Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Bắc cầu giữa kinh xuất nhập khẩu và công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.98 KB, 66 trang )

Lời nói đầu.
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, nước ta đã có chủ
trương mở cửa kinh tế với các nước trên thế giới. Các loại hàng hóa đã được xuất
khẩu và nhập khẩu nhiều hơn ( kim ngạch xuất nhập khẩu luôn tăng theo các
năm). Nước ta là một nước đang phát triển nên thế mạnh xuất khẩu chủ yếu là
các mặt hàng nông nghiệp, các sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ như hàng
dệt may, giầy dép Và nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp nặng, các mặt hàng
kỹ thuật cao như máy móc, thiết bị, công nghệ mới để phục vụ cho sản xuất,
cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và nhà nước ta có chủ
trương đẩy mạnh quá trình hội nhập với nề kinh tế thế giới, thông qua hoạt động
xuất nhập khẩu thì chung ta sẽ hiểu biết hơn về các nước mà chung ta giao dịch.
Trong các mặt hàng nhập khẩu hiện nay của nước ta có một số mặt hàng chúng
ta phụ thuộc quá nhiều vào thị trường nước ngoài. Như mặt hàng sắt thép nhập
khẩu vừa qua đã tăng lên gấp 1,5 lần, trước đó khoảng một năm chúng ta vẫn còn
đang ứ đọng rất nhiều thép trong các nhà máy sản xuất thép. Với lý do này em đã
quyết định chọn công ty Thanh Bình HTC để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Công ty Thanh Bình HTC là chuyên nhập khẩu các mặt hàng thép công nghiệp
về để phân phối và chế biến cho thị trường trong nước. Như vậy công ty vừa hoạt
động trong lĩnh vực thương mại vừa hoạt động sản xuất các sản phẩm để tăng
khả năng cạnh tranh. Do đó em đã chọn đề tài thực tập tốt nghiệp là: “một số giải
pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu và nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá tại
công ty thanh bình htc.”
Em xin chân thành cám ơn các cô chú, anh chị trong công ty Thanh Bình HTC và
thầy giáo Th.s Bùi Huy Nhượng đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết
này.
Sinh viên: Mai Hoàng Tùng.
Chương I: Những vấn đề chung về nhập khẩu hàng hoá.
1.1. Khái niệm, chức năng và vai trò của nhập khẩu hàng hoá.
1.1.1. Khái niệm nhập khẩu.
* Khái niệm: Nhập khẩu là việc mua bán và trao đổi hàng hoá dịch vụ của
nước này với nước khác, trong giao dịch dùng ngoại tệ của một nước hay một


ngoại tệ mạnh trên thế giới để trao đổi.
* Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu:
- Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua bán quốc tế, nó là một hệ thống
các quan hệ mua bán rất phức tạp và có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài. Vì thế
hoạt động nhập khẩu đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó cũng có thể gây
những hậu quả do tác động với cả hệ thống kinh tế bên ngoài, mà một quốc gia
tham gia nhập khẩu không thể khống chế được.
- Hoạt động nhập khẩu được tổ chức, thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu
khác nhau. Từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, giao
dịch, tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho
đến khi nhận hàng hoá và thanh toán. Các khâu, các nhiệm vụ phải được nghiên
cứu và phân tích kỹ lưỡng để nắm bắt được những lợi thế và đạt được kết quả mà
mình mong muốn.
- Hoạt động nhập khẩu là hoạt động giao dịch buôn bán giữa những người
có quốc tịch khác nhau. Với đặc điểm thị trường rộng lớn, khó kiểm soát, đồng
tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một nước hoặc cả hai,và các quốc gia khác
nhau khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu phải tuân theo những phong tục tập
quán của địa phương, và các thông lệ quốc tế.
- Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên phậm vi rất rộng cả về không gian và
thời gian. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hoặc
trên nhiều quốc gia khác trên thế giới, và có thể chỉ diễn ra trong một thời gian
ngắn hoặc có thể kéo dài hàng năm.
- Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên moi lĩnh vực, có thể hàng hoá nhập khẩu
là hàng tiêu dùng hay là các tư liệu sản xuất, các máy móc thiết bịvà cả công
nghệ kỹ thuật cao. Nhằm mang lại lợi ích cho các quốc gia nhập khẩu.
1.1.2. Chức năng của nhập khẩu:
- Hoạt động nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế quốc dân
thông qua việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở sử dụng những khả
năngvà lợi thế so sánh của phân công lao động quốc tế, năng lực của các quốc gia
trên thế giới.

- Hoạt động nhập khẩu khai thác năng lực và thế mạnh về hàng hoá, công
nghệ, vốn, lao động… của các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm thúc đẩy
quá trình sản xuất, tiêu dùng trong nước phát triển. Trên cơ sở đó nền sản xuất
trong nước tiếp thu được tiến bộ về khoa học công nghệ của thế giới, và được sử
dụng những hàng hoá, dịch vụ vừa tốt vừa rẻ.
- Hoạt động nhập khẩu làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho việc phát triển sản xuất
và nâng cao đời sống cho nhân dân. Hoạt động nhập khẩu góp phần làm cho nền
kinh tế phát triển một cách nhịp nhành, cân đối và đạt tốc độ tăng trưởng cao.
- Hoạt động nhập khẩu giúp cho các nước đang phát triển đảy nhanh quá
trình liên kết kinh tế, mở rộng thị trường và bạn hàng. Góp phần vào sự ổn định
nền kinh tế và chính trị trong nước.
- Hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác như: thông tin liên lạc quốc tế, tài chính tín dụng quốc tế, du lịch…
được mở rộng, các chính sách hợp tác và đầu tư quốc tế cũng phát triển.
- Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện các nước khác sẽ chú ý đến làm cho
nền sản xuất phát triển, thu hút đầu tư có điều kiện cân đối xuất nhập khẩu, tiến
tới xuất siêu.
1.1.3. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế, nó tác
động trực tiếp đến tình hình sản xuất, và đời sống nhân dân( thông qua tiêu dùng
hàng nhập khẩu). Thông qua nhập khẩu sẽ tăng cường được cơ sở vật chất kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho quá trình sản xuất, và người dân được tiêu
dùng các sản phẩm mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp
ứng được nhu cầu. Hoạt động nhập khẩu có những vai trò chủ yếu sau đây:
+ Đối với nền kinh tế thế giới:
- Thông qua hoạt động nhập khẩu các quốc gia trên thế giới có điều kiện hiểu
rõ về phong tục tập quán, văn hoá chính trị … về nhau hơn. Qua đó sẽ góp phần
đẩy nhanh quá trình hội nhập hoá nền kinh tế giữa các nước, khai thác triệt để về
lợi thế so sánh của nước mình và sử dụng các nguồn lực, tài nguyên thiên một

cách hợp lý hơn.
- Hoạt động nhập khẩu sẽ kích thích việc sản xuất và tiêu dùng trong mỗi nước
phát triển hơn. Làm cho khối lượng hàng hoá và nhu cầu trong nề kinh tế thế giới
tăng lên, từ đó mức sông của người dân được nâng cao.
- Từ hoạt động nhập khẩu sẽ giúp cho các nước kém phát triển hoặc đang phát
triển có cơ hội học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong quản lý, tiếp thu được các
thành tựa khoa học kỹ thuật. Phục vụ cho công cuộc hiện đại hoá, công nghiệp
hoá đất nước.
- Hoạt động nhập khẩu sẽ giúp cho quá trình liên kết kinh tế giữa các quốc gia,
các khu vực được đẩy mạnh hơn. Làm cho quá trình phân công lao động quốc tế
diễm ra trên toàn thế giới. Tao uy tín cho mỗi quốc gia thành viên được nâng cao.
Các hoạt động đối ngoại khác như bảo hiểm, du lịch, dịch vụ thương mại cũng
phát triển nhanh chóng.
+ Đối với nền kinh tế VIệt Nam:
Nước ta là một nước đang phát triển do đó nhập khẩu hnàg hoá là một tất yếu
để phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế, và đẩy nhanh công cuộc công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Như vậy hoạt động nhập khẩu có một vai trò
rất to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam:
- Nhập khẩu các thiết bị xây dựng sẽ giúp cho quá trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật được rút ngắn thời gian và công sức. Tạo điều kiện phát triển nền kinh tế
với các dây truyền trang thiết bị hiện đại, thông qua nhập khẩu các thiết bị hiện
đại sẽ làm cho đội ngũ lao động của nước ta nâng cao tay nghề và kiến thức, các
nhà quẩn lý có điều kiện trao dồi những kiến thức về trình độ và công tác quản
lý.
- Nhập khẩu hàng hoá sẽ làm đa dạng các mặt hàng và chủng loại hàng hoá,
người tiêu dùng sẽ lựa chọn được những hàng hoá phù hợp với thu nhập của
mình. Qua đó sẽ góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua
hoạt động nhập khẩu sẽ bổ xung kịp thời những hàng hoá thiếu hụt trong nước do
sản xuất trong nước không đáp ứng đủ hoặc chưa sản xuất được.
- Nhờ nhập khẩu mà ngành sản xuất trong nước sẽ đào thải được các đơn vị có

năng lực sản xuất yếu kém không có sức cạnh tranh. Thông qua hoạt động nhập
khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới cả công nghệ và
cách quản lý để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra. Tạo điều kiện
cho việc chiếm lĩnh thị trường trong nước và dần dần tiến tới xuất khẩu.
- Nhập khẩu sẽ tao cơ hội cho nước ta mở rộng được quan hệ ngoại giao với các
nước khác. từ đó tranh thủ sự ủng hộ của họ để phát triển kinh tế của mình.
+ Đối với các doanh nghiệp:
- Thông qua hoạt động nhập khẩu các doanh nghiệp phải đổi mới cải tiến công
nghệ chất lượng, dịch vụ sản phẩm để tăng sức canh tranh của sản phẩm nội địa.
Qua đó hiệu quả sản xuất được nâng cao, người lao động tìm đước việc làm, đời
sông cán bộ công nhân được nâng cao.
- Hoạt động nhập khẩu là hoạt động trên phạm vi quôc tế rất phức tạp vì có sự
giao lưu của nhiều nền kinh tế khác nhau về văn hoá, chính trị, tập quán, ngôn
ngữ… Vì vậy, buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải luôn hoàn thiện và đổi
mới công tác quản trị kinh doanh, các cán bộ, các cá nhân luôn phải học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao nghiệp vụ… Điều đó lam,f nâng cao năng lực chuyên môn của
các thành viên trong doanh nghiệp.
- Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có vai trò làm tăng thế lực và uy tín của công
ty cả ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Lợi nhuận do kinh doanh
đem lại cho phép công ty xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng các lĩnh vực
kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, nâng cao đòi sống cán bộ công nhân viên, góp phần giải
quyết vấn đề bức xúc của xã hội, cải thiện và phát triển mối quan hệ trong kinh
doanh.
- Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết giữa các chủ
thể trong và ngoài nước một cách tự giác, xuaqát phát từ lợi ích cuảe cả hai bên,
tạo ra sức mạnh chủ thể trong doanh nghiệp một cách thiết thực.
Như vậy nhập khẩu có ý nghiã quan trọng đối với sự phát triển của một quốc
gia, nó tồn tại như là một nhu cầu cần thiết
1.2. Các hình thức của hoạt động nhập khẩu.

1.2.1. Nhập khẩu thông thường(nhập khẩu trực tiếp).
Khái niệm: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của
một doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu trực tiếp các hàng hoá dịch vụ mà không
qua tổ chức trung giam nào.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí và rủi ro, trách nhiệm pháp lý về hoạt
động nhập khẩu hàng hoá đó.
- doanh nghiệp phải chịu mọi nghĩa vụ về thuế liên quan đến hàng hoá nhập
khẩu về.
- Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu dược cao hơn nhiều so với các
hình thức nhập khẩu khác. doanh nghiệp nhập khẩu là người bán hàng trực tiếp
cho khách hàng trong nước, vì vậy hàng hoá nhập khẩu về phải có chất lượng tốt,
mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp thì doanh nghiệp mới có thu được lãi cao.
1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Khái niệm: nhập khẩu uỷ thác là hạot động hình thành giữa một doanh nghiệp có
vốn và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng lại không có quyền
tham gia nhập khẩu trực tiếp, nên phải uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức
năng trực tiếp giao dịch tiến hành nhập khẩu theo yêu cậu của mình. Bên uỷ thác
sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để nhập khẩu hàng hoá theo yêu
cầu của bên đi uỷ thác và nhận được nhận một khoản thu lao gọi là phí uỷ thác.(
Nói cách khác nhập khẩu uỷ thác là doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai trò trung
gian nhập khẩu ).
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác:
- Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ
vốn, nghiên cứu thị trường…của hàng hoá nhập khẩu mà chỉ đóng vai trò làm đại
diện bên uỷ thác giao dịch với nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập
khẩu hàng. Và phải thay mặt bên uỷ thác khiếu nại( nếu có), đòi bồi thường nếu
bị tổn thất.
- Bên uỷ thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chon mặt hàng, đối tượng
giao dịch và chịu mọi chi phí liên quan.

- Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ
thác chứ không được tính doanh thu và không phải chịu thuế doanh thu.
- Khi nhập khẩu uỷ tác thị doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng
là hợp đồng ngoại thương giữa doanh nghiệp với đối nước ngoài và một hợp
đồng giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp uỷ thác.
- Hình thức nhập khẩu uỷ thác có ưu điểm là mức độ rủi ro thấ, trách nhiệm
ít, người đứng ra nhập khẩu phải chịu tránh nhiệm cuối cùng, không cần bỏ vốn,
nhận tiền phí uỷ thác nhanh và ít thủ tục. Nhưng phí uỷ thác không cao.
Quy định của chính phủ Việt Nam về nhập khẩu uỷ thác:
- Doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc mã số doanh
nghiệp nhập khẩu được uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- việc uỷ thác nhập khẩu và việc nhận uỷ thác nhập khẩu các mặt hàng nhập
khẩu phải có điều kiện do bộ thương mại hướng dẫn cụ thể.
- Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên uỷ thác nhập khẩu và bên nhận uỷ
thác nhập khẩu do các bên tham gia kí kết thoả thuận.
1.2.3. Nhập khẩu liên doanh.
Khái niệm: nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở
liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp kỹ
năng để giao dịch và đề ra chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động
nhập khẩu,thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho hai bên
theo nguyên tắc lãi cung chia lỗ cùng chịu.
Đặc điểm:
- So với nhập khẩu thông thường thì nhập khẩu liên doanh giúp cho doanh
nghiệp chịu ít rủi ro hơn vì mỗi doanh nghiệp nhập khẩu chỉ phải góp một phần
vốn nhất định, quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên cũng tăng lên theovốn góp.
Việc phân chi chi phí các loại thuế theo tỷ lệ góp vốn, lỗ lãi tuỳ theo hai bên
phân chia.
- Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhập hàng về sẽ
được tính kim nghạch nhập khẩu nhưng hki dưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính

doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ góp vốn à chịu thuế doanh thu trên số hàng
đó.
- Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện hai hợp đồng một là hợp
đồng mua hàng với nước ngoài một là hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp
khác.
1.2.4. Nhập khẩu đổi hàng.
Khái niệm: nhập khẩu đổi hàng là một phương pháp trao đổi hàng hoá, trong đó
nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán cũng đồng thời là người
mua,lượng hàng trao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau. Mục
đích của hoạt động nhập khẩu đổi hàng là không chỉ có lợi nhuận từ hoạt động
nhập khẩu mà còn để xuất khẩu hàng có lãi.
Đặc điểm:
- Hàng nhập khẩu và xuất khẩu có sự cân bằng về giá trị hàng giao dịch và
cân bằng về điều kiện giao hàng.
- Doanh nghiệp nhập khẩu đổi hàng được tính cả kim ngạch nhập khẩu và
kim ngạch xuất khẩu, doanh số cả trên hàng xuất nhập khẩu.
- Hình thức của hợp đồng nhập khẩu đổi hàng là có thể chỉ lập bằng một
hợp đồng với hai danh mục hàng hóa hoặc hai hợp đồng mà mỗi hợp đồng một
danh mục hàng hóa.
- Trong trường hợp nhập khẩu đổihàng thường có điều kiện đảm bảo đối
lưu. Sự đảm bảo này có thể được thực hiện bởi một trong những phương pháp:
dùng thư tín dụng, dùng một tài khoản đặc biệt tại ngân hàng, dùng người thứ
ba….
1.2.5. Nhập khẩu tái xuất.
Khái niệm: nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào trong nước nhưng
không phả để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước khác nhằm thu được
lợi nhuận cao hơn, những hàng nhập khẩu này không qua chế biến ở nước tái
xuất. Nhưvậy nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia đó là nước xuất
khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Đặc điểm:

- Doanh nghiệp tái xuất phải thực hiện hai hợp đồng là mmọt hợp đồng
nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu.
- Doanh nghiệp nhập khẩu tái xuất được tính kim ngạnh xuất khẩu và nhập
khẩu doanh số bán tínhtrên giá trị hàng xuất khẩu và phải chịu tuế doanh thu.
- Hàng hóa nhập khẩu không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể
chuyểnthẳng sang nước thứ ba nhưng trả tiền phải luôn là nước tái xuất thu tiền
từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu
được lợi nhuận từ việc tiền hàngthu nhanh trả chậm.
1.2.6. Nhập khẩu theo đơn nhập hàng
Khái niệm: nhập khẩu theo đơn đặt hàng là hình thức đơn vị ngoại thương chịu
mọi chi phí và rủi ro để nhập khẩu hàng hóa cho đơn vị đặt hàng trên cơ sở đơn
đặt hàng của đơn vị đặt hàng có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền.
Đặc điểm:
- Đơn vị ngoại thương phải kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài theo
đúng đơn đặt hàng về tên hàng, số lượng,quy cách, chất lượng và điều kiện, thời
gian giao hàng.
- Đối với hình thức này phương thức thanh toán thường áp dụng là: nhờ thu
có chấp nhận, có cải tiến.
Với các hình thức nhập khẩu đa dạng như trên việc pá dụn hình thức nào cho
hợp lý còn phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp nhập khẩu, nhu cầu trong nướ
và phù hợp với quy định của pháp luật.
1.3. Khái niệm, vai trò và các hình thức cạnh tranh:
-Khái niệm: Ngày nay các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh vầ coi
cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sẹ phát triển mà cồn là
một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, tạo động lực phát
triển. Do đó quan điểm cạnh tranh như sau: cạnh tranh là cuộc đấu gay gắt, quyết
liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi
nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cạnh tranh diễn ra ở mọi nơi và ở mỗi nơi một hình thái cạnh tranh lại có đặc

điểm riêng và phạm vi riêng. Để hiểu được cạnh tranh chúng ta có thể tìm hiểu
về khái niệm lợi thế cạnh tranh và môi trường cạnh tranh:
Lợi thế cạnh tranh : là một khái niệm cơ bản của quản lý chiến lược, việc tạo ra
và giữ được nó là tất cả những gì quản lý chiến lược quan tâm. Lợi thế cạnh tranh
là cái làm cho doanh nghiệp khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh. Các doanh
nghiệp cố gắng phát triển lợi thế cạnh tranh như vậy để thu hút khách hàng. Lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp dễ bị soi mói bởi những hành động bắt chiếc của
đối thủ. Bởi vì lợi thế cạnh tranh có nghĩa tồn tại những đối thủ cạnh tranh, do
vậy chúng ta cần xem xết đến môi trường cạnh tranh để cảm nhận được lợi thế
cạnh tranh được phát huy.
Môi trường cạnh tranh: có rất ít ngành trên lĩnh vực hoặc doanh nghiệp không
phải đương đầu với một hình thức và mức độ cạnh tranh nào đó. Thực tế theo
một số nhà nghiên cứu quản lý chiến lược đã mô tả môi trường cạnh tranh hiện
nay là một môi trường siêu cạnh tranh,đố là một mức độ cạnh tranh rất khốc liệt
và liên tục gia tăng.
- Phân loại cạnh tranh.
+ Căn cứ vào mức độ tính chất cạnh tranh trên thị trường:
Cạnh tranh hoàn hảo: là có nhiều người mua ngươì bán độc lập với nhau sản
phẩm là đồng nhất. Doanh nghiệp định giá cao hơn thì không bán được bất cứ
thứ gì vì người mua sẽ mua của người khác. Vì thế doanh nghiệp cạnh tranh hoàn
hỏa không có sức mạnh thị trường, tức là không có khả năng kiểm soát thị trường
đối với sản phẩm của mình bán ra. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với
cung của thị trường vì thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến tổng
sản lượng, giá trên thị trường trong cạnhtỷanh hoàn hảo không có cạnh tranh giá
cả.
Cạnh tranh độc quyền chỉ có một người mua và một người bán duy nhất, sản
phẩm là độc nhất, chính sách của doanh nghiệp trong cạnh tranh độc quyền và
định giá cao là sản lượng sản xuất ra ít. Tuy nhiên, không có nghĩa là nhà độc
quyền có thểư định giá bao nhiêu cũng được. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm tiêu
dùng của sản phẩm và cơ chế quản lý của nhà nước mà độc quyền có thể định giá

cao hay thấp để cuối cùng có thể thu được lợi nhuận tối đa. Các nhà độc quyền
cũng dùng hình thức cạnh tranh phi giá để thu hút khách hàng.
Độc quyền tập đoàn: Sản phẩm có thể giống hoặc khác nhau và chỉ có một số
doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hoặc hầu hết sản lượng. Tính phụ thuộc giữa các
doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh nghiệp này ảnh hưởng đến hành vi của
doanh nghiệp khác. Nừu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn tới tình trạng phá giá,
do đó các doanh nghiệp dễ cấu kết với nhau. Vì cạnh tranh bằng giá không có lợi
nên người ta chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản
phẩm.
+ Căn cứ vào phạm vi nền kinh tế
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản
xuất và tiêu thụ một loại hàng hóa và dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này
các doanh nghiệp tìm mọi cách thôn tính lẫn nhau, dành khách hàng về mình.
Biện pháp canh tranh chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động.
Giảm chi phí sản xuất nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa do doanh nghiệp
sản xuất thấp hơn giá trị xã hội để thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả
của cạnh tranh là kỹ thuật sản xuất phát triển, điều kiện sản xuất trong một ngành
thay đổi, giá trị xã hội của hàng hóa được xác định lại.
Cạnh tranh giữa các ngành: Cạnh tranh giữa các ngành kinh tế với nhau nhằm thu
được lựo nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư nếu bỏ vào
ngành khác. Sự cạnh tranh này dẫn đến doanh nghiệp đang kinh doanh từ ngành
có tỷ suất lợi nhuận cao hơn hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các
ngành
+ Căn cứ vào đối tượng kinh tế tham gia vào thị trường
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau là loại cạnh tránh quyết liệt
nhất trên thị trường. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thủ tiêu tranh dành
khách hàng và thị trường, khi ấy giá cả sẽ giảm xuống và người mua được lợi.
Đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn của doanh
nghiệp.
Cạnh tranh giữa người bán với người mua: người bán và người mua cạnh

tranh nhau theo quy luật mua rẻ bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán sản
phẩm của mình vơí giá cao người mua muốn mua với giá thấp. Giá cuối cùng
chấp nhập được là giá thông nhất giữa người bán và người mua sau quá trình mặc
cả với nhau.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Cạnh tranh xảy ra trên cơ sở tranh
mua khi cung nhỏ hơn cầu. Do hàng hóa trên thị trường khan hiếm nên người
mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được hàng hóa mà họ cần.
- Vai trò của cạnh tranh.
Mỗi một doanh nghiệp không thể lẩn tránh được cạnh tranh vì như vậy là cầm
chắc phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng linh
hoạt sử dụng các công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mình. Cạnh tranh buộc các
doanh nghiệp phải:
Tối ưu hóa các yếu tố đầu vào cảu sản xuất kinh doanh.
Không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Nhanh chóng tiếp cận với cơ hội kinh doanh mới
Không ngừng phục vụ tốt hơn nhu cầu của ngưiơù tiêu dùng cuối cùng.
Cạnh tranh làm cho giá cả phục vụ giảm xuống nhưng chất lượng lại được nâng
cao nên kích thích sức mua, làm tăng tốc độ tăng trưeởng của nền kinh tế.
Tòm lại, cạnh tranh là sự vươn lên mạnh m,ẽ của nhà sản xuất để sản xuất một
cách dễ dàng các loại sản phẩm hàng hóa, chiếm lĩnh mỏe rộng thị trường và thu
được lợi nhuận cao. Cạnh tranh làm cho nền kinh tế sản xuất phát triển, là điều
kiện quan trọng để phát triển sản xuất tiến bộ khoa học kỹ thuât, giáo dục tính
năng độngtháo vát cho các nhà sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh là cho các doanh
nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và ngày càng cải tiến cách
thức sản xuất để đem lại lợi nhuận tối đa nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những
vấn đề còn tồn tại cần phải giải quyết như một số nhược điểm của cạnh tranh độc
quyền dẫn đến thiệt hại cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, những thủ
đoạn lừa bịp, hàng giả, hàng lậu.
Doanh nghiệp muốn cạnh tranh được thì bên cạnh việc tìm hiểu thực tế thị trường
và những vấn đề liên quan đên đối thủ cạnh tranh, phải có những biện pháp thích

hợp trong quá trình phát triển và sản xuất kinh doanh đó là nghiên cứu và ứng
dụngcác lý luận về cạnh tranh một cách sáng tạo và phù hợp.
- Các công cụ cạnh tranh.
+ Giá cả: là một trong những công cụ cạnh tranh quan trọng nhất của bất cứ
một doanh nghiệp nào khi đã tham gia vào thị trường. Theo lý thuyết kinh tế giá
cả được xác định của sự giao nhau của cung và cầu, nhưng thực tế doanh nghiệp
hoàn toàn có thể định giá cho sản phẩm của mình tùy theo mục đích kinh doanh
cụ thể, chỉ cần mức giá đó bù đắp được chi phí sản xuất và phải có lãi. Do vậy
doanh nghiệp có thể chọn giá cả làm công cụ cạnh tranh của mình. Trong thương
mại để dành được phần thắng trong cuộc chạy đuakinh tế thì các doanh nghiệp
thường đưa ra một mức giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách
hàng, tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ của mình. Các đối thủ có thể phản
ứng lại bằng cách hạ giá thấp hơn. Công cụ cạnh tranh này khi đã trở nên gay gắt
thì sẽ biến thành cuộc chiến tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp.
Giá cả được thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá
của sản phẩm: định giá sản phẩm thấp, định giá ngang thị trường, chính sách định
giá cao.
Với một mức giá ngang thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách
hàng, nêu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm chi phí thì lợi nhuận thu
được sẽ tăng. Ngược lại với một mức giá thấp hơn thị trường sẽ thu hút được
nhiều khác hàng và tăng sản lượng tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập
thị trường và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn
mức giá thị trường chỉ sử dụng được khi các doanh nghiệp có tính độc quyền,
điều này sẽ giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh doanh nghiệp cần phải có sự
lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng thời kỳ trong
chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc đặc điểm của thị trường
+ Chất lượng sản phẩm: Khi thu nhập trong đời sống dân cư ngày càng
cao thì cạnh tranh bằng giá xem như không hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm
và dịch vụ sẽ là mối quan tâm, của khách hàng nên nếu như hàng hóa có chất

lượng thấp thì dù có bán rẻ cũng không thể tiêu thụ được. Để nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ doanh nghiệp không còn cách nào khác là
phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chất lượng được thể hiện qua
nhiều yếu tố, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện phát triển mọi yếu tố chất
lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc một số yếu tố nào đó.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khách hàng và kỹ thuật cúng như
sự bành chướng của các công ty đa quốc gia thì vấn đề canỵh tranh bằng chất
lượng càng trở nên gay gắt, Khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất
lượng cao. Chính vì vậy, đối với các quốc gia có trình độ sản xuất còn nhiều hạn
chế sẽ rất khó có khả năng canh tranh trên thị trường quốc tế.
+ Dịch vụ khách hàng: Ngoài cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng thì trên
thực tế doanh còn phải cạnh tranh với nhau bằng dịch vụ. Đây là công cụ cạnh
tranh hết sức phổ biến, đó có thể là:
Dịch vụ trược khi bán hàng: bao gồm các hoạt động chào hàng, các thông
tin về mặt hàng, trưng bày hàng…
Dịch vụ trong khi bán hàng: là những hoạt động phục vụ quá trình lựa
chọn xem xét quyết định mua hàng của khách hàng. Hàng hóa phải được trưng
bày đẹp, hấp dẫn, bán đúng giá liêm yết, giúp đỡ và tư vấn cho khách hàng về
cách sử dụng, cung cấp đầy đủ hóa đơn chứng từ, tài liệu cần thiết, giấy bảo hành
và các dịch vụ bổ sung.
Dịch vụ sau bán hàng: dịch vụ thông tin kỹ thuật, đưa hàng đến nhà cho
khách hàng, hướng dẫn sử dụng, lắp đặt, bảo hành…
Cạnh tranh bằng dịch vụ khách hàng ngày càng được sử dụng rộng rãi và
đa dạng hơn nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ trọng và cơ cấu của
nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì khi đó khách hàng
cảm thấy mình được tôn trọng và khi đó sẽ có cảm tình với sản phẩm của doanh
nghiệp.
+ Cạnh tranh bằng nghệ thuật phân phối tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản
phẩm là khâu cuối cùng của quá trình ản xuất kinh doanh. Đây là giai đoạn thực
hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.

Việc đầu tiên của việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh
phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một
cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng để nhanh chóng giải phóng nguồn hàng
để bù đắp chi phí và thu hồi vốn. Kênh phân phối phải tạo được sự phối hợp ăn ý
giữa các rthành viênkhông vì quyền lợi của thành viên này mà làm tổn hại đến
toàn bộ hệ thống kênh phân phối. Kênh dài hay ngắn là phụ thuộc vào mục tiêu
phân phối của doanh nghiệp.
Thông thường có 3 kênh phân phối sau:
Kênh trực tiếp: người sản xuất – người tiêu dùng cuối cùng
Kênh gián tiếp: người sản xuất- người bán lẻ- người tiêu dùng cuối cùng.
Kênh gián tiếp dài: người sản xuất- người bán buôn- người bán lẻ- người tiêu
dùng cuối cùng.
Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế kỹ thuất của sản phẩm cần tiêu thụ, đặc
điểm về khoảng cách với thị trường, địa hình, hệ thống thông tin của thị trường
và khả năng tiêu thụ của thị trường. Từ việc phân tích các đặc điểm trên doanh
nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý đạt hiệu quả
cao.
- Các đối thủ cạnh tranh.
Để có thể tồn tại và phát triển được trên thương trường thì các doanh
nghiệp buộc phải nghiên cưu đối thủ cạnh tranh của mình để từ đó tìm ra được
điểm mạn điểm yếu và tìm ra những biện pháp khắc phục nhược điểm của mình.
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh dưới 2 góc độ:
+ Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh dưới góc độ ngành kinh doanh: Đối thủ
cạnh tranh được xác định là những doanh nghiệp sản xuất cùng một loại sản
phẩm giống nhau hoặc cung cấp cùng một loại dịch vụ giống nhau. Những đối
thủ cạnh tranh trong một ngành sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ giống
nhau hoặc rất giống nhau. Hơn thế nữa những ngành này hoặc ngành khác có thể
được mô tả theo số người bán và tiêu chuẩn sản phẩm. Lượng người bán và mức
độ khác biệt của sản phẩm, dich vụ sẽ ảnh hưởng đến cường độ cạnh tranh của

ngành.
+ Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh dưới góc độ nhóm chiến lược: Trong một
ngành có thể thấy ít nhất hoặc một số nhóm chiến lược phụ thuộc và những yếu
tố chiến lược nào là quan trọng đối với những nhóm khách hàng khác nhau. Ví
dụ hai nhóm yêu tố chiến lược thường được dùng để phân nhóm các đối thủ cạnh
tranh là giá cả và chất lượng bởi vì chúng rất quan trọng đối với khách hàng. Các
đối thủ cạnh tranh có thể được phân nhóm theo những chiến lược giá cả, chất
lượng của họ cùng với những ai tuân thủ những phương pháp giống nhau hoặc
tương tự như trong một nhóm chiến lược giống nhau. Những yếu tố chiến lược
quan trọng sử dụng để xác định các đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp là
rất khác nhau đối với mỗi ngành.
Theo phương pháp này, khái niện nhóm chiến lược là quan trong để hiểu
được ai là đối thủ cạnh tranh và các đối thủ cạnh tranh gần nhất của doanh nghiệp
là những ai ở trong nhóm chiến lược của doanh nghiệp đó. Mặc dù cạnh tranh có
thể xuất phát từ những doanh nghiệp cùng ở trong nhóm chiến lược, nhưng mức
độ cạnh tranh từ góc độ này phụ thuộc vào việc mỗi đối thủ cạnh tranh có thể xây
dựng lợi thế canh tranh bên vững một cách hiệu quả như thế nào vào chiến lược.
Cho dù chúng ta có thể định nghĩa đối thủ cạnh tranh như thế nào, sự thực
là có các doanh nghiệp khác đang hoạt động tích cực để giành lấy khách hàng, tài
nguyên và những kết quả khác. Mỗi doanh nghiệp này đều có những nguồn lực
và khả năng cố gắng khai thác.
1.4. Sức cạnh tranh của hàng hoá và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá.
1.4.1. Sức cạnh tranh của hàng hoá
-Khái niệm.
Sức cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố,tiềm
năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương
trường cạnh tranh một cách lâu dài và có ý nghĩa.
Sức cạnh tranh của hàng hóa được xác định dựa vào các ưu thế của nó. Ưu
thế cạnh tranh được hiểu như là những đặc tính hoặc những thông số của sản

phẩm nhờ đó mà sản phẩm có được sự ưu việt, sự vượt trội hơn so với sản phẩm
của đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Ưu thế cạnh tranh của hàng hóa thể hiện ở sự
phân biệt hóa sản phẩm.
Để đánh giá được một sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh hay không thì
cần phải dựa vào một số công cụ sau:
` Giá thành sản phẩm và lợi thế về chi phí.
` Chất lượng sản phẩm và khả năng đảm bảo nâng cao chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp.
` Các dịch vụ đi kèm theo sản phẩm.
- Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh.
+ Các chỉ tiêu định tính:
` Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm:
Sản phẩm của công ty thể hiện sức cạnh tranh ở chỗ nó được khách hàng
đánh giá như thế nào trên thị trường, tốt hay xấu, xu hướng tiêu dùng đối với sản
phẩm đó dài lâu hay không. Nừu khách hàng đánh giá sản phẩm đó là tốt và có
nhu cầu tiêu dùng trong thời gian dài thì chứng tỏ sức cạnh tranh của sản phẩm
đó là tốt.
Cơ cấu sản phẩm của công ty thể hiện sức cạnh tranh ở chỗ sản phẩm có
đa dạng, phong phú về chủng koại hay không? Nếu sản phẩm phong phú và đa
dạng thì khả năng cạnh tranh cao hơn nuững sản phẩm yếu kém hơn về cơ cấu.
Như vậy, dựa vào sản phẩm và cơ cấu của sản phẩm của công ty chúng ta
biết được phần nào tình hình kinh doanh của công ty và biết được khả năng cạnh
tranh về sản phẩm của công ty ở mức độ nào. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải
thay đổi sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của mình một cách thích hợp theo nhu cầu
thị hiếu của người tiêu dùng để năng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đó.
Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có
sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình. Vấn đề đặt ra cho các
doanh nghiệp là phải làm cho snả phẩm của mình thích ứng được với thị trường
một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu thụ hết trên thị trường, mở rộng thị
trường để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghịêp.

Để có thể cạnh tranh với đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải luôn
thực hiện đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn
được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải
tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tụcc duy trì các loại
sản phẩm hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng
cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hoá. Đa dạng hoía sản phẩm không chỉ để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu
thị trường, thu được nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro
trong kinh daonh khi mà cuộc cạnh tranh càng trở nên gay gắt và quyết liệt.
Đi đôi với việc đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững trong điều
kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá sản phẩm
vào một số loại sản phẩm nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị
trường nhất định của mình. Trong phạm vi này, doanh nghiệp có thể phục vụ
một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn so với các đối thủ cạnh tranh và như vậy,
doanh nghiệp đã tạo được một bước rào chắn, đảm bảo giữ được thị phần của
mình trên thị trường.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện chiến lược khác biệt hoá
sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp hẫn cho khách
hàng vào các sản phẩm của mình, nâng cao uy tín doang nghiệp.
Như vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm là một trong những yếu
tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
` Chất lượng của sản phẩm:
Chất lượng của sản phẩm cũng là một chỉ tiêu định tính phản ánh sức cạnh
tranh của sản phẩm. Nếu chất lượng của sản phẩm là tốt chứng tỏ sức cạnh tranh
của sản phẩm là cao và ngược lại, chất lượng của snả phẩm xấu thì sức cạnh
tranh của sản phẩm thấp. Như vậy, việc doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản
phẩm đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác dịnh bắng
các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn các diều kiện kỹ thuật
và các yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng sản phẩm

được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ
hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, dây chuyền sản xuất,
nguyên vật liệu, trình đọ tay nghề lao động, trình độ quản lý.
Chất lượng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp.
Một khi chất lượng sản phẩm không được đảm bảo thì cũng có nghĩa là doanh
nghiệp bị mât khách hàng, mất thị trường và nhanh chóng đi đến chỗ suy yếu và
bị phá sản.
Hiện nay, nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất
lượng đã xuất hiện: Chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó ccòn
do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn
sự đánh giá của kháchhàng mang tính khách quan. Đây là một quan niệm mới
xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết
liệt hơn.
Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định khả năng cạnh chất tranh
của doanh nghiệp ở chỗ:
o Nâng cao lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối
lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.
o Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích
khách mua hàng và mở rộng thị trường
o Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình
tài chính của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh đều
có thái độ tích cực trong quản lý chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ
la đảm bảo chất lượng tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung

×