Lời mở đầu
Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự toàn cầu hoá, hứa hẹn nhiều biến
chuyển. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các công ty đa quốc gia cùng với
phát triển như vũ b•o của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua trên
con đường phát triển .Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được chuyên
sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội . Chúng ta đang sống trong giai đoạn
chứng kiến những sự thay đổi nhanh chóng trong tổng thể nền kinh tế, kĩ thuật , công
nghệ, và những biến đổi khác trong chính trị, xã hội . Tất cả đem lại cho thời đại một sắc
màu riêng.
Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình để
không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển .Trong bối cảnh đó, xu hướng mở cửa,
hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính phủ ta. Thể hiện điều
này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp nước ngoài, cho
phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua đó đã thu hút
được một lượng vốn lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên quá trình đó còn găp
nhiều thách thức, cần có sự nỗ lực từ hai phía.
- Cũng từ những suy nghĩ trên em đã chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam qua các dự án GTVT lớn hiện nay” để tìm hiểu thực trạng của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài và các tác động của nó đối với nền kinh tế nước ta.
Mặc dù em đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong
bộ môn kinh tế chính trị để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này, nhưng do sự nhận
thức còn chưa đầy đủ và thời gian nghiên cứu ít nên còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất
mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
nội dung
I. Lí luận về đầu tư nước ngoài
1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1 Khái niệm
- Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm
thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó.
- Đầu tư nước ngoài:
Cho đến nay vấn đề đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ đối với các nước
trên thế giới. Tuy nhiên các quốc gia vẫn không thống nhất được khái niệm về đầu tư
nước ngoài. Vì thế có thể nói đây là vấn đề khá phức tạp, không dễ dàng gì có được sự
thống nhất về mặt quan điểm khi mà mỗi quốc gia về cơ bản đều theo đuổi những mục
đích riêng của mình hoặc do ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế-xã hội của chính nó .
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người ta đã đưa ra
một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nhằm phân biệt với các khoản kinh tế
khác nhận được từ bên ngoài: “Đầu tư nước ngoài là sự vận động tư bản từ nước người
đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích thành lập ở đây một xí nghiệp sản
xuất hay dịch vụ nào đó”.
Như vậy thì việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành lập một xí
nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước đó .Điều này đã loại trừ một số hình
thức đầu tư khác mà không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất (như cho vay tiền
của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây là điểm hạn chế của
khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế trong thời đại hiện nay.
Tại các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị kinh tế sang
nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả quyền cầm cố và quyền thu hoa lợi,
quyền tham gia các hội cổ phần, quyền đối với nhãn hiệu thương phẩm và tên xí nghiệp.
Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây rất rộng rãi, chỉ là quá trình chuyển tiền
vốn từ nước này sang nước khác với mục đích thu lợi nhuận, theo nguyên tắc lợi nhuận
thu được phải cao hơn lợi nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất gửi ngân hàng.
Để đưa ra một khái niệm hoàn hảo là một điều khó khăn nhưng ta hãy tạm hiểu đầu tư
nước ngoài một cách đơn giản .
Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế –xã hội
nhất định .
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản , một hình thức cao
hơn của xuất khẩu hàng hoá . Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ cho
nhau, trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn
nước ngoài hiện nay, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. Đối với họ, việc buôn bán hàng
hoá ở nước khác là một bước đi thăm dò thị trường, luật lệ, và cơ hội để đưa tới một
quyết định đầu tư . Nó như một chiếc chìa khoá vàng mở cửa cho lợi nhuận chảy vào túi
của các nhà tư bản , khi họ được khai thác một nguồn tài nguyên thường là cực kì
phong phú , và xuất khẩu một khối lượng lớn máy móc và trang thiết bị cho các nước
đó. Còn đối với các nước sở tại, việc chấp nhận đầu tư nước ngoài cũng là tạo một cơ
hội mới cho mình trong việc phát triển nền kinh tế . Đó là một điều kiện tốt để các nước
này tận dụng tối đa nguồn vốn nước ngoài , tiếp cận với công nghệ hiện đại , nâng cao
trình độ lao động , phát triển được một số ngành cơ sở . Bên cạnh đó cũng thu được một
lợi nhuận đáng kể từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế , hoạt động đầu tư nước ngoài đang ngày càng
phát triển mạnh mẽ , hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong
liên kết , hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của tư bản thì đầu tư nước ngoài thường được chia làm hai
hình thức là : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài :là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng
góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham
gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư .
Đầu tư gián tiếp :bao gồm hình thức đầu tư nước ngoài mà trong đó phần vốn góp của
chủ đầu tư nước ngoài không đủ để trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn
đầu tư , hình thức tín dụng , hay mua trái phiếu quốc tế …
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài chỉ với nội dung là
đầu tư trực tiếp, như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng, mở rộng sản
xuất, kinh doanh. Điều này đã loại trừ hình thức đầu tư gián tiếp. Đối với các nước này,
đầu tư trực tiếp đem lại cho họ nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại thay thế cho kỹ thuật lạc
hậu hiện có, nâng cao mức sống và tăng thu nhập quốc dân. Với đầu tư gián tiếp , họ
cũng tiếp nhận được vốn .Nhưng một phần vì không có những kế hoạch sử dụng vốn
có hiệu quả , bên cạnh đó là khả năng quản lí kém và trình độ sản xuất kinh doanh lạc
hậu. Nên khả năng thành công, và thu được lợi nhuận từ nguồn vốn này không cao. Do
đó ,việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính sách này đã và đang là hình thức
phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh tế” của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày 18/04/1977
thì khái niệm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được hiểu là “việc đưa cở sở mới hoặc đổi
mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
* Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ.
* Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh phương pháp cộng nghệ, bí
quyết kỹ thuật
* Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ.
* Vốn bằng ngoại tệ để chi trả lương cho nhân viên và công nhân làm việc tại các cơ sở
hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định ở những điều của Điều lệ này (Điều 2 Điều
lệ đầu tư 1977).
Như vậy, theo Điều lệ này thì sự vận động của vốn và tài sản chỉ được coi là đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam nếu có đủ hai điều kiện sau:
+ Đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn được quy định tại điều 2 của Điều
lệ.
+ Nhằm mục đích xây dựng cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, các cơ sở hiện
có.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là “việc các tổ
chức, các cá nhân nước trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất
kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở
hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo
quy định của luật này”.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là “việc các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành các hoạt ddộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Như vậy, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khái niệm đầu tư nước ngoài được
hiểu như sau:
+ Là hình thức đầu tư trực tiếp.
+ Là việc bên ngoài (nước đầu tư) trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại Việt
Nam.
- Khái niệm về đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài năm 1987 sau đó là luật
năm 1996 đã phát triển hơn nhiều so với phạm vi nội dung khái niệm đầu tư nước ngoài
được quy định ở điều lệ đầu tư 1977 khi cho phép các nhà đầu tư nước ngoài “được đầu
tư trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân” (Điều 3 luật đầu tư nước ngoài 1987,
1996).
=>Tóm lại, từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản nhất định vào Việt
Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về hình thức đầu tư, thể hiện
chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu hút vốn đầu tư của nhiều nước
trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước ta phát triển ngang tầm với sự phát
triển chung của toàn thế giơí.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo luật đầu tư nước ngoài của Việt
Nam)
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài bỏ
100% vốn tại nước sở tại, và có quyền điều hành toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp
theo quy định, pháp luật của nước sở tại .
Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài
góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh . Các bên
tham gia điều hành doanh nghiệp , chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỉ lệ góp vốn của
mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của bên nước ngoài không được ít hơn 30% vốn
pháp định .
Hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được kí kết giữa một chủ
đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến hành một hay nhiều hoạt động
kinh doanh ở nước chủ nhà trên cở sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và
xác định quyền lợi của mỗi bên , nhưng không hình thành một pháp nhân mới .
Các hình thức khác : ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở Việt Nam còn có các
hình thức khác như : hợp đồng xây dựng –kinh doanh –chuyển giao (BOT), hợp đồng
xây dựng –chuyển giao –kinh doanh ( BTO), hợp đồng xây dựng –chuyển giao (BT)
nhằm khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
1.3. Vị trí và ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a, Vị trí
- Đầu tư nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng . Nó thúc đẩynền kinh tế phát triển
nhanh và toàn diện hơn .
- Đầu tư nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản lý cho nước nhận đầu
tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết và quan
trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới .
b, ý nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế của một
nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra công ăn việc làm
cho người lao động .
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Đầu tư quốc tế (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và nước xuất khẩu đầu tư, thúc đẩy các nước
này gia tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nước mình.
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ một quốc gia nào trên thế
giới. FDI đã đem lại một hơi thở mới cho nền kinh tế thế giới. Mở cửa cho sự toàn cầu
hóa lan rộng khắp thế giới.
II. Thực trạng về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
1. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép năm 1989 - 2006
Qua bảng số liệu về tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong những
năm qua, chúng ta thấy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có xu hướng
gia tăng cả về số dự án đầu tư và qui mô vốn đầu tư. Năm 2006 số dự án đầu tư ra nước
ngoài nhiều nhất trong những nămqua là 37 dự án, và cũng chiếm nhiều số vốn đăng ký
nhất là 368.5 triệu USD, tiếp đến là năm 2004, có 26 dự án được cấp giấy phép đầu tư ở
nước ngoài, với số vốn là 28.2 triệu USD, năm 2005 với 17 dự án, với số vốn đầu tư
đăng kí là 11.6 triệu USD . Như vậy, trong mấy năm gần đây tình hình đầu tư ra nước
ngoài ngày càng gia tăng cả về số lượng dự án lẫn qui mô vốn đầu tư cho dự án. Bên
cạnh đó, Việt Nam cũng ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
số dự án đầu tư và số vốn đầu tư FDI gia tăng theo từng năm Cụ thể là năm1989 mới chỉ
có 67 dự án FDI vào Việt Nam với số vốn là 525.5 triệu USD, nhưng đến năm sau ( năm
1990) Việt Nam đã thu hút được 107 dự án với số vốn đầu tư là 735 triệu USD, và đến
năm 2000 số dự án FDI vào Việt Nam là 327 dự án vói số vốn đăng ký là 2565.4 triệu
USD. Như vậy sau 10 năm, số dự án FDI vào Việt Nam đã tăng gấp 5 lần và quy mô
vốn tăng gần 5 lần. Cho ta thấy sự gia tăng mạnh mẽ của dòng đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài vào Việt Nam và hiệu quả từ các chính sách thu hút vốn mà Nhà nước ta đã thực
hiện trong những năm vừa qua, từ đó mà Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến cho
các nhà đầu tư trên thế giới.Tuy nhiên, qua đó ta cũng thấy được tương quan giữa dòng
vốn đầu tư ra của các nhà đầu tư Việt Nam so với dòng FDI của các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn.
Năm 1989, trong tổng số 526.1 triệu USD vốn đầu tư ra và vào Việt Nam, thì vốn
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là 0.6 triệu USD, chiếm 0.144% trong tổng số vốn
đầu tư ra và vào Việt Nam. Năm 2000, vốn đầu tư ra nước ngoài chiếm 0.477% tổng
vốn đầu tư.Và gần đây, năm 2006, vốn đầu tư ra nước ngoài chiếm 5.122% tổng số vốn
đầu tư. Qua đó ta thấy vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là quá nhỏ so với số vốn
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Điều này có thể giải thích là do hoạt động đầu tư ra
nước ngoài ở Việt Nam còn quá mới, kinh nghiệm hoạt động đầu tư quốc tế hầu như còn
ít, tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ , trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt
Nam còn yếu, kém nên hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa thực sự hấp dẫn các nhà
đầu tư Việt Nam vì nguy cơ rủi ro rất cao. Trong khi đó nhà nước cũng chưa thực sự
quan tâm đến lĩnh vực đầu tư mới mẻ này, nên chưa có các cơ chế, chính sách hướng
dẫn, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam một cách hợp lý, kịp thời, đầy đủ.
Chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động đầu
tư quốc tế. Tuy nhiên thông qua tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài so với tổng số vốn
đầu tư qua các năm, ta thấy rõ xu hướng gia tăng của tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài,
từ 0,114% năm 1989; đến năm 2000 là 0,477%; đến năm 2006 là 5,112%. Qua đó cho
thấy xu hướng đầu tư ra nước ngoài ngày càng được đẩy mạnh., môi trường đầu tư quốc
tế ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Việt Nam.
2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo ngành kinh tế (*)
1 Nông nghiệp và lâm nghiệp
2 Thủy sản
3 Công nghiệp khai thác mỏ
4 Công nghiệp chế biến
5 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
6 Xây dựng
7 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia
đình
8 Khách sạn và nhà hàng
9 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
10 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
11 Hoạt động khác
(*) Số liệu đã được chỉnh lý theo Công văn số 2338/BKH-ĐTNN ngày 06/04/2006
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước
Tỷ trọng VĐTRNN của từng ngành
1 Nông nghiệp và lâm nghiệp
2 Thủy sản
3 Công nghiệp khai thác mỏ
4 Công nghiệp chế biến
5 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
6 Xây dựng
7 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia
đình
8 Khách sạn và nhà hàng
9 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
10 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
11 Hoạt động khác
Như vậy, lĩnh vực các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhiều nhất
là công nghiệp chế biến với 57 dự án, tiếp đến là các hoạt động liên quan đến kinh
doanh tài sản và dịch vụ tư vấn với 34 dự án, thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ,
môtô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình với 19 dự án. Các doanh nghiệp Vịêt Nam
đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng như: thăm dò khai thác dầu khí,
sản xuất chế biến hàng gia dụng, vật liệu xây dựng, khai thác mỏ. Trong đó đáng lưu ý
là các dự án sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước, chỉ với 1 dự án đã chiếm tới
273.1 triệu USD số vốn đầu tư đăng kí, chiếm 1 tỷ trọng rất lớn 43.9209% trong tổng số
vốn đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra công nghiệp khai thác mỏ chỉ với 12 dự án cũng đã
chiếm tới 168.9 triệu USD số vốn đầu tư đăng ký, chiếm tỷ trọng khá lớn 27.1631%
tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Còn vốn đầu tư đăng kí của các dự án thuộc ngành
công nghiệp chế biến chỉ đạt 68 triệu USD, chỉ chiếm 1 tỷ trọng khá khiêm tốn 10.936%
tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Nguyên nhân là do tính chất của từng ngành nghề, ngành
sản xuất và phân phối điện, khí đốt và ngành công nghiệp khai thác mỏ là những ngành
công nghiệp nặng, cần nhiều máy móc công nghệ cao, hiện đại, với sự đầu tư nhiều vốn.
Còn công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động là chủ yếu,
nên không cần phải đầu tư nhiều vốn vào lĩnh vực ngành nghề này
Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản với 9 dự án, chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn
trong tổng số 154 dự án. Trong đó tập trung chủ yếu là nông-lâm nghiệp với 6 dự án.
Trong khi đó thuỷ sản chỉ chiếm 3 dự án. Tuy nhiên quy mô vốn đăng ký đầu tư vào các
dự án nông-lâm nghiệp khá lớn, chiếm 60.3 triệu USD, chiếm tỷ trọnglà 9.6977% tổng
số vốn đầu tư ra nước ngoài.
Dich vụ cũng là ngành thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy
nhiên, với số dự án là 34 mà tổng số vốn đầu tư chỉ đạt 21.3 triệu USD, chiếm 3.4255%
tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy quy mô trung bình của mỗi dự án là khá nhỏ.
Đặc biệt số dự án lại chủ yếu tập trung trong ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư
vấn
Như vậy qua số liệu về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Vịêt Nam tính đến thời điểm 06/04/2006 trên đã cho thấy các doanh nghiệp Vịêt Nam
đã đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
1 Cam-pu-chia
2 Cộng hòa Séc
3 CHLB Đức
4 Hàn Quốc
5 Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ)
6 Hoa Kỳ
7 In-đô-nê-xi-a 2
8 I-rắc
9 Lào
10 Liên bang Nga
11 Ma-lai-xi-a
12 Nhật Bản
13 Trung Quốc
14 U-crai-na
15 Sin-ga-pore
(Nguồn: Cục ĐTNN- Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài phân theo đối tác đầu tư
1 Cam-pu-chia
2 Cộng hòa Séc
3 CHLB Đức
4 Hàn Quốc
5 Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ)
6 Hoa Kỳ
7 In-đô-nê-xi-a
8 I-rắc
9 Lào
10 Liên bang Nga
11 Ma-lai-xi-a
12 Nhật Bản
13 Trung Quốc
14 U-crai-na
15 Sin-ga-pore
Trong số những nước và vùng lãnh thổ nhận vốn đầu tư tới ngày 06/04/2006 thì Lào là
thị trường thu hút được nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhất với 50 dự án, tiếp đến là Hoa
Kỳ với 16 dự án, Liên bang Nga 13 dự án, Singapore 12 dự án, Campuchia với 9 dự án.
Tuy nhiên nếu tính về tổng vốn đầu tư thì Lào cũng lại đứng đầu với 367 triệu USD,
sau đó là Irac với 100 triệu USD, Liên bang Nga 38.3 triệu USD. Trong bối cảnh nền
kinh tế nước ta hiện nay thì 100 triệu USD đầu tư cho một dự án ở nước ngoài như dự
án dầu khí ở Irac là một con số không nhỏ, chiếm 16.082% tổng số vốn đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Việt Nam mặc dù dự án dầu khí trên vẫn chưa được triển khai.
Bên cạnh đó số vốn đầu tư vào Lào chiếm tới 59.022% tổng số vốn đầu tư cảu Việt Nam
ra nước ngoài cho thấy Lào là một điểm đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư Việt Nam.
Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi vì đây là 2 quốc gia có đường biên giới chung và
truyền thống hữu nghị lâu đời, Việt Nam và Lào không chỉ có sự gần gũi về kinh tế mà
cả về chính trị, hơn nữa thị trường Lào lại là một thị trường tương đối thân thuộc đối với
các nhà đầu tư Việt Nam. Những yếu tố đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Vịêt
Nam xâm nhập vào thị trường Lào thông qua con đường đầu tư trực tiếp để xuất khẩu
tại chỗ hoặc xuất khẩu sang nước thứ 3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Vịêt Nam
sang Lào cũng tập trung vào 3 lĩnh vực chủ yếu là: nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ. Trong đó khoảng 1 nửa số dự án là thuộc lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các lĩnh
vực như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và sản xuất thuốc
chữa bệnh…Ngoài ra còn có các dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện, giáo
dục Lào hứa hẹn là một thị trường lớn nhất của các doanh nghiệp Vịêt Nam không chỉ
ở hiện tai mà cả trong tương lai. Hiện nay có nhiều dự án lớn đầu tư trực tiếp vào Lào
đang trong quá trình thẩm định. Trong đó dự án đang thẩm định lớn nhất có vốn đầu tư
lớn hơn toàn bộ những dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ trước đến nay, bao gồm
các dự án đang được thẩm định là nhà máy thuỷ điện Xekaman 3 tại Lào có vốn đầu tư
là 273 triệu USD, dự án trồng 10.000 ha cao su cũng tại Lào có vốn đầu tư là 25 triệu
USD.
Tiếp đến là Liên bang Nga, nước đứng thứ 3 về số dự án và về số vốn đầu tư. Nga là
một đất nước rộng lớn, sớm có mối quan hệ kinh tế hữu nghị với Vịêt Nam từ lâu đời
nên trong những năm qua dòng vốn đầu tư trực tiếp vận động không chỉ từ Nga vào Vịêt
Nam mà còn theo chiều ngược lại. Tính đến cuối năm 2006 đã có 13 dự án đầu tư trực
tiếp của các doanh nghiệp Vịêt Nam vào thị trường Nga với tổng số vốn đầu tư đăng kí
đạt tới 38.3 triệu USD. Đối với doanh nghiệp Vịêt Nam, đầu tư ra nước ngoài là một
hướng đi mới, tuy có không ít rủi ro nhưng sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường,
củng cố thúc đẩy hoạt động kinh doanh và nâng cao vị thế của doanh nghiệp tại nước sở
tại, nhất là với những thị trường mà việc thanh toán còn gặp nhiều khó khăn như thị
trường Nga. Hơn nữa khi đầu tư vào Nga các doanh nghiệp Vịêt Nam còn có thêm lợi
thế là cộng đồng người Việt tập trung sinh sống, học tập làm việc tại Nga khá đông.
Hiện nay cơ chế thành lập công ty ở Nga khá dễ dàng và đã có hơn 300 công ty của
người Việt Nam được thành lập và làm ăn theo qui định của luật pháp Nga. Việc đầu tư
vào thị truờng Lào và Nga cho thấy một hướng đi đúng đắn của các doanh nghiệp Vịêt
Nam.
Mặc dầu vốn đầu tư đăng ký của các doanh nghiệp Vịêt Nam vào thị trường Hoa Kỳ chỉ
đạt 7.4 triệu USD, chiếm xấp xỉ 1.19% tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Vịêt
Nam nhưng nếu xét về số lượng dự án thì Hoa Kỳ lại chiếm vị trí thứ 2 với 16 dự án.
Kết quả này cho thấy Vịêt Nam không chỉ nhận vốn từ những nước có nền kinh tế phát
triển mà hoàn toàn có khả năng đầu tư vào những thị trường các nước phát triển với mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận, và sử dụng đồng vốn bỏ ra của mình một cách có hiệu quả nhất.
Thực tế hiện nay, ngoài Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Vịêt Nam còn đầu tư vào nhiều nước
phát triển khác như:Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Úc, Singapore…
* Những kết quả đạt được
- Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã giúp cho Vịêt Nam sử dụng, quản lý tốt
hơn các nguồn lực trong nước.
Khi các nguồn lực trong nước còn hạn chế thì việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các
nguồn lực là một tất yếu đối với chính phủ và các doanh nghiệp trong việc quản lý vĩ mô
nền kinh tế. Vì vậy khi các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư ra nước ngoài thì với mục
tiêu là khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực của nước ngoài thì nhờ đó mà các
nguồn lực trong nước được quản lý một cách có hiệu quả hơn.
- Góp phần tăng thu ngân sách
Khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì các doanh nghiệp Vịêt Nam sẽ có nhiều
cơ hội để sử dụng vốn 1 cách có hiệu quả hơn, có nhiều cơ hội phát triển hơn, sẽ có điều
kiện để khai thác tốt nhất các nguồn lực của nước ngoài , do vậy sẽ làm tăng doanh thu,
đồng thời với việc giảm chi phí, do đó mà lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên , và
đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng lên.
- Giúp các DN mở rộng thị trường tiêu thụ.
Khi mở rộng việc đầu tư ra nước ngoài thì thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp sẽ được mở rộng hơn nhiều, đồng thời cũng mở ra những cơ hội kinh doanh
mới, và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương
lai.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp Vịêt Nam tránh được hàng rào
bảo hộ thương mại của các nước nhận đầu tư.
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì các hàng rào bảo hộ thương mại dần được dỡ
bỏ. Do đó các quốc gia thường xây dựng nên những rào cản thương mại ngày càng phức
tạp hơn, như rào cản kỹ thuật, rào cản về môi trường. Do đó việc xuất khẩu hàng hoá
vào các quốc gia ngày càng khó khăn hơn. Và để có thể vượt qua được hàng rào bảo hộ
đó là thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ góp
phần đáng kể trong việc giảm những chi phí vận chuyển, và nhiều những chi phí cho
khác
- Thay đổi cơ cấu SXKD của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất, các trang thiết bị của doanh nghiệp bị hao mòn cả vô hình lẫn
hữu hình, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam đã
và đang giúp các máy móc thiết bị đó hạn chế sự hao mòn. Khi trang thiết bị của doanh
nghiệp Vịêt Nam ở trong nước đã trở nên lỗi thời, và đã giảm được sức cạnh trạnh so
với các doanh nghiệp trong nước thì việc chuyển giao các công nghệ đó ra nước ngoài
sẽ giúp cho các doanh nghiệp đó nâng cao được sức cạnh tranh so với các doanh nghiệp
nước sở tại. Như vậy đầu tư ra nước ngoài giúp cho doanh nghiệp thay đổi công nghệ,
đồng thời kéo dài được chu kỳ sống của công nghệ.
Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp cho các doanh nghiệp kéo dài
được đời sống của sản phẩm. Khi 1 sản phẩm đã trở nên bão hoà trong nước, và chịu sự
cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm mới có tính thay thế, thì giải pháp đầu tư ra nước
ngoài trở nên tối ưu, và sẽ kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm.
- Giúp mở rộng giao lưu KT-XH, học hỏi đựợc những kinh nghiệm của các nước phát
triển
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp Vịêt Nam tiếp cận với cơ chế
về quản lý tài chính, quản lý nhân sự, quản lý thiết bị khoa học đồng thời có công nghệ
sản xuất hiện đại, do đó khi đầu tư vào những nước này thì Vịêt Nam sẽ có cơ hội để
học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận với khoa học tiên tiến trên thế giới, từ đó có thể áp dụng
vào sản xuất và làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ có tác dụng thúc đẩy
kinh tế phát triển mà còn có tác động tích cực về mặt xã hội. Đó là làm cho dân trí phát
triển, có điều kiện tiếp thu và vận dụng những tinh hoa văn hoá của nhân loại, nền văn
minh thế giới, giúp bạn bè thế giới hiểu thêm về con người Vịêt Nam với nhiều những
phẩm chất tốt đẹp như: cần cù, chịu khó , mặt khác còn giúp Vịêt Nam mở rộng mối
quan hệ giao lưu kinh tế xã hội với bạn bè thế giới, cùng với bạn bè thế giới xây dựng 1
xã hội văn minh, hiện đại , hoà bình.
* Những hạn chế gặp phải :
- Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa thu được kết quả kinh doanh cao. Hầu
hết các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đều là những dự án mới được thực
hiện, chưa bước vào giai đoạn sản xuất kinh doanh nên kết quả kinh doanh hầu như
chưa có, hoặc nếu có cũng đang còn ở trong giai đoạn đầu nên gặp rất nhiều khó khăn
về thị trường và công suất khai thác dự án chưa cao nên đang còn trong tình trạng thua
lỗ.
- Tỷ lệ VĐT thực hiện trên tổng số vốn đăng ký rất thấp. Tính đến hết tháng 8 năm 2006
tỷ lệ này vẫn chưa đạt được 10% trong khi đó các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
vào Việt Nam đạt tỷ lệ 55%.
- Số lượng dự án và quy mô đầu tư của các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư ra nước ngoài
còn ít. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghệp Việt Nam trước sức ép của
các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính mạnh trên thị trường thế giới
- Lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, mới chỉ tập trung vào
một số ngành công nghiệp, xây dựng, thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất hàng gia
dụng, nông nghiệp và một số loại hình dịch vụ.
- Đối tác mà Việt Nam thực hiện đầu tư còn chưa rộng rãi, mới chỉ tập trung ở một số
nước như Mỹ, Nga, Anh, Nhật, Singapo, Lào, Campuchia…Hoạt động đầu tư sang các
nước phát triển khác còn hết sức khiêm tốn so với việc các nước đó đầu tư trực tiếp sang
Việt Nam.
- Hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là 100% vốn Việt Nam ở nước ngoài. Các dự án liên
doanh chiếm một tỷ lệ khiêm tốn hơn. Hình thức BC của các nhà đầu tư Việt Nam ở
nước ngoài chiếm tỷ trọng cao hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước.
- Công tác thẩm định, cấp giấy phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn chậm, chưa rõ
ràng.
* Nguyên nhân:
- Đây là một lĩnh vực còn rất mới với các doanh nghiệp Việt Nam, nên tư duy nhận thức
về hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn chưa được hình thành một cách đầy đủ, chính
xác.
Trước đây Vịêt Nam chỉ là nước nhận đầu tư trực tiếp của các nước khác cho đến những
năm gần đây mới xuất hiện xu hướng đầu tư của doanh nghiệp Vịêt Nam ra nước ngoài.
Thông thường lĩnh vực nào còn mới thì còn ít người quan tâm và nhiều người lo sợ bởi
vì chúng tiềm ẩn những rủi ro mà họ không thể lường tới. Đồng thời yếu tố tâm lý cũng
ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức của các doanh nghiệp, cái gì quá mới mẻ đều khiến
người ta nghi ngại, lo sợ và rụt rè khi tiếp cận, từ đó dẫn đến việc các doanh nghiệp Vịêt
Nam chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này, nếu có thì chỉ chỉ ở mức độ dè chừng, bởi
vì ai cũng lo sợ những rủi ro tiềm ẩn trong lĩnh vực còn quá mới mẻ này đối với họ. Hơn
nữa do tư duy nhận thức của một bộ phận cán bộ có trách nhiệm và các nhà đầu tư là
cho rằng Vịêt Nam là một nước đang thiếu vốn nên cần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư
nước ngoài do đó mà không có khả năng và không cần thiết để thực hiện đầu tư ra nước
ngoài. Bên cạnh đó lĩnh vực này còn quá mới mẻ, trên thực tế nếu chỉ xuất hiện cũng
rất ít cho nên chưa được các bộ ngành quan tâm xem xét điều chỉnh và tạo điều kiện. Do
đó nên các doanh nghiệp càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận lĩnh vực mới mẻ này.
- Chưa có sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư ra nước ngoài, các cơ chế chính sách còn thiếu, nhiều bất cập.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nhìn chung thực trạng cơ chế chính sách của chúng ta còn nhiều
điều bất cập, chưa đồng bộ, điều đó ảnh hưởng rất lớn tới hoát động đầu tư của các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn nhiều hạn chế, các cấp các ngành chưa có những
chủ trương, biện pháp có hiệu quả nhằm khắc phục những khó khăn, không thay thế, sửa
đổi, bổ sung kịp thời làm chậm trễ tiến độ thực hiện các hoạt động đầu tư. Mặt khác
chưa đề ra được những biện pháp có tính khả thi, kịp thời, có tác động mạnh mẽ nhằm
khai thác một cách có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực dồi dào, việc đổi mới cơ chế,
chính sách còn chậm chạp, chưa đầy đủ, chưa thay đổi kịp thời, chưa đi sâu, bám sát
hoạt động đầu tư ra nước ngoài do đó không phát huy được tính hiệu quả.như: nghị định
số 22 của chính phủ về đầu tư ra nước ngoài vẫn còn một số vấn đề chưa được quy định
như quy trình cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao
động…hoặc mở văn phòng dự án tại nước thứ 3 để điều hành dự án hay mở chi nhánh
sản xuất và thành lập doanh nghiệp ở nước ngoài chưa được quy định.
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Vịêt Nam còn hạn chế trên tất cá các mặt:
tài chính, quản lý, sản xuất kinh doanh Vịêt Nam là một nước có xuất phát điểm thấp,
có nền kinh tế nghèo nàn, kém phát triển, công nghệ lạc hậu do đó quá trình tích tụ vốn
cho nền kinh tế hầu như không có. Trong khi đó vốn là nhân tố đầu tiên và có tính quyết
định nhất đến bất kì một hoạt động đầu tư phát triển nào, do đó khi đầu tư ra nước ngoài,
chúng ta rất thiếu vốn để có thể tiến hành hoạt động đầu tư, nên để huy động vốn cho
đầu tư thì doanh nghiệp thường áp dụng một số biện pháp như phát hành cổ phiếu, trái
phiếu công ty hoặc là huy động vốn ở những tổ chức tín dụng.
- Nền kinh tế VN còn phát triển ở trình độ thấp.
Vịêt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, lại đang tiến hành quá trình CNH-
HĐH đất nước, các ngành, các thành phần kinh tế đang trong quá trình phát triển và
hoàn thiện nên sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm. Việt Nam đi lên từ một nước
có xuất phát điểm thấp, mức sống tính theo bình quân đầu người thấp, mức độ tích luỹ
nội bộ nền kinh tế thấp, trong sản xuất thì vốn it, công nghệ lạc hậu, nguồn lao động tuy
đông nhưng trình độ tay nghề, kỹ thuật chưa cao, trình độ quản lý điều hành còn kém,
do đó năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất còn chưa cao, trong khi đó vốn đầu tư
cho cơ sở hạ tầng còn thiếu nên việc hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp còn rất
hạn chế. Do đó khi đầu tư ra nước ngoài thì Vịêt Nam đứng trước rất nhiều khó khăn và
hiệu quả sản xuất thấp là điều khó có thể tránh khỏi.
1. Xu hướng
Như chúng ta đã biết, hoạt động đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ trong thời gian
gần đây và trở thành xu hướng tất yếu của các nước. Tham gia vào hoạt động đầu tư
quốc tế không chỉ là các nước phát triển có tiềm lực tài chính mạnh mà có cả các nước
đang phát triển với những lợi thế riêng có của mình. Việt Nam đang tiến sâu, tiến rộng
vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới, đối với hoạt động đàu tư quốc tế , hiện nay nước
ta vận chủ yếu đứng trên giác độ là nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm
gàn đây, cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, cũng như sự hỗ trợ
ngày càng có hiệu quả hơn từ phía Nhà nước, Việt Nam đã đưa vốn, tài sản ra nước
ngoài để đầu tư thực hiện sản xuất kinh doanh. Là một nước mới tham gia vào hoạt động
đầu tư quốc tế, bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thu được nhiều kết quả
cao, tuy nhiên vẫn có một số doanh nghiệp đã làm ăn có hiệu quả và được đánh giá là
thành công trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Vì vậy, trong những năm tới, hứa hẹn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đẩy mạnh hoạt
động đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao và mở rộng thị phần tiêu thụ
sản phẩm. Đó là một xu thế tất yếu trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, không
chỉ riêng Việt Nam mà cả những nước trên thế giới.
2. Giải pháp
- Thay đổi tư duy về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Nhà nước cần phải coi hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hoat động kinh tế
đối ngoại quan trọng không kém gì hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài , vì
cả lý thuyết và thực tiễn đều chứng minh rằng 1 nước có dòng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài càng mạnh thì càng có nhiều khả năng và cơ hội để mở rộng thị trường và tăng
thêm các cơ hội kinh doanh, tạo ra lực hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vịêt Nam
có những mặt hàng và làng nghề truyền thống hoàn toàn có thể đáp ứng được những
khoảng trống hoặc những thị trường ngách ở khắp nơi trên thế giới.Trước bối cảnh Vịêt
Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực và những tác động tích
cực của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang lại trong thời gian qua thiết nghĩ
cần nhanh chóng thay đổi từ khống chế và cho phép sang khuyến khích các doanh
nghiệp Vịêt Nam đầu tư ra nước ngoài.
- Cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách theo hướng tăng cường
khuyến khích các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .
Chính phủ cần nhanh chóng ban hành nghị định và các thông tư mới hướng dẫn luật đầu
tư mới. Nghị định 22/2000 của chính phủ đã bộc lộ nhiều hạn chế và không tương thích
với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hiện nay vì thế các vấn đề trong nghị
định mới nên sửa đổi theo hướng:
+ Đơn giản hoá thủ tục đăng ký và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài,
tiến tới xoá bỏ hình thức cấp giấy phép chuyển sang đăng ký đầu tư.
+ Rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Vịêt
Nam xuống còn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ ( hiện tại là 30 ngày ).
+ Xây dựng danh mục dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích đầu tư ra nước
ngoài với các hình thức ưu đãi phù hợp đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng,
ngoại hối.
+ Mở rộng các lĩnh vực đựoc phép đầu tư ra nước ngoài để các doanh nghiệp rộng
quyền lưạ chọn. Cho phép đầu tư vào các lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, y tế, giáo
dục…nếu doanh nghiệp có luận chứng kinh tế kỹ thuật tốt và bảo đảm khả năng sinh lời
của dự án .
Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp
ở nước ngoài nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, điều chỉnh hoạt động kinh tế mới
này, đồng thời quy định rõ chế độ và nội dung báo cáo đối với các doanh nghiệp Vịêt
Nam ở nước ngoài để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam.
- Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp Vịêt Nam thực hiện
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
+ Về mặt tổ chức, thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận việc quản lý hoạt động
đầu tư của Vịêt Nam ở nước ngoài. Bộ phận này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất những
văn bản, quy định pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đồng thời cũng
là đầu mối giải quyết những vướng mắc mà các doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành sản
xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thành lập hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam để bảo vệ
quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Vịêt Nam giải quyết các vướng mắc. Thành lập
quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài của Vịêt Nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài và bảo đảm lợi ích và bảo vệ các doanh nghiệp trước những
rủi ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thông thường không thể
cung cấp dịch vụ đó được.
+ Về mặt cơ chế chính sách cần tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư trên tầm vĩ
mô trước hết là ở các lĩnh vực mà Vịêt Nam có lợi thế so sánh.Tăng cường cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có nguyện vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như
tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Chính phủ với các doanh nghiệp có dự án đầu tư
trực tiếp ở nước ngoài, với Chính phủ tại nước sở tại để giải quyết các bất cập trong quá
trình đầu tư ra nước ngoài, hoặc là cung cấp các thông tin cần thiết như quan hệ cung
cầu hàng hoá, triển vọng phát triển của thị trường nước ngoài, môi trường đầu tư của
nước sở tại, thông tin về đối tác đầu tư và các cơ hội đầu tư mới. Tổ chức các hội chợ
triển lãm quảng cáo, tham quan thị trường, làm trung gian cho các cuộc tiếp xúc giữa
các doanh nghiệp Vịêt Nam với các đối tác tiềm năng. Phát triển các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, bảo lãnh tín dụng, dịch vụ hỗ trợ tư pháp và hướng dẫn các thủ tục
đăng ký đầu tư ở từng thị trường nước ngoài. Chính phủ giao cho các đại sứ quán, lãnh
sự quán và phòng thương vụ Vịêt Nam ở nước ngoài hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp
Vịêt Nam đang tiến hành đầu tư trưc tiếp ở nước ngoài. Xem đó là một nhiệm vụ bắt
buộc đối với các cơ quan này.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
Thành lập Hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ
quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam giải quyết các vướng mắc. Thành lập
quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài của Việt nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đảm bảo lợi ích và bảo vệ các doanh nghiệp trước những rủi
ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thông thường không thể
cung cấp các dịch vụ đó được.
-Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Theo đó,Vịêt Nam cần đàm phán, ký kết các hiệp định đầu tư đa biên nhằm tăng cường
khả năng bảo vệ các doanh nghiệp và tạo cơ chế pháp lý ổn định để giải quyết các tranh
chấp có thể nảy sinh khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Trước hết, Vịêt Nam cần tham
gia đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài như công ước
Washington năm 1965, các công ước của WTO…ngoài ra Vịêt Nam còn cần quan tâm
đến hiệp định đầu tư khu vực bởi mục đích của hiệp định là thúc đẩy dòng lưu chuyển
vốn giữa các nước tham gia ký kết và tăng cường thu hút vốn quốc tế từ các nước thứ 3
vào khu vực.
Bên cạnh đó, Vịêt Nam cần tăng cường đàm phán ký kết các hiệp định đầu tư song
phương. Vì các hiệp định đầu tư song phương có tốc độ phát triển nhanh và ngày càng