Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Nghiên cứu, đối sánh tướng trầm tích Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long và từ đó đánh giá triển vọng dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.39 KB, 29 trang )

Mở đầu
Bể Sông Hồng và bể Cửu Long là một trong số những bể trầm tích
Kainozoi thuộc thềm lục địa Việt Nam. Trong đó bể Sông Hồng là bể trầm tích lớn
nhất ở Việt Nam cả về diện tích và bề dày trầm tích, đa dạng về loại hình khoáng
sản (dầu khí, condensat) và cho đến nay được đánh giá là bể có tiềm năng chủ yếu
về khí. Còn bể Cửu Long là bể trầm tích có hình bầu dục chạy theo hướng Đông
Bắc-Tây Nam dọc bờ biển Vũng Tàu, Ninh Thuận. Về cấu trúc địa chất bể Cửu
Long được xem là bể trầm tích nửa khép kín liên thông với biển đông về phía
Đông Bắc và phía Đông trong lịch sử phát triển từ Oligocen –Đệ tứ.
Tiềm năng dầu khí bể Sông Hồng và dầu khí bể Cửu Long đã đóng vai trò
quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy đã được đầu
tư nghiên cứu nhiều về địa vật lý và địa chất dầu nói chung song hai bể này vẫn
chưa được tập trung nghiên cứu chuyên sâu về tướng đá - cổ địa lý nhằm làm sáng
tỏ mối quan hệ giữa chúng với triển vọng dầu khí. Đề tài “Nghiên cứu, đối sánh
tướng trầm tích Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long và từ đó đánh giá triển
vọng dầu khí” nhằm đánh giá triển vọng dầu khí hai bể trên cơ sở phân tích tướng
trầm tích và sự cộng sinh tướng theo không gian và thời gian.
Báo cáo gồm những nội dung cơ bản sau:
I. Đặc điểm chung của bể Sông Hồng và bể Cửu Long
II. Địa tầng Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long
III. Đối sánh triển vọng dầu khí trên cơ sở phân tích tướng
Trong thời gian thực hiện đề tài này chúng em đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của giáo sư tiến sĩ Trần Nghi và tập thể các thầy cô trong bộ môn Trầm tích và
địa chất biển. Nhân dịp này cho chúng em bày tỏ lời biết ơn sâu sắc.
Để hoàn thiện bài báo cáo này chúng em đã rất cố gắng để chuyển tài đầy
đủ nội dung và kết quả thực hiện đề tài. Nhưng bài báo cáo không thể tránh khỏi
những thiếu sót, mong các thầy cô và các bạn chân thành đóng góp ý kiến để tác
giả rút kinh nghiệm trong những lần báo cáo sau.
Xin chân thành cảm ơn!
1
Chương 1


ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỂ SÔNG HỒNG
VÀ BỂ CỬU LONG
1.1. BỂ SÔNG HỒNG
Bể Sông Hồng nằm trong vùng 103˚30’ - 110˚30’ kinh tuyền Đông và 14˚30’ -
21˚00’ vĩ độ Bắc là 1 trong những bể lớn nhất ở Việt Nam: với diện tích khoảng
220,000 Km2 gồm 1 phần diện tích nhỏ trên đất liền (MVHN) và phần lớn diện
tích nằm ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và vùng biển Miền Trung Việt Nam. Trầm tích
lấp đầy có tuổi đệ tam -> hiện đại với độ dày thay đổi từ vài trăm đến 0 Km
(14Km).
Dọc theo phía Tây ( thuộc đất liền VN và Đông thuộc đất liền đảo Hải Nam –
Trung Quốc ) của bồn trũng móng lộ thiên tuổi Mesozoi – Paleozoi về phía Đ – B
là bồn trũng Lôi Châu – Trung Quốc: phía Đông Nam Trung Quốc là bồn trũng
Đông Nam Hải Nam và bồn trũng Hoàng Sa , còn về phía cực Nam là bồn Phú
Khánh ( Hình 1 ). Bể Sông Hồng rất rộng lớn và phức tạp về lịch sử phát triển địa
2
Hình 1:
Vị trí và phân
vùng cấu trúc địa
chất bể Sông Hồng
(1)Vùng Tây Bắc
(2)Vùng Trung
Tâm
(3)Vùng Phía Nam
chất: từ thời kì Paleogen cho đến nay. Tách giãn trong thời kì Eocen – Oligocen :
căng giãn và nén ép ,nghịch đảo kiến tạo, nâng lên, lún chịu nhiệt, bào mòn cắt xén
kèm theo các chu kì nâng hạ mực nước biển. Kết quả là cấu trúc và môi trường
trầm tích biến đổi rất mạnh theo không gian và thời gian, biến đổi từ B – N, từ đất
liền ra biển và từ móng trước đệ tam đến trầm tích hiện tại. Chính vì sự rộng lớn
và phức tạp về kiến tạo cũng như địa tầng có thể chia ra làm ba vùng địa chất như
sau :

1. Vùng Tây Bắc : bao gồm cả miền võng Hà Nội, kéo dài từ đất liền ra biển
Tây Bắc vịnh Bắc Bộ tới các lô 103 – 107 . Vùng này có sự nâng lên,
nghịch đảo kiến tạo, bào mòn cắt xén rất mạnh trong Miocen và các khối
xoay xéo trong trầm tích Oligocen.
2. Vùng trung tâm ( trung tâm vịnh Bắc Bộ ) : kéo dài từ lô 107 – 108 đến lô
115, với độ sâu nước biển 20 – 90m. Về cấu trúc vùng này phát triển đa
dạng và phức tạp: đặc điểm chính của vùng này là trầm tích Đệ Tam
nghiêng thoải dần và dày lên về trung tâm bồn trũng.
3. Vùng phía Nam: Từ phía Nam của lô 115 – 121 tiếp giáp bồn trầm tích
Phú Khánh, với mực nước dao động từ 30 đến 1100m. Vùng này có cấu
trúc khác biệt với hai vùng đã nói ở trên do có móng nâng cao vào cuối
thời kì Oligocen (Địa luỹ Trí Tôn ). Địa luỹ Trí Tôn là nơi thuận lợi cho
carbonat thềm và khối xây ám tiêu san hô phát triển. Cạnh phía Tây địa luỹ
là địa hào Quảng Ngãi với nhiều fan cát quạt ngầm Oligocen – Miocen và
phía Đông là địa hào Lý Sơn với các khối xoay đứt gãy trong Oligocen.
1.2. BỂ CỬU LONG
Nằm chủ yếu trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam và một phần đất liền
thuộc lưu vực sông Cửu Long. Bể có hình bầu dục, rộng ra về phía biển và nằm
dọc theo bờ biển Vũng Tàu, Bình Thuận. Bể Cửu Long được xem là bể trầm tích
khép kín điển hình ở Việt Nam. Tuy nhiên nếu tính theo đường đẳng dày trầm tích
theo 1000m thì bể có xu hướng mở về phía Đông Bắc và vế phía biển Đông hiện
tại. Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam
Côn Sơn bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat – Natuna và
phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hoà ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể có diện
tích khoảng 36.000Km
2
gồm các lô 9,13,16,17 và một phần của các lô 1,2,25 và
31. Bể được bồi lấp chủ yếu bởi trầm tích lục nguyên Đệ Tam, chiều dày lớn nhất
của chúng tại trung tâm bể có thể đạt tới 7 -8 Km.
Về cấu trúc địa chất, các đơn vị cấu trúc của bể Cửu Long có thể được phân

chia bao gồm:
3
- Trũng phân dị Bạc Liêu: là trũng nhỏ nằm ở phần cuối Tây Nam của bể
Cửu Long có diện tích khoảng 3600 km2 với một nửa thuộc lô 31 và phần còn lại
thuộc nước nông và đất liền. Trũng có chiều dày Đệ Tam không lớn, khoảng 3 km
và bị chia cắt bởi các đứt gãy thuận có phương TB-ĐN.
- Trũng phân dị Cà Cối: nằm chủ yếu ở khu vực cửa sông Hậu có diện tích
rất nhỏ và chiều dày trầm tích không lớn, khoảng 2000m. Trũng bị phân cắt bởi
các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN.
- Đới nâng Cửu Long: nằm về phía Đông của đới phân dị Bạc Liêu và Cà
Cối, phân tách hai trũng này với trũng chính của bể. Đới nâng có chiều dày trầm
tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông.
- Đới nâng Phú Quý: được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về
phía Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và phân
tách bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Chiều dày trầm tích
thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1,5 đến 2 km. Cấu trúc của đới bị ảnh
hưởng khá mạnh bởi hoạt động núi lửa, kể cả núi lửa trẻ.
- Trũng chính bể Cửu Long: đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới
¾ diện tích bể, gồm các lô 15, 16 và một phần các lô 01, 02, 09, 17. Toàn bộ triển
vọng dầu khí của bể đều tập trung ở trũng này và phân chia thành các đơn vị cấu
trúc nhỏ hơn bao gồm: Sườn nghiêng Tây Bắc, sườn nghiêng Đông Nam, trũng
Đông Bắc, trũng Tây Bạch Hổ, trũng Đông Bạch Hổ, đới nâng trung tâm, đới
nâng phía Tây Bắc, đới nâng phía Đông, đới phân dị Đông Bắc và đới phân dị
Tây Nam.
4
5
Hình 2: vị trí các mỏ thuộc bể Cửu Long
Hình 3: Sơ đồ hình thái hiện tại của bề mặt
địa hình chôn vùi Oligocen sớm bể Cửu
Long

Chương 2
ĐỊA TẦNG OLIGOCEN BỂ SÔNG HỒNG VÀ CỬU LONG
2.1 ĐỊA TẦNG OLIGOCEN BỂ SÔNG HỒNG
Hệ tầng Đình Cao (

E
3đc
)
Hệ tầng Đình Cao được xác lập tại lỗ khoan 104 bao gồm : sét kết, bột kết
màu tím đen, cát kết màu tím nâu , đôi chỗ xen các lớp mỏng cuội kết đa khoáng
đạt trung đến thô, gặp ít dạng cát kết acko, một ít cát kết dạng grauvac hạt vụn có
độ mài tròn chọn lọc kém. Xi măng gắn kết chủ yếu là sét và canxit.
Cuội kết có thành phần đa khoáng: Ro tốt, So kém.
Sét kết có thành phần chủ yếu là Sericit, nhiễm khá nhiều sắt.
Ngoài lỗ khoan 104, khá nhiều lỗ khoan khác cũng bắt gặp trầm tích của hệ
tầng Đình Cao như : K18, K22, K81, K100, K203 và 107T – PA – 1X.
Bề dày hệ tầng dao động từ 800m (ĐB) – 1000m (MVHN) và 5560m ở bể
Sông Hồng.
Phía Nam bể Sông Hồng: trầm tích Oligocen chủ yếu được thành tạo trong
các trũng sâu khu vực, thành phần chủ yếu là bột kết xen các lớp sét kết và cuội
kết hạt nhỏ đến vừa phát triển xuống đến phía Nam.
Trên lát cắt địa chất của hệ tầng: đặc trưng bằng các phản xạ mạnh, biên độ
cao, độ liên tục trung bình, nằm xiên gián đoạn xâm thực thể hiện các trầm tích
vụng thô chân núi hay aluvi. Phần dưới của mặt cắt có các phản xạ không liên tục,
biên độ trung bình. Đặc biệt còn nhận thấy đứt gãy của tập được thể hiện bằng các
mặt kề áp, một pha, độ liên tục kém. Đây chính là mặt BCH giữa các hệ tầng Đình
Cao và Phù Tiên.
Hệ tầng Đình Cao được thành tạo trong môi trường đầm hồ aluvi.
2.2. ĐỊA TẦNG OLIGOCEN BỂ CỬU LONG
2.2.1. Hệ tầng Trà Cú

Trầm tích hệ tầng Trà Cú nằm phủ bất chỉnh hợp trên hệ tầng Cà Cối và
Được mô tả tại giếng khoan CL-1 thuộc vùng Cà Cối huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh.
Tại đây từ độ sâu 1082 – 2000m trầm tích đặc trưng bằng sự xen kẽ giữa cát kết,
sỏi kết xen những lớp bột sét chứa cuội sạn sỏi. Các cuội sạn có thành phần thạch
học khác nhau chủ yếu là andezit và granit. Thành phần đá sét của hệ tầng này chủ
yếu là kalinit, illit, clorit. Tập sét này phủ trực tiếp trên móng và đóng vai trò là
tầng chắn tốt mang tính địa phương cho các vỉa chứa dầu trong đá móng mỏ Bạch
Hổ.
6
Cát kết, bột kết thành phần đa khoáng thuộc loại acko từ hạt nhỏ đến thô,
đôi khi hạt rất thô hoặc cát chứa cuội và sạn hạt vụn có độ mài tròn, độ chọn lọc
trung bình, kém bán góc cạnh đến bán tròn, thành phần fenspat thạch anh và mảnh
đá. Cát kết nhìn chung rất rắn chắc do được gắn kết chắc bởi một lượng lớn
ximăng, cacbonat, thạch anh, zeolit đôi khi anhidrit là kết quả của quá trình biến
đổi thứ sinh mạnh từ katagenes muộn tới giai đoạn biến chất sớm làm giảm độ
rỗng và độ thấm nguyên sinh. Trầm tích của hệ tầng này được hình thành trong
môi trường trầm tích khác nhau từ deluvi, lũ tích, bồi tích sông, kênh rạch đến đầm
hồ, vũng vịnh.
Trong hệ tầng Trà Cú có chiều dài từ 100 – 500m ở các vòm nâng, còn ở
các bồn trũng địa hào có đạt tới 1000m. Đó là tập rất ít phân dị, độ liên tục kém
biên độ khá lớn, tần số thấp, không có quy luật. Chúng thường phủ bất chỉnh hợp
trực tiếp trên các đá móng.
2.2.2. Hệ tầng Trà Tân
Hệ tầng Trà Tân lần đầu tiên được mô tả đầu tiên tại giếng khoan 15 AO –
1X trên cấu tạo Trà Tân từ độ sâu 2535m – 3038m. Tại đây trầm tích chủ yếu là
cát kết hạt nhỏ đến trung màu xám trắng, ximăng cacbonat chuyển dần lên trên
nhiều lớp bột và sét kết màu nâu và đen có xen các lớp mỏng than, có chỗ phát
hiện thấy glauconit. Đá biến đổi ở giai đoạn katagenes muộn. Đường cong carota
có điện trở rất cao ở phần dưới và thấp ở phần trên. Trên lát cắt trầm tích vùng Trà
Tân có sự xen kẽ giữa sét kết (chiếm tới 40-70% mặt cắt) và bột kết, cát kết và ở

nhiều nơi khu vực xuất hiện lớp đá phun trào núi lửa có thành phần khác nhau.
Trầm tích Trà Tân nhìn chung đã bị tác động bởi quá trình biến đổi thứ sinh không
giống nhau từ giai đoạn katagenes sớm đến katagenes muộn với độ rỗng 5-15% và
độ thấm <50Md. Trầm tích tại khu vực này được thành tạo trong điều kiện tướng
đá, môi trường không giống nhau giữa các khu vực: từ điều kiện sườn bồi tích,
đồng bằng châu thổ, đầm lầy vũng vịnh đến xen kẽ các pha biển nông.
Trầm tích của hệ tầng này có bề dày quan sát theo giếng khoan thay đổi từ
400m – 800m, còn ở các nơi trũng có thể đạt đến 1500m theo tài liệu địa chấn phía
dưới là những vùng phản xạ gầm như trắng, biên độ thấp tần số trung bình đến
cao, còn ở phía trên phản xạ lien tục tốt, tần số trung bình, biên độ khá cao, phân
lớp tốt. Hệ tầng Trà Cú nằm trong phạm vi SH10 (đáy ) nhiều nơi là SH12 và SH8
(mái) còn hệ tầng Trà Tân nằm trong phạm vi SH11 và SH10.
7
Chương 3
ĐỐI SÁNH TRIỂN VỌNG DẦU KHÍ
TRẦM TÍCH OLIGOCEN BỂ SÔNG HỒNG VÀ BỂ CỬU LONG TRÊN
CƠ SỞ PHÂN TÍCH TƯỚNG
3.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TƯỚNG TRẦM TÍCH
3.1.1. Định nghĩa
Theo Rukhin (1969, Nga):
"Tướng là những trầm tích được thành tạo trong một vị trí nhất định có
cùng những điều kiện khác với những vùng lân cận"
Định nghĩa này có 2 nội dung:
- Trong một vị trí nhất định: có nghĩa là môi trường cổ địa lý hay hoàn cảnh
lắng đọng trầm tích đặc trưng. Ví dụ: vị trí hồ khác với vị trí bãi bồi. Vị trí delta
khác với vị trí biển nông...
- Có cùng các điều kiện nghĩa là mỗi vị trí trên có những đặc trưng riêng của
nó về thành phần thạch học, cổ sinh và địa hoá
Như vậy khi phân tích tướng phải dựa vào thành phần trầm tích và môi
trường thành tạo lên thành phần trầm tích đó. Hai nhân tố đó liên hệ chặt chẽ và có

sự thống nhất với nhau. Đó là quan hệ nhân quả, môi trường là nguyên nhân cò
thành phần thạch học là hệ quả. Vì thế muốn phân tích tướng trầm tích, ta phải dựa
trên các tham số trầm tích và ứng với phương pháp phân tích tướng trên cơ sở các
tham số trầm tích (Md, So, Sk, Ro, Sf ). Còn muốn làm rõ quy luật phân bố, lắng
đọng trầm tích, ta dùng phương pháp phân tích cộng sinh tướng.
3.1.2. Phân loại tướng trầm tích
Theo định nghĩa của Rukhin thì tướng được đặc trưng bởi thành phần trầm
tích và môi trường thành tạo nên trầm tích đó. Trong đó môi trường là nguyên
nhân hình thành nên các phức hệ tướng khác nhau. Môi trường được đặc trưng bởi
những điều kiện tự nhiên nhất định: Độ sâu, Ph và Eh, thủy động lực, hình dáng
bồn trũng.....Những yếu tố trên không giống nhau ở những vị trí khác nhau trên vỏ
trái đất. Chính vì sự khác nhau đó ta có thể chia ra làm 3 nhóm tướng cơ bản sau:
+ Nhóm tướng lục địa
+ Nhóm tướng chuyển tiếp
+ Nhóm tướng biển
a, Nhóm tướng lục địa
8
Nhóm này chuyển tướng nhanh theo thời gian và không gian vì chúng được
thành tạo trong nhiều môi trường khác nhau, độ sâu bồn trũng nông, lại chịu nhiều
quá trình bào mòn nên chúng được phân ra làm các phức hệ tướng:
• Phức hệ tướng tàn tích (eluvi)
• Phức hệ tướng deluvi và coluvi (sườn tích và rơi tích)
• Phức hệ tướng proluvi (lũ tích)
• Phức hệ tướng aluvi (tướng sông)
• Phức hệ tướng hồ và phức hệ tướng đầm lầy
b, Nhóm tướng chuyển tiếp
• Nhóm tướng chuyển tiếp biển – lục địa bao gồm phức hệ tướng:
• Tướng trầm tích vùng ven biển (litoral)
• Tướng vụng biển (lagun)
• Tướng đê cát ven bờ, đê ngầm

• Phức hệ tướng tam giác châu
c, Nhóm tướng biển
Tướng biển có đặc điểm chung là phân bố rộng, bề dày lớn và ổn định. Sự
biến đổi tướng theo không gian và thời gian không lớn bao gồm các tướng sau:
• Tướng ven biển thuộc đới thủy triều lên xuống
• Tướng biển nông < 200m
• Tướng biển sâu 200 – 2000m
• Tướng biển thẳm > 2000m
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu tướng trầm tích trên cơ sở các tham số trầm
tích
1. Phân tích các tham số trầm tích
Nói đến các tham số trầm tích thì có rất nhiều các tham số nhưng ta có thể
lựa trọn các tham số để phân tích tùy vào yêu cầu khác nhau của việc nghiên cứu
trong trầm tích. Trong bài này nếu để phân tích tướng trầm tích để từ đó đánh giá
triển vọng dầu khí thì ta phân tích các tham số trầm tích chủ yếu như : Md, So, Sk,
Ro, Sf... Đây là những tham số trầm tích rất quan trọng cho việc phân loại môi
trường lắng đọng và tướng trầm tích.
9
a, Phân tích hệ số chọn lọc (So) và kích thước hạt vụn (Md) bằng lát mỏng
thạch học
Phương pháp này áp dụng đối với đá cát kết và sạn kết hạt nhỏ. Trong số
các phương pháp của Savanop (1969, Nga ) và phương pháp xử lý hiệu chỉnh do
GS.TS Trần Nghi đề nghị năm 2000 thì phương pháp của GS.TS Trần Nghi thu
được kết quả với sai số thấp hơn.
Để tính được hệ số chọn lọc (So) và kích thước hạt trung bình (Md) ta tính
tổng phần các cấp hạt theo công thước:
Ht = Hi + Li
Trong đó:
Ht: Là phần trăm tích lũy các cấp hạt

Hi: Là phần trăm cấp hạt theo từng cấp hạt
Li: Là hàm lượng ximăng
Sau đó ta thiết lập biểu phụ thuộc của phần trăm tích lũy các cấp hạt với
từng cấp hạt. Từ đồ thị ta xác định được giá trị (So) và (Md ) theo công thức:
Md = Q
50
So =
75
25
Q
Q
Sk =
Md
QQ
2
75.25

Trong đó Q
25,
Q
50,
Q
75
là độ hạt ứng với hàm lượng tích lũy 25%, 50%, 75%
trên đường cong tích lũy.
b, Phân tích đặc điểm hình thái của hạt vụn
- Độ cầu (Sf ) là trình độ đẳng thước của hạt vụn được xác định bằng tỉ số
trục A và trục B
S
f

= A / B
Trong đó:
A: Trục ngắn của hạt vụn
10
B: Trục dài của hạt vụn
Giá trị của độ cầu thay đổi từ 0-1 chia làm ba bậc:
0 - 0,5 : Nguồn gốc biến chất là chủ yếu
0,5-0,75: Nguồn gốc magma là chủ yếu
0,75-1,0: Nguồn gốc tái trầm tích là chủ yếu
- Độ mài tròn (Ro): đặc trưng cho chế thủy động lực, thời gian lưu lại của
hạt vụn và quãng đường di chuyển của hạt vụn tính theo phương pháp của GSTS.
Trần Nghi, đề nghị năm 2000.
Hệ số mài tròn của một hạt vụn bất kì(Roi) được tính như sau:
Roi = 1- 0,1Ai
Trong đó: 1 là đơn vị biểu thị trình độ mài tròn cao nhất( lý tưởng ) của hạt thứ i.
Ai: là số lượng góc lồi chưa bị mài tròn của rìa hạt thứ i, biến thiên từ 10
đến 0 và [0,1 Ai] sẽ cấu thành đại lượng biến thiên từ 1 đến 0 và tỷ lệ nghịch với độ
mài tròn của hạt vụn. Như vậy khi [0,1Ai] biến thiên từ 1 đến 0 thì Roi sẽ biến thiên
từ 0 đến q. Đó là khoảng hữu hạn có thể sử dụng để chia bậc mài tròn.
Từ đó hệ số mài tròn của một lát mỏng thạch học sẽ bằng trung bình cộng
của các hệ số mài tròn của mỗi hạt (Roi) ta có:

Trong đó: Ro: hệ số mài tròn trung bình của đá (lát mỏng đá),
Roi: hệ số mài tròn của hạt thứ i,
n: là số hạt quan trắc.
Trường hợp tổng quát có thể phân chia mức độ mài tròn hạt vụn trong 1 lát
mỏng thành 6 cấp tương ứng với 6 khoảng giá trị của Roi như sau:
- Cấp 1: Ro
1
= 0 - 0,1 không mài tròn và mài tròn rất kém (rất góc cạnh)

- Cấp 2: Ro
2
= 0,1 - 0,3 mài tròn kém (góc cạnh)
- Cấp 3: Ro
3
= 0,3 - 0,5 mài tròn trung bình (nửa góc cạnh)
- Cấp 4: Ro
4
= 0,5 - 0,7 mài tròn tương đối tốt (nửa tròn cạnh)
- Cấp 5: Ro
5
= 0,7 - 0,9 mài tròn tốt (tròn cạnh)
- Cấp 6: Ro
6
= 0,9 - 1,0 mài tròn rất tốt (rất tròn cạnh)
11

×