thì rõ ràng, sự công nhận quốc tế đối với quyết
định của trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng. Để bảo
vệ lợi ích của mình, bên thắng kiện cần xác định nơi
có tài sản của bên thua kiện (cần có sự tìm hiểu, hoặc
có sự trợ giúp…). Trong trường hợp tài sản có ở
nhiều quốc gia, khi đó sự lựa chọn của bên thắng kiện
sẽ đặt ra. Để giải quyết vấn đề này, bên thắng kiện
phải quan tâm tới vấn đề quốc gia nào trong số các
quốc gia đó sẽ công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài một cách nhanh chóng và có hiệu quả
nhất (các vấn đề về trình tự, thủ tục và căn cứ xét
công nhận và thi hành sẽ được cân nhắc).
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra một số kết
luận sau:
- Thứ nhất, sự công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài kinh tế được đặt ra sau khi quyết định đó có
hiệu lực.
- Thứ hai, khái niệm công nhận và thi hành quyết
định của trọng tài có thể được hiểu theo nghĩa tổng
thể (bao gồm cả công nhận và thi hành), nhưng cũng
có thể được hiểu theo nghĩa riêng biệt (khái niệm
công nhận và khái niệm thi hành). Điều này có ý
nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như trong thực
tiễn áp dụng pháp luật.
- Thứ ba, sự công nhận và thi hành đó được thể hiện
trong hai trường hợp: có thể do các bên tự tiến hành
(trong trường hợp bên bất lợi tự nguyện thực hiện,
hoặc sự thực hiện của bên đó bị chi phối bởi sức ép
hợp pháp của bên có lợi trong việc công nhận và thi
hành hoặc của các bên thứ ba); có thể do cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền thực hiện (ra quyết định
công nhận và cho thi hành khi trường hợp thứ nhất
không thực hiện được và bên có lợi trong việc công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài yêu cầu).
- Thứ tư, trong hai trường hợp kể trên, trường hợp
công nhận và thi hành quyết định của trọng tài kinh tế
thông qua sự trợ giúp của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng nhất.

(1) Nguyễn Trung Tín, Về việc xác định quyết định
của trọng tài kinh tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 5/2001.
(2) Trung tâm Từ điển học Viện Ngôn ngữ, Từ điển
Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2000, tr. 209, 510.
(3) Hoàng Phước Hiệp, Vấn đề công nhận và thi hành
tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/1994, tr. 33 –
36.
(4) Nguyễn Công Khanh, Cần tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế ở nước ta, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2000, tr. 12 – 14


×