Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển nghề nuôi cá chình bông (anguilla marmorata) tại thành phố cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 70 trang )


i




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào.

Quách Nhật Bình

ii



LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin gửi đến Ban Giám hiệu, Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Phòng
Đào tạo Đại học & Sau đại học Trường Đại Học Nha Trang sự kính trọng và niềm tự
hào đã được học tập và nghiên cứu tại Trường trong những năm qua.
Xin chân thành cảm ơn đến Cô TS. Hoàng Thị Bích Đào, người đã định hướng,
động viên và cho tôi những lời khuyên quý báu trong suốt thời gian tôi học tập và thực
hiện đề tài tốt nghiệp.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến UBND tỉnh Cà Mau, Sở nội vụ, Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm khuyến ngư, phòng Nông nghiệp và
phát triển nông thành phố Cà Mau đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời
gian học tập tại Trường Đại học Nha Trang và thực hiện đề tài tại tỉnh Cà Mau.
Đặc biệt tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy, Cô trong Khoa Nuôi trồng


Thủy sản đã luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập
Cuối cùng, là lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè, những người đã giúp đỡ tôi về
tinh thần và vật chất, để tôi vượt qua những khó khăn hoàn thành khóa học!


iii

MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH vii
CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU viii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Vài nét về đối tượng nghiên cứu 3
1.1.1. Vị trí phân loại 3
Cá Chình bông nằm trong hệ thống phân loại sau: 3
1.1.2. Thành phần loài 3
1.1.3. Đặc điểm hình thái 4
1.1.4. Sự phân bố 4
1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng 6
1.1.5.1. Protein 6
1.1.5.2. Lipit 7
1.1.5.3. Vitamin 8
1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển 9
1.1.7. Đặc điểm sinh sản 9

1.1.8. Một số yếu tố sinh thái của cá chình 11
1.1.8.1. Tính thích ứng với nhiệt độ 11
1.1.8.2. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) 12
1.1.8.3. Độ mặn 12
1.1.8.4. Nồng độ pH 12
1.1.8.5. Ánh sáng 13

iv

1.1.8.6. Sự thích ứng dòng chảy 13
1.2. Tình hình nghiên cứu cá chình trên thế giới và Việt Nam 13
1.2.1. Trên thế giới 13
1.2.1.1. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chình 13
1.2.1.2. Tình hình nuôi cá chình trên thế giới 14
1.2.2. Tình hình nghiên cứu cá chình tại Việt Nam 17
1.2.2.2. Tình hình nuôi cá chình tại Việt Nam 18
1.3. Một vài nét về nghề nuôi cá chình ở Cà Mau 18
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 20
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 20
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 20
2.2. Phương pháp nghiên cứu 20
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 20
2.2.1.1 Thu thập số liệu thứ cấp 20
2.2.2. Hoạt động điều tra phỏng vấn: 20
2.2.2.1 Chọn hộ điều tra phỏng vấn 20
2.2.2.2 Tiêu chí điều tra 21
2.2.2.3 Sơ đồ khối hoạt động điều tra, phỏng vấn 21
2.2.3. Đề xuất giải pháp 22
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu 22

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 23
3.1. Hiện trạng nghề nuôi cá Chình bông tại thành phố Cà Mau 23
3.1.1. Một số nét cơ bản về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế-xã hội 23
3.1.1.1 Điều kiện tự nhiên 23
3.1.1.2. Kinh tế - xã hội 26
3.1.2 Hiện trạng nghề nuôi cá Chình bông 34
3.1.2.1 Hiện trạng vùng nuôi, hình thức nuôi 34

v

3.1.2.2 Hiện trạng kỹ thuật nuôi 35
3.1.2.3 Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề nuôi cá chình 41
3.1.2.4 Hiệu quả xã hội của nghề nuôi cá chình 45
3.1.2.5 Thuận lợi, khó khăn và kiến nghị của nghề nuôi cá chình 45
3.1.2.6. Cơ hội và thánh thức của nghề nuôi cá chình 48
3.2 Giải pháp phát triển nghề nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau 49
3.2.1 Giải pháp về quy hoạch 49
3.2.2 Giải pháp về kỹ thuật 49
3.2.3 Giải pháp về môi trường 51
3.2.4 Giải pháp về dịch vụ 51
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 53
4.1. Kết luận 53
4.2. Đề xuất ý kiến 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHỤ LỤC



vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Thành phần loài, đăj điểm và sự phân bố cá chình trong giống Anguilla 5
Bảng 1.2: Hàm lượng Protein (%) trong thức ăn cá chình ở một số nước và khu vực
trên Thế giới. 7
Bảng 1.3: Hàm lượng Lipit (%) trong thức ăn cá chình ở một số nước và khu vực trên
Thế giới 8
Bảng 1.4: Sản lượng cá chình nuôi trong nhà kính tại Nhật [25] 15
Bảng 1.5: Sản lượng nuôi cá chình ở một số quốc gia năm 2000 (FAO 2001) 16
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu về khí hậu thành phố Cà Mau giai đoạn 2005 – 2008 [18] .24
Bảng 3.2: GDP thành phố Cà Mau giai đoạn 2006-2008 (ĐVT: tỷ đồng) [18] 26
Bảng 3.3: Lao động trong các ngành kinh tế từ năm 2004-2008 (ĐVT: người) [18] 27
Bảng 3.4: Phân bố độ tuổi của chủ hộ 31
Bảng 3.5: Hiệu quả kinh tế nghề nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau (n=60) 43


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 1.1: Bản đồ phân bố của cá chình bông trên thế giới 3
Hình 1.2: Cá Chình bông A. marmorata 4
Hình 1.3: Vòng đời của cá chình 11
Hình 3.1: Bản đồ hành chính thành phố Cà Mau 23
Hình 3.2: Diện tích các đối tượng nuôi ở thành phố Cà Mau (%) 27
Hình 3.3: Diện tích nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau 28
Hình 3.4: Sản lượng các đối tượng nuôi ở TP. Cà Mau (%) 29
Hình 3.5: Sản lượng cá chình năm 2009 của thành phố Cà Mau (tấn) 30
Hình 3.6: Trình độ văn hóa của các chủ hộ nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau (%)

(n=60) 31
Hình: 3.7: Trình độ chuyên môn của các hộ nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau (%)
(n=60) 32
Hình: 3.8: Số năm nuôi cá chình của chủ hộ (%) (n=60) 33
Hình 3.9: Nhân khẩu của các hộ nuôi cá chình (%) (n=60) 33
Hình 3.10: Diện tích ao nuôi cá chình ở thành phố Cà Mau (%) (n=60) 35
Hình 3.11: Ao nuôi cá chình ở TP.Cà Mau 36
Hình 3.12: Cá chình trong ao nuôi ở TP.Cà Mau 36
Hình 3.13: Cỡ giống thả của các hộ nuôi (%) (n=60) 37
Hình 3.14: Chế độ thay nước của các hộ nuôi (%) (n=60) 39
Hình: 3.15: Lượng nước thay trong các ao nuôi (%) (n=60) 39
Hình 3.16: Tỷ lệ sống của cá chình tại các hộ nuôi (%) (n=60) 40
Hình 3.17: Cơ cấu chi phí trong nuôi cá chình tại thành phố Cà Mau (%)(n=60) 41
Hình 3.18: Năng suất các vùng nuôi cá chình ở thành phố Cà Mau (n=60) 42
Hình 3.19: Lợi nhuận của nghề nuôi cá chình ở các vùng nuôi (đồng/ha/năm) 44
Hình 3.20: Khó khăn của các hộ nuôi cá chình (%)(n=60) 46


viii



CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản
TB : Trung bình
TBD : Thái Bình Dương
STT : Số thứ tự
ĐVT : Đơn vị tính
TP : Thành phố

NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
FCR : Hệ số thức ăn
W : Khối lượng
L : Chiều dài


1

MỞ ĐẦU

Cá Chình trong giống Anguilla là đối tượng nuôi có ý nghĩa kinh tế bởi giá trị
dinh dưỡng cao và chất lượng thịt thơm ngon, được người dân ở nhiều nước trên thế
giới ưa chuộng và coi cá chình như “nhân sâm ở dưới nước”. Trên thế giới nhiều
nước đã đầu tư nuôi rất mạnh đối tượng này như: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Hàn Quốc, Hà Lan, Đan Mạch … Trong các loài cá chình hiện nay thì loài A. anguilla
và A. japonica được nuôi khá phổ biến.
Ở Việt Nam, cá Chình bông A. marmorata là đối tượng đang được quan tâm
nghiên cứu cũng như đã phát triển nuôi nhiều ở một số tỉnh Miền Trung và Đồng bằng
Sông Cửu Long. Ở các tỉnh miền Trung như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa có
nguồn lợi lớn về cá Chình bông và nghề nuôi cá Chình bông ở đây phát triển khá mạnh,
hình thức nuôi chủ yếu trong bể xi măng và nuôi lồng. Trong khi đó, ở một số tỉnh
Đồng bằng Sông Cửu Long nghề nuôi cá Chình bông chỉ mới bắt đầu, với hình thức
nuôi chủ yếu trong ao đất. Nguồn giống Cá Chình bông phục vụ cho nuôi thương
phẩm hiện đang bị động, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn giống khai thác được từ tự
nhiên ở các tỉnh miền Trung vận chuyển về.
Việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo Cá Chình bông hiện đang được quan tâm
nghiên cứu nhưng chưa thành công. Mặt khác, do nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu
ngày càng tăng, giá cá chình tăng cao, cá chình trở thành đối tượng bị khai thác triệt để
bằng nhiều hình thức khác nhau như: hóa chất độc hại, thuốc nổ, kích điện … làm cho
nguồn lợi cá chình suy giảm. Một số loài cá chình trong giống Anguilla như cá Chình

Bông (A.marmorata) đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam với mức độ đe dọa R (Race:
hiếm, có thể nguy cấp) [14] cần được bảo vệ. Đây là một trở ngại cho sự phát triển
nghề nuôi thương phẩm, mặc dù nuôi cá Chình thương phẩm đã đạt được một số kết
quả khả quan.
Mặc dù mới phát triển khoảng vài năm trở lại đây nhưng hiện nay, Cá Chình
bông đang được nhiều người dân Cà Mau quan tâm đầu tư nuôi thương phẩm bởi giá
trị kinh tế cao của nó. Chỉ nuôi trong ao đất, người dân hiểu biết về Cá Chình bông
chưa nhiều nhưng số người đầu tư nuôi đối tượng này ngày một tăng. Bên cạnh đó,
việc đánh giá hiệu quả của các hộ nuôi, xây dựng qui trình nuôi Cá Chình bông vẫn
chưa được các ngành chức năng quan tâm đúng mức.

2

Trước những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn sản xuất, để làm cơ sở cho nghề
nuôi cá chình phát triển trong tương lai và với mong muốn được đóng góp một phần
công sức của bản thân vào sự phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nghề
nuôi cá chình nói riêng tại thành phố Cà Mau. Được sự đồng ý của Trường Đại học
Nha Trang và sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Hồng Thị Bích Đào, tôi đã tiến
hành thực hiện đề tài:
“Hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển nghề ni cá Chình bơng
(Anguilla marmorata) tại thành phố Cà Mau”. Với các nội dung sau:
1. Điều tra, phân tích hiện trạng của nghề ni cá Chình bơng tại TP. Cà Mau.
2. Đề xuất một số giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả nghề ni cá Chình
bơng tại địa phương
Mục tiêu của đề tài:
Xác định được hiện trạng nghề ni thương phẩm Cá Chình bơng tại TP. Cà
Mau để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghề ni Cá Chình
bơng ở địa phương.
Đề tài thực hiện thành cơng sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Góp phần cung cấp thêm các thơng tin về kinh tế, kỹ thuật và hiện trạng của

nghề ni cá Chình bơng tại thành phố Cà Mau.
- Là cơ sở khoa học cho ngành thủy sản địa phương đề ra các biện pháp kỹ thuật
và quản lý nhằm phát triển nghề ni cá Chình bơng tại thành phố Cà Mau một cách
hợp lý.














3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vài nét về đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Vị trí phân loại
Cá Chình bông nằm trong hệ thống phân loại sau:
Lớp: Osteichthyes
Phân lớp: Actinopterygii
Bộ: Anguilliformes
Phân bộ: Anguilloidei
Họ: Anguillidae

Giống: Anguilla
Loài: Anguilla marmorata (Quoy & Gaimard, 1824)

Hình 1.1: Bản đồ phân bố của cá chình bông trên thế giới

1.1.2. Thành phần loài
Trên thế giới có rất nhiều loài cá chình sống trong nước mặn và một số loài cá
chình sống trong nước ngọt. Tuy nhiên, chỉ có 1 số ít loài trong giống Anguilla có đời
sống 1 phần ở nước ngọt và 1 phần ở biển [10]. Năm 1939 Willhehm Ege đã công bố
kết quả xác định thành phần loài cá Chình của mình. Theo kết quả đó tác giả đã xác
định trên thế giới hiện nay có 16 loài và 6 bậc dưới loài trong giống cá chình
Anguilla [25], [32].


4

1.1.3. Đặc điểm hình thái
Thân cá chình dài, phần trước hình ống, phần sau hơi dẹp, đầu dài và hơi nhọn,
hơi dẹp bằng. Mắt bé, miệng rộng ở phía trước. Môi dày, lưỡi tự do không dính vào
đáy miệng. Hàm dưới và trên có răng nhỏ xếp thành hình đai [6]. Lỗ mang nhỏ, hẹp
nằm phía trước và dưới vây ngực, thẳng góc với trục thân. Vảy bé xếp thành hình
chiếc chiếu và dấu dưới da [15][37].
Cá chình có hai lỗ mũi. Lỗ trước ở phía trước miệng, lỗ sau ở phía trước mắt.
Khi cá chui xuống bùn, mũi đóng lại để bùn không chui vào. Do đời sống hang hốc
nên mắt nhỏ, các cơ quan khứu giác, đường bên đều phát triển [12]. Vây ngực nhỏ gần
như hình tròn, không có vây bụng. Vây lưng có màu sẫm, khởi điểm của vây lưng
trước vây hậu môn, khoảng cách giữa chúng lớn hơn ½ chiều dài đầu và lớn hơn
khoảng cách từ điểm vây lưng đến khe mang [6]. Vây đuôi dài nối liền với vây hậu
môn tương đối phát triển. Hậu môn nằm ở giữa phía trước thân [12][37].
Da gồm nhiều biểu bì bài tiết chất dịch làm giảm bớt lực cản trong nước, tăng

tốc độ bơi lội và giảm ma sát khi chui vào hang. Chất dịch cá tiết ra còn có tác dụng
bảo vệ thân cá khi gặp môi trường không thích hợp [12].

Hình 1.2. Cá Chình bông A. marmorata
1.1.4. Sự phân bố
Sự phân bố của các loài cá Chình khác nhau rất lớn. Trong số 16 loài và 6 bậc
dưới loài của cá Chình đã được phát hiện, trên thế giới chỉ có 2 loài phân bố ở vùng
biển Đại Tây Dương, số khác thì được phát hiện ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
[10], [25], [32].

5

Bảng 1.1: Thành phần loài, đăj điểm và sự phân bố cá chình trong giống Anguilla
Kích cỡ tối đa
Stt

Tên loài
Màu
sắc
Số
đốt
sống
Phân bố trên thế giới
W(kg)

L(cm)
1 A. ancestralis Đốm 103 N. Sulawesi
2 A. celebesensis Đốm 103 Indonesia, Philipine
3 A. interioris Đốm 105 New Guinea
4 A. megastoma Đốm 112

Các đảo TBD từ phía đông
Solomon tới Pitcairn
22 90
5 A. nebulosa Đốm 110 Đông Phi và Ấn Độ 10 150
6 A. marmorata Đốm 106
Nam Phi, Indonesia, Trung
Quốc, Nhật Bản, các đảo TBD
27 200
7 A. reinhardti Đốm 108 Đông Úc, New Caledonia 18 170
8 A. borneensis Trơn 106 Borneo, Celebes 2 90
9 A. japonica Trơn 116 Nhật Bản, Trung Quốc 6 125
10 A. rostrata Trơn 107
Bờ biển đông Hoa Kỳ, Canada,
Greenland
6 125
11 A. anguilla Trơn 115
Tây Âu, Bắc Phi, Iceland, New
Zealand
6 125
12 A. dieffenbachi Trơn 113 Tây Âu, Bắc Phi, Iceland 20 150
13 A. mossambica Trơn 103 Nam, Đông Phi, Madagascar 5 125
14 A. bicolor Trơn 108
Đông Phi, Madagascar, Ấn Độ,
Indonesia, bắc tây Úc
3 110
15 A. obscura Trơn 104
New Guinea, các đảo TBD từ
phía đông Solomons đến Tahiti

16 A. australis Trơn 112 Đông Úc, New Zealand 2,5 95

Các loài cá Chình phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới gần vành đai Xích đạo.
Khoảng 70% số cá Chình khác nhau tập trung ở vùng biển Thái Bình Dương [25],
[32]. Như vậy, hầu hết các loài cá Chình phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới và 6 loài

6

cá Chình được tìm thấy ở vùng ôn đới. Các loài cá Chình thuộc vùng ôn đới của Bắc
bán cầu có 3 loài: cá Chình Nhật (A. japonica) phân bố ở vùng biển Châu Á Thái
Bình Dương; cá Chình Châu Âu (A. anguilla) và cá Chình Mỹ (A. rostrata) phân bố ở
Đại Tây Dương.
Năm 1942, Poul Jespersen nghiên cứu cá bột giống Anguilla vùng biển Ấn Độ
Dương cho thấy chúng phân bố rất nhiều ở quần đảo Indonesia, Philippine, New
Guinea [32]
Cá chình Bông (A. marmorata) là loài phân bố rộng rãi nhất, chúng chịu ảnh
hưởng của dòng hải lưu. Trên thế giới, chúng phân bố ở Nhật Bản, Trung Quốc,
Indonesia, các vùng ôn đới và nhiệt đới của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương [12].
Cá chình Nhật phân bố ở Nhật bản và Trung Quốc, ở vùng biển Kainan-To,
Okinawa và Seiman-To Đài Loan nhưng lại không tìm thấy tại Philippine. Ở Việt Nam,
A. japonica là loài cá chình được phát hiện và xác định tên khoa học đầu tiên bởi
Temminck et Schlegel,1846 và Chevey và Lemason J. năm 1937, nhưng sau đó không
thấy chúng nữa [6].
1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng.
Cá chình là loài cá dữ, phàm ăn. Hầu hết các loài động vật và cá đều là nguồn
thức ăn của cá chình (từ côn trùng thủy sinh, giun ít tơ, côn trùng đến giáp xác và các
loài cá khác…). Tùy theo từng giai đoạn phát triển của cá mà có sự chuyển đổi nguồn
thức ăn và cách bắt mồi [37]. Cá con khi mới vào cửa sông trong ruột và dạ dày
thường chứa một lượng mùn bã hữu cơ. Ở giai đoạn giống, thức ăn của cá chủ yếu là
động vật phù du như Copepoda, Daphnia, Moina… Ở giai đoạn trưởng thành thức ăn
của cá chình là cá, tôm, giáp xác… Lúc thiếu thức ăn, chúng tranh cướp thức ăn lẫn
nhau và có xu hướng ăn thịt đồng loại [37].

Để phát triển, sinh sản và duy trì các hoạt động sinh lý bình thường khác, cá
chình cần phải được cung cấp Protein, Vitamin và các nguồn cung cấp năng lượng
khác. Sự thiếu hụt của một hay một vài chất dinh dưỡng khác nhau sẽ dẫn đến tỷ lệ
tăng trưởng giảm, cá dễ bị bệnh và có thể chết [25].
1.1.5.1. Protein
Protein là vật chất hữu cơ xây dựng nên các tổ chức mô của cá cũng như động
vật. Protein chiếm khoảng 60 - 70% tổng số vật chất khô của cơ thể. Cá sử dụng

7

protein để đáp ứng nhu cầu amino acid của cơ thể (Protein sau khi được các enzyme
protease thực hiện quá trình tiêu hóa hóa học giải phóng các amino acid tự do). Các
amino acid này sẽ được hấp thu qua thành ống tiêu hóa đi vào máu, được máu vận
chuyển đến các tổ chức cơ quan, các tổ chức mô khác nhau, ở đó chúng sẽ tham gia
vào quá trình tổng hợp protein mới. Nhu cầu protein phụ thuộc vào việc sử dụng các
amino acid để xây dựng nên các protein mới (trong thời kỳ sinh trưởng và sinh sản)
hoặc để thay thế các protein già cũ. Thức ăn thiếu protein sẽ làm giảm tốc độ sinh
trưởng của cá cũng như động vật vì chúng phải huy động các nguồn protein từ các tổ
chức trong cơ thể để đáp ứng nhu cầu amino acid, dẫn đến khối lượng giảm sút. Ngược
lại nếu thức ăn quá dư thừa protein thì chỉ một phần protein sẽ được sử dụng để tổng
hợp nên các protein mới trong cơ thể, phần còn lại sẽ được chuyển hóa thành năng
lượng hoặc bài tiết ra ngoài [8].
Nhu cầu Protein ở cá chình cao hơn so với các loài cá nước ngọt khác. Hàm
lượng Protein trong thức ăn sử dụng cho cá chình cũng khác nhau khi nuôi ở các nước
trên thế giới. Cá chình Nhật Bản có nhu cầu Protein 44,5% [25], trong thức ăn thành
phần này chiếm tỷ lệ khoảng 46- 52% [36]. Cá chình được nuôi tại Đài Loan hàm
lượng Protein trong thức ăn là 45% [42]. Tuy nhiên từ nghiên cứu khoa học và trong
thực tiễn sản xuất, hàm lượng Protein đáp ứng cho nhu cầu của cá Chình đều không
dưới 45% [25].
Bảng 1.2. Hàm lượng Protein (%) trong thức ăn cá chình ở một số nước và khu vực trên

Thế giới.
STT

Tên nước, Khu vực Hàm lượng Protein (%)
1 Châu Âu 46 – 52
2 Mỹ 55 – 60
3 Nhật Bản 46 – 52
4 Trung Quốc 50
5 Đài Loan 45
1.1.5.2. Lipit.
Lipid đóng vai trò quan trọng như là một nguồn cung cấp năng lượng, đặc biệt
đối với các loài cá dữ, khả năng sử dụng carbonhydrate để cung cấp năng lượng là rất

8

thấp [28], [29]. Với vai trò là vật chất cần thiết cấu tạo nên cơ thể và là nguồn cung
cấp năng lượng cho các hoạt động nên lipid được coi là chất dinh dưỡng quan trọng
thứ 2 trong thức ăn của cá [28], [35].
Khẩu phần lipit trong thức ăn có tác dụng như là nguồn cung cấp axit béo
(EFA) cần thiết để xây dựng nên cấu trúc của cơ thể và nguồn cung cấp năng lượng
cho các hoạt động của cá. Bên cạnh đó, chúng còn hoạt động như những chất vận
chuyển các vitamin hòa tan trong mỡ. Sự thiếu hụt của EFA trong thức ăn sẽ làm
giảm sức đề kháng của cá đối với bệnh tật, cá có tốc độ tăng trưởng thấp và hệ số sử
dụng thức ăn cao [28].
Tùy theo các loài cá khác nhau mà nhu cầu lipit trong thức ăn cũng khác nhau.
Hàm lượng lipit trong thức ăn nuôi cá biến động trong khoảng 2,5 – 15% [32]. Hàm
lượng lipit trong thức ăn cho cá chình châu Âu từ 3 – 5% [38], ở Nhật là 4% [25],
Trung Quốc là 5% [38]. Hàm lượng lipit trong thức ăn nuôi cá chình ở Đài Loan từ
5,34% đến 9,0% [34].
Bảng 1.3. Hàm lượng Lipit (%) trong thức ăn cá chình ở một số nước và khu vực

trên Thế giới.
STT

Tên nước, Khu vực Hàm lượng Lipit (%)
1 Châu Âu 3 – 5
2 Nhật bản 4 - 5
3 Trung Quốc 5
4 Đài Loan 5 - 9
1.1.5.3. Vitamin
Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hóa học khác nhau. Cơ thể động vật
có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình
thường. Vitamin không phải là một hợp phần quan trọng trong cơ thể như protein,
lipid, carbohydrate mà nó có vai trò như là chất bổ dưỡng, giữ gìn sức khỏe cho động
vật. Đối với những động vật khác nhau, nhu cầu vitamin cũng khác nhau [8].
Hầu hết các vitamin có vai trò như một coenzym hoặc các tác nhân hỗ trợ các
enzyme thực hiện các phản ứng sinh hóa trong cơ thể. Vai trò dinh dưỡng của vitamin

9

được ứng dụng vào nuôi trồng thủy sản từ rất lâu, nhất là từ khi nghề nuôi trồng thủy
sản phát triển hình thức thâm canh cùng với việc dùng thức ăn tổng hợp [8].
Vitamin có bản chất hóa học rất cần thiết cho chức phận chuyển hóa trong quá
trình đồng hóa của cơ thể. Vitamin phần lớn không được tổng hợp trong cơ thể mà vào
theo nguồn thức ăn của động vật [11]. Tuy nhiên, hàm lượng Vitamin cần thiết ở cá
cũng như các động vật khác chưa được xác định. Nhu cầu Vitamin phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Tập tính dinh dưỡng, điều kiện sinh lý…[8]. Ở Nhật Bản, hàm lượng
Vitamin sử dụng cho cá chình phụ thuộc vào nhiệt độ nước, khi nhiệt độ nước thấp
hơn 18
o
C lượng Vitamin bổ sung vào là 5%. Khi nhiệt độ nước lên trên 18

o
C hàm
lượng Vitamin bổ sung vào là 10% [25].
1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của cá chình sống trong tự nhiên được xác đình
là thấp hơn nhiều so với các loài cá khác. Các ấu trùng và ấu thể của cá chình Châu
Âu phải mất 3 năm mới đến được các thuỷ vực nội địa. Tốc độ tăng trưởng của cá
chình được đo vào tháng 6 hàng năm cho thấy, ở năm thứ nhất cá đạt chiều dài 25 cm,
năm thứ 2 dài 53 cm, năm thứ 3 dài 75 cm [24], [33].
Cá chình đực thường phát triển chậm hơn cá chình cái. Sự khác biệt này thể
hiện rõ khi cá đạt kích cỡ từ 30 cm trở lên. Đối với cá chình Nhật (A. japonica) vào
giai đoạn thành thục cá chình đực có khối lượng (70 g/con), dài (30 -35 cm); cá chình
cái có khối lượng từ (300- 350 g/con), chiều dài (57- 60 cm).
Như vậy, cá chình cái lớn hơn cá chình đực gấp khoảng 4 lần [25], [32], [40].
Trong điều kiện nuôi nhân tạo, cá chình thường có tốc độ tăng trưởng khác nhau tùy theo
mật độ nuôi, điều kiện môi trường, chất lượng thức ăn và kỹ thuật nuôi. Ở Nhật Bản cá
chình nuôi thương phẩm sau 18 tháng tăng từ 160-180 g/con (9-10 g/con/tháng) [25]. Khi
môi trường đảm bảo ổn định nhiệt độ (nhà kính), cá chình nuôi có khối lượng ban đầu
(20g/con), sau 1 năm có thể đạt kích cỡ (150- 200 g/con) [25]. Cá cùng kích thước đó
được nuôi ở Đài Loan chỉ cần thời gian là 8 - 10 tháng (18 – 25 g/con/tháng) [26], [34],
[40].
1.1.7. Đặc điểm sinh sản
Giống cá chình Anguilla có khả năng sống ở cả nước ngọt và mặn. Chúng có
đặc điểm sinh sản khá độc đáo, hầu hết cả vòng đời của chúng sống ở nước ngọt. Tuy

10

nhiên, không ai có thể tìm thấy trứng đã thành thục của chúng trong nước ngọt. Trên
thực tế, cá chình sinh sản ở vùng biển sâu, xa đất liền [25][36].
Khi cá đến tuổi trưởng thành nhưng tuyến sinh dục chưa hoàn toàn phát triển. Cá

thực hiện cuộc di cư duy nhất một đi không trở lại ra biển khơi để sinh sản [3]. Trong
suốt hành trình di cư, cá không bắt mồi hay giảm lượng bắt mồi rất lớn. Lúc này ống
tiêu hóa của cá thoái hóa, gan nhỏ lại, hàm lượng mỡ trong thịt giảm thấp, những chất
dinh dưỡng tích lũy trong gan, mỡ …cung cấp cho sự thành thục của tuyến sinh dục [12].
Tuyến sinh dục chín dần, tại bãi đẻ ngoài biển khơi, cá chình bắt cặp và sinh sản. Đó
cũng là lần sinh sản duy nhất trong đời của chúng. Chúng chết sau khi sinh sản bởi
những suy kiệt vì di cư và những thay đổi về sinh lý bất khả hồi do chuyển từ môi
trường nước ngọt sang môi trường biển [3].
Khi trứng đã rời khỏi cơ thể mẹ nổi lên tầng mặt nước, sau 24h trứng nở thành
ấu trùng tiny dài khoảng 5mm. Ấu trùng này phát triển trở thành ấu trùng trong suốt
trên đầu có nhiều sợi nhỏ được gọi là leptocephali và ngược dòng hải lưu trở về sông,
suối từ biển khơi [3][25].
Ấu trùng (leptocephali) sau một thời gian sống trôi nổi được đưa về vùng vịnh
duyên hải vào khoảng tháng 10 hàng năm và biến thái thành ấu trùng thon mảnh [25]
có hình lá liễu, sức đề kháng yếu, hình dẹt có thể uốn cong được nên giảm ma sát với
xung quanh. Vì vậy, dễ bị nước cuốn trôi dạt vào các cửa sông. Tùy theo các điều kiện
như nhiệt độ, lưu tốc dòng chảy và một số yếu tố khác mà thời gian đi vào nội địa của
cá chình con khác nhau ở các vùng khác nhau (ở những con sông Bắc Ireland, phía
đông nam những con sông của Anh, Scotlen, Đan Mạch, Hà Lan thì những cuộc viễn
chinh ngược biển về sông, hồ thường xuất hiện vào tháng 4-5 hằng năm). Nếu mùa
đông, nhiệt độ nước dưới 8
o
C thì ấu trùng thường nằm lại ở cửa sông, ven biển chui
trong các khe đá hoặc đáy sông, chờ đến khi điều kiện thích hợp mới ngược sông [12].
Sau một năm trôi dạt vào cửa sông, ấu trùng lá liễu trải qua nhiều biến thái thành cá
hương trắng, cá ngược dòng, sắc tố đen tăng dần thành màu đen. Tại sông, hồ chúng
bắt mồi, sinh sống, trưởng thành và rồi ra cửa sông lặp lại cuộc phiêu lưu như bố mẹ
để bảo tồn nòi giống. Vì thế cá chình là động vật rất nhạy cảm với sự tuyệt chủng [3].





11





















Hỡnh 1.3: Vũng i ca cỏ chỡnh

Hỡnh 1.3: Vũng i ca cỏ chỡnh
1.1.8. Mt s yu t sinh thỏi ca cỏ chỡnh
1.1.8.1. Tớnh thớch ng vi nhit
Cỏ chỡnh l loi cú phm vi thớch ng rng vi nhit . Nhit t 1-38

o
C cỏ
u cú th sng c. Khi nhit tng mt vt ngng trờn thỡ cỏ bi li v ch
nc sõu hay chui vo bựn ni cú nhit thp hn [12][44].
Khi nhit nc di 5
o
C cỏ bi li chm chp v trng thỏi ng ụng.
nhit t 1-2
o
C c xem l nhit thp nht cho s sng ca nú. nhit 12
o
C
cỏ bt u bt mi [12][25][44].
BAếI ẹE NGOI ẹAẽI DệễNG
( mn 30 35
0
/
00
)
Sng
trong
vựng
nc
ngt:
m,
h,
sụng,
sui

Cỏ chỡnh ging nh dng

trũn, mu en
Cỏ chỡnh ging ln

Cỏ chỡnh bụng trng thnh
di c t nc ngt ra i dng sinh sn
Sng

vựng
ca
sụng
Sng
trụi
ni
trong
nc
bin
Trng c th tinh trụi ni
ngoi i dng
u trựng dng lỏ liu


Cỏ chỡnh bt trng

12

Nhiệt độ 22-30
o
C là nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng của cá, lúc này
cá ăn nhiều nhất, lớn nhanh, khả năng đề kháng bệnh cao. Khi quá 30
o

C cá bắt mồi
không ổn định, lượng thức ăn giảm [12][25][44].
Nhiệt độ nước là yếu tố rất quan trọng khi nuôi cá chình, nó có thể giữ vai trò
quyết định sự thành công hay không.
1.1.8.2. Hàm lượng oxy hòa tan (DO)
Oxy hòa tan trong nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hô hấp, khả năng bắt mồi và
tăng trưởng của cá [37].
Hàm lượng oxy tối ưu cho sự phát triển của cá chình là 5-10mg/l [4][12][37].
Hàm lượng oxy hoà tan trong nước cho cá chình yêu cầu tối thiểu trên 2mg/l. Khi oxy
hòa tan xuống quá mức chịu đựng (<2mg/l) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cường độ bắt
mồi, tốc độ sinh trưởng… Khi oxy vượt quá mức bão hòa 10mg/l sẽ sinh ra bệnh bọt
khí [4][9][39].
1.1.8.3. Độ mặn
Cá chình là loài có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước
mặn, nước lợ và nước ngọt [12][25].
Trong vòng đời của cá chình, phần lớn thời gian sống ở nước ngọt. Ở giai đoạn
ấu thể cá chình sống ở môi trường nước mặn và lợ, trong giai đoạn phát triển và
trưởng thành đều sống ở môi trường nước ngọt, khi thành thục sinh dục cá lại di cư ra
biển để đẻ trứng [3][4][12][25].
Như vậy, khi nồng độ muối thay đổi mạnh, cá có thể điều tiết áp suất thẩm thấu
của cơ thể để phù hợp với môi trường [12].
1.1.8.4. Nồng độ pH
pH cũng là yếu tố quan trọng trong môi trường nước, ảnh hưởng trực tiếp đến các
hoạt động của cá. Trong tự nhiên độ pH có thể biến động. Ngưỡng pH mà cá chình có thể
sống nằm trong khoảng 5-10 và độ pH thích hợp cho sự phát triển của chúng là 7-9. Khi
pH của nước dưới 5 sẽ làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu… làm giảm sức đề
kháng của cá. Khi pH tăng cao làm cho các tế bào của mô và mang bị phá hủy, đồng thời
làm tăng tính độc của NH
3
[7][16].





13

1.1.8.5. Ánh sáng
Cá chình là loài không thích ánh sáng mạnh, ban ngày cá thường nằm dưới đáy
ao, chui rúc trong hang, ban đêm ngoi lên hay di chuyển ra ngoài kiếm mồi. Vì vậy,
khi nuôi cá chình, nơi cho ăn phải che đậy tránh ánh sáng [7][12].
1.1.8.6. Sự thích ứng dòng chảy
Cả cuộc đời của cá chình liên quan mật thiết với dòng nước chảy, cá bố mẹ đến
tuổi trưởng thành sẽ thực hiện cuộc hành trình xuôi dòng di cư ra biển để đẻ trứng. Cá
bột biến thái thành ấu trùng hình lá, trôi theo dòng hải lưu và thủy triều. Sau khi biến
thái thành cá chình trắng mới đi vào nước ngọt, ngược lên thượng lưu vượt qua đồng
ruộng hay đồng cỏ, thậm chí có chướng ngại vật cá bột cũng có thể vượt qua. Ở giai
đoạn cá con, cá thích ngược dòng nước, ở gần nơi có nước chảy. Vì vậy, khi nuôi cá
phải hết sức chú ý đến dòng chảy của nước. Khi cá lớn dần tập tính này cũng giảm dần
[4][41].
1.2. Tình hình nghiên cứu cá chình trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chình
Hơn ¾ thế kỷ qua, có nhiều nghiên cứu quan tâm đến quá trình sinh sản của cá
chình và có không biết bao nhiêu công trình nghiên cứu để tái tạo giống cá này trong
điều kiện nhân tạo. Điều làm các nhà khoa học quan tâm là rất hiếm gặp cá chình cái
trong thời kỳ cá sống ở nước ngọt, có thể sự chuyển giới tính thành cá cái xảy ra vào
lúc cá chuyển sang thời kỳ sống ở biển.
Đã có những thực nghiệm nuôi tế bào sinh dục đực của cá chình trong điều kiện
invitro và đã đạt được kết quả: Từ tinh nguyên bào đã nhận được các tinh tử và tinh trùng.
Tiến hành nghiên cứu trên cá chình Anguilla japonica, các nhà khoa học Trung

Quốc và Nhật Bản đã cho đẻ nhân tạo trong bồn nhựa. Cá được thuần hoá bằng nước
biển ở nhiệt độ 20
o
C trong 24h và được tiêm não thuỳ cá hồi để kích thích thành thục.
Sau khi tiêm thuốc kích thích, cá đực đã tiết tinh, khi vuốt bụng có 8/9 cá cái đã phóng
trứng [3].
Thử nghiệm cho cá chình Châu Âu (A.anguilla) và cá chình Nhật (A.japonica)
sinh sản nhân tạo đã được tiến hành lần đầu tiên tại Pháp [41] và ở Nhật năm 1960 [17].
Cuối năm 1973, hơn 100 ấu trùng của cá chình đã thu được bằng phương pháp sinh sản

14

nhân tạo khi được kính thích bằng thuốc kích dục tố, nhưng số ấu trùng này chỉ sống
được 6 ngày thì chết. Trung Quốc cũng đã tiến hành thử nghiệm cho đẻ cá chình vào
năm 1973, 1974 và 1975. Mặc dù lượng ấu trùng thu được khá lớn (trên 100.000 ấu
trùng), nhưng cũng như các thử nghiệm của các nước khác số ấu trùng này chỉ sống tối
đa được 19 ngày [40].
Từ năm 1992, Nhật Bản đã nghiên cứu sản xuất nhân tạo giống cá chình. Nội
dung nghiên cứu gồm: kỹ thuật cho đẻ, xác định điều kiện môi trường tốt nhất cho cá
đẻ, thức ăn nuôi cá con, nâng cao tỷ lệ thành thục đàn cá nuôi. Năm 2001 đã cho sinh
sản và ương ấu trùng thành những con chình lá trong suốt 200 ngày tuổi. Tuy nhiên,
như nhận xét của nhóm nghiên cứu: Xem ra còn phải đi một con đường dài trước khi
xác lập được quy trình sản xuất giống cá chình ở quy mô lớn vì ấu trùng cá chình có
tỷ lệ sống rất thấp, chúng không ăn trong thời gian biến thái [3].
Vì vậy, nghề nuôi cá chình thương phẩm ở các nước chủ yếu vẫn sử dụng
nguồn cá giống (với các kích thước khác nhau) thu vớt, đánh bắt trong vùng nước tự
nhiên (thường ở vùng ven biển các đầm phá, cửa sông, hồ nước lợ, nước ngọt).
1.2.1.2. Tình hình nuôi cá chình trên thế giới
Ở Nhật Bản nghề nuôi cá chình phát triển rất sớm (vào năm 1879) và ngày càng
phát triển mạnh. Kỹ thuật nuôi cá giống đã tương đối hoàn thiện, 4 loài thường được

nuôi tại Nhật: A.autralis; A.anguilla; A.japonicus; A.rostrata. Trước diễn biến ngày
càng bất lợi của môi trường như nhiệt độ, điều kiện khí hậu thì những hệ thống nuôi:
Nuôi ngoài trời, hệ thống nuôi trong nhà kính, hệ thống thâm canh không tuần hoàn
được sử dụng [27]. Hệ thống nhà kính được ưa chuộng tại Nhật và Hàn Quốc, mặc dù
hệ thống nuôi bên ngoài vẫn được nuôi vì giá thành sản phẩm thấp. Ngược lại, một số
nước Bắc Âu hầu hết độc quyền sử dụng hệ thống nuôi thâm canh không tuần hoàn. Hệ
thống nuôi bên ngoài phổ biến ở Đài Loan nhưng hệ thống nuôi thâm canh không tuần
hoàn cũng phát triển. Trung Quốc sử dụng tất cả các hệ thống nuôi [27] .
Các trang trại nuôi cá chình ở Nhật áp dụng hình thức nuôi nước tĩnh và nguồn
nước sử dụng là nước ngầm. Theo kết quả thống kê cho thấy, diện tích ao nuôi cá
chình Nhật là 1.036,7 ha và năng suất đạt được 37 tấn/ha. Năm 1998, Nhật cung cấp
55% sản lượng cho toàn thế giới và đến năm 2000 Nhật cung cấp 90% sản lượng cá
chình trên toàn thế giới [27]

15

Ở Nhật Bản, nhiệt độ là yếu tố hạn chế đến việc nuôi cá chình, hệ thống nuôi bên
ngoài chủ yếu được sử dụng suốt mùa hè khi nhiệt độ lên trên 15
o
C [27]. Nuôi cá chình
trong nhà kính với hệ thống nước chảy tuần hoàn, cấp nhiệt chủ động được thực hiện ở
một số nước và đã đưa lại kết quả tốt. Tại Nhật Bản, quá trình nuôi trong nhà kính với
con giống được thả vào cuối năm đến mùa hè năm sau cá có thể đạt kích cỡ thương
phẩm. Mặc dù quá trình nuôi trong nhà kính bước đầu còn khó khăn nhưng sau năm
1975 nuôi cá chình trở nên dễ dàng. Qua nhiều năm, kỹ thuật nuôi cá chình được cải
thiện và hoàn thiện dần tạo nên kết quả tốt trong nền kinh tế [25].
Bảng 1.4: Sản lượng cá chình nuôi trong nhà kính tại Nhật [25]
Năm
Cá chình giống
được thả (tấn)

Sản lượng cá chình
thương phẩm (tấn)
1975-1979
1980-1984
1985-1988
366,4
401,8
196,0
143.519
179.763
152.610

Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ nghề nuôi cá chình ở Nhật Bản đã thúc đẩy
mối quan tâm của các nhóm, các cơ sở nuôi cá thâm canh ở các nước Châu Âu: Đức, Ý,
Pháp và lan rộng một số nước Châu Á: Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia.
Đài Loan bắt đầu nuôi thực nghiệm vào năm 1923 và ứng dụng nuôi đầu tiên vào
năm 1952. Năm 1964, tổng diện tích nuôi cá chình ở Đài Loan xấp xỉ 3.000ha. Đến năm
1972, sản lượng xuất sang Nhật trị giá 30 triệu USD với diện tích nuôi 1.058 ha [12].
Trong những năm 1970 công nghệ nuôi ngoài trời được chuyển từ Nhật Bản đến
Châu Âu. Hệ thống nuôi cá chình thâm canh đã phát triển ở Châu Âu trong suốt những
năm 70. Đến giữa những năm 80, công nghệ nuôi từ Nhật Bản và Đài Loan được giới
thiệu đến các trại nuôi trồng thủy sản ở Trung Quốc [25].
Trung Quốc nuôi cá chình trễ hơn so với các nước trong khu vực, bắt đầu từ
những năm 70 của thế kỷ XX. Đến những năm 80-90, Trung Quốc đã thành công
trong kỹ thuật nuôi cá chình trong ao đất đưa năng suất lên 15 tấn/ha. Năm 1995 Trung
Quốc đã xuất khẩu 5.200 tấn cá chình sống trị giá 65,5 triệu USD, 1.450 tấn cá chình
đông lạnh trị giá 4,5 triệu USD, 2.700 tấn cá chình hun khói trị giá 60,75 triệu USD…
giúp cho nghề nuôi cá chình tại Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng làm
giảm giá thành và cạnh tranh được với Đài Loan [12][27].


16

Sự chuyển đổi công nghệ nuôi góp phần thúc đẩy cho quá trình phát triển nuôi
cá chình quy mô công nghiệp. Vào năm 2000, cá chình được nuôi ít nhất trên 34 nước
với tổng sản lượng 232.815 tấn (FAO, 2001). Trong đó Trung Quốc chiếm 69% sản
lượng cá chình nuôi, sau đó là Đài Loan và Nhật Bản. Ở Châu Âu, cá chình được di
nhập vào đầu tiên tại Ý, Hà Lan và Đan Mạch nhưng mỗi quốc gia chỉ chiếm 2% tổng
sản lượng trên toàn thế giới.
Bảng 1.5: Sản lượng nuôi cá chình ở một số quốc gia năm 2000 (FAO 2001)
Quốc gia Sản lượng (Tấn)
Trung Quốc 160.740
Đài Loan 30.480
Hà Lan 3.700
Hàn Quốc 2.725
Ý 2.700
Đan Mạch 2.674
Indonesia 2.056
Malaysia 1.980
Ai Cập 506
Mặt khác sự mở rộng nuôi cá chình thương phẩm tại Nhật Bản làm cho sự
cung cấp cá chình giống bị hạn chế, đòi hỏi phải nhập khẩu từ những nơi khác. Đài
Loan cũng thiết lập những khu công nghiệp nuôi cá chình. Khi cá chình nuôi công
nghiệp ở Đài Loan phát triển, thì sự cung cấp con giống cho nuôi thương phẩm ở
Đài Loan trở nên thiếu hụt và phải nhập khẩu từ Trung Quốc.
Hệ thống nuôi cá chình trong nhà kính không giải quyết được nhiệt độ quá thấp
trong suốt mùa đông ở Bắc Âu. Vì vậy, những vấn đề nuôi cá chình trở nên khó khăn.
Bắt đầu từ 1978, các kỹ sư tại Đan Mạch đã thiết kế các bể nuôi cá chình cách nhiệt
(Giusset, 1990) và các hệ thống nuôi không tuần hoàn được ra đời. Hệ thống này trở
nên thành công (Hemsbroek,1991). Nhiều hệ thống nuôi không tuần hoàn khác bắt đầu
phát triển ở Đan Mạch [27].

Ở New Zealand, cá chình đang được nuôi thử nghiệm bởi nghề cá New Zealand
và trường đại học Victoria, bang Wellington. Mục đích chính của chương trình là làm

17

thế nào để tận dụng có hiệu quả nguồn lợi cá chình ở New Zealand, thúc đẩy nghề nuôi
cá chình phát triển và nghiên cứu thêm đặc điểm sinh học của các loài cá chình xuất
hiện ở New Zealand [25]. Hoạt động nuôi cá chình ở Australia nằm trong giai đoạn thử
nghiệm và không có nhiều thông tin về lĩnh vực này [25].
Nuôi cá chình ở các nước Đông Nam Á và Nam Á được biết là không phát triển.
Lý do của sự không phát triển này là người dân ở các nước này còn nghèo, khẩu phần
ăn của người dân còn thiếu protein. Như vậy, việc nuôi cá chình đồng nghĩa với việc
cạnh tranh nguồn thức ăn protein của người [30]. Hơn nữa, do mức sống của người dân
ở đây còn rất thấp nên họ không có điều kiện để ăn những loại thực phẩm cao cấp như
cá chình. Do những quan điểm đó mà đến nay các nghiên cứu ứng dụng cho việc phát
triển nuôi cá chình ở khu vực này chưa được quan tâm đúng mức [25].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu cá chình tại Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu về cá chình
Ở Việt Nam, cá chình được nghiên cứu từ những năm đầu thập kỷ 30, nhưng
các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc công bố thành phần loài, đặc điểm phân
loại của chúng. Năm 1934, P. Chevey đã nghiên cứu và công bố ở miền Trung Việt
Nam có 2 loài cá chình: A. elphinstonei và A. australis. Năm 1937, P. Chevey và J.
Lemsson xác định ở vùng Bắc Bộ có cá chình Nhật A .japonica, mẫu được thu tại sông
Hồng, Hà Nội năm 1935. Tuy nhiên, hiện nay theo các kết quả điều tra cho thấy không
còn bắt gặp loài này ở sông Hồng nữa [5].
Năm 1974, Orsi đã xác định được 4 loài ở vùng biển Việt Nam: A. elphinstonei,
A. japonica, A. marmorata, A. bicolor pacifica [23]. Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Nhật
Thi (1994) trong Danh Mục Cá Biển Việt Nam xác định có 3 loài là: A. japonica, A.
marmorata, A. celebesensis . Võ Văn Phú, Lê Văn Miên (1997) đưa ra trong danh sách
khu hệ cá của đầm phá Thừa Thiên- Huế 2 loài A. bicolor pacifca và A. marmorata

[14]. Vũ Trung Tạng (1999) công bố ở đầm Trà Ổ gồm có 3 loài: A. marmorata, A.
bicolor pacifca, A. bornessnsis [13]. Nguyễn Hữu Phụng (2000) xác định có 5 loài cá
chình thuộc họ Anguillidae: A. japonica phân bố ở miền Bắc (sông Hồng); A.
marmorata, A. nebulosa, A. bicolor pacifica, A. celebesensis phân bố ở khu vực miền
Trung từ khu vực Hà Tĩnh đến Khánh Hoà.
Một số nhà nghiên cứu ngư loại khác như Mai Đình Yên, Nguyễn Hữu Dực đã
xác định ở nước ta hiện nay có 4 loài cá chình trong giống Anguilla, đó là: A. bicolor

×