Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 50 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hội nhập và phát triển hiện nay, cả thế giới đều hướng tới
một chân trời tri thức mới. Với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kĩ
thuật, thông tin bùng nổ từng phút. Do vậy, xã hội ngày càng đặt ra những yêu
cầu cao hơn cho ngành giáo dục phải đào tạo nên một thế hệ người lao động mới
năng động trước những biến đổi của thế giới. Vì vậy muốn đáp ứng kịp thời nhu
cầu của xã hội thì việc không ngừng đổi mới các hình thức và phương pháp giáo
dục là vấn đề luôn được quan tâm.
Việc đa dạng hoá các biện pháp và phương tiện dạy học đã trở thành yêu cầu
thiết yếu trong dạy học hiện nay. Trong số các phương tiện dạy học thì kênh hình
đã được đặc biệt chú ý, nhất là trong dạy học địa lý. Thực tế cho thấy trong khi
giảng dạy nếu không có tranh ảnh và hình vẽ giáo viên khó có thể hình thành cho
học sinh những biểu tượng khái niệm và khắc sâu nội dung dễ dàng. Trong môn
Địa lý luôn có những sự vật, hiện tượng mà các em không thể trực tiếp quan sát
được mà phải thông qua các hình ảnh như hình dạng thực của Trái Đất được chụp
qua vệ tinh, hoạt động của con người ở nhiều nước khác nhau trên thế giới hay các
hiện tượng như động đất, núi lửa,….Do đó hình ảnh nói riêng và kênh hình nói
chung có ý nghĩa to lớn không chỉ là nguồn kiến thức mà còn có tác dụng hình
thành tri thức, kĩ năng, phát triển tư duy cho học sinh, các hình ảnh sinh động với
màu sắc tươi sáng còn có tác dụng hình thành xúc cảm thẩm mĩ cho các em.
Ở bậc Tiểu học lớp 1, 2, 3 kiến thức Địa lý được lồng ghép trong sách
giáo khoa Tự nhiên - Xã hội nhưng ở lớp 4, 5 môn này đã được tách riêng và có
chiều sâu hơn so với các lớp học trước. Nội dung địa lý lớp 5 gồm 2 phần chính
là Địa lý Việt Nam và Địa lý Thế giới, cung cấp những kiến thức địa lý cơ bản
về Việt Nam và các châu lục. Để mô tả chính xác địa hình và hoạt động đời sống
của con người thì việc sử dụng biểu đồ, lược đồ và tranh ảnh là không thể thiếu.
Do đó chương trình Địa lý lớp 5 cũng bước đầu hình thành rèn luyện một số kĩ
năng sử dụng kênh hình địa lý cho các em. Đối với giờ học Địa lí, nếu là một
tiết học tốt sẽ để lại cho tâm hồn trẻ những dấu ấn tốt đẹp, giúp cho trẻ có cách
1


nhìn thêm rộng mở, thêm yêu thương con người và đất nước Việt Nam, yêu sự
sống trên Trái Đất. Hơn nữa, lớp 5 là năm học bản lề trước khi học sinh bước
vào Trung học cơ sở với nhiều kiến thức Địa lý chuyên sâu hơn. Nếu như ngay
từ khi học Tiểu học các em có sự nhận thức sai lầm các khái niệm, các mối quan
hệ địa lý đơn giản thì quá trình học địa lý trong những năm học tiếp theo có thể
gặp phải một số khó khăn nhất định.
Như chúng ta đã biết, trẻ em đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi Tiểu học có ấn tượng
mạnh với những hình ảnh trực quan sinh động và hấp dẫn. Sách giáo khoa (SGK)
Địa lý và Lịch sử 5 cải cách được NXB Giáo dục phát hành từ năm 2006 đã đáp
ứng được yêu cầu đưa kênh hình vào giảng dạy. SGK đã cung cấp các bản đồ,
lược đồ tiêu biểu, chính xác, những hình ảnh đẹp, sinh động,…cũng có những yêu
cầu riêng trong việc sử dụng kênh hình. Tuy nhiên trong Thế kỷ 21 chúng ta được
chứng kiến sự bùng nổ thông tin chưa từng thấy, chưa bao giờ việc trao đổi thông
tin của con người lại trở nên dễ dàng như vậy, kho kiến thức nhân loại ngày càng
được mở rộng đặc biệt với sự hỗ trợ của mạng Internet đang phát triển trên toàn
cầu. Như vậy, phải chăng chỉ sử dụng kênh hình đã được giới thiệu trong SGK
vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày càng cao của con người. Bên cạnh đó
sự phát triển của công nghệ thông tin, máy tính điện tử, máy chiếu cùng nhiều
phương tiện dạy học hiện đại khác đang ngày càng phổ biến trong các trường học.
Chính những phương tiện kỹ thuật dạy học và sự đa dạng hoá các loại hình thông
tin đang mở ra nhiều lối đi mới trong dạy học nói chung và dạy học Địa lý nói
riêng. Chúng lại càng hữu ích trong việc đưa các thông tin mới, kênh hình mới,
phong phú hơn vào quá trình dạy học. Giáo viên có thể tìm kiếm các thông tin
mới hơn, phong phú hơn từ nhiều nguồn khác nhau từ đó đổi mới nội dung và
cách thức dạy học tạo sự say mê,hứng thú cho học sinh.
Tuy nhiên việc tăng cường và phát triển sử dụng các kênh hình khác
nhau cũng là “con dao hai lưỡi” nếu như người giáo viên không biết vận dụng
một cách linh hoạt các phương tiện này sẽ gây ra những tác dụng không mong
muốn. Ở lứa tuổi Tiểu học, khả năng chú ý của các em còn kém, nếu giáo viên
2

sử dụng hình ảnh quá nhiều sẽ làm học sinh mất tập trung vào bài học hoặc nếu
giáo viên không biết cách xác định trọng tâm của bài học trong hình ảnh sẽ dẫn
đến tình trạng bài giảng lan man, không có trọng tâm, chủ điểm, học sinh không
nắm được nội dung chính của bài. Từ những lý do trên chúng tôi mạnh dạn
nghiên cứu đề tài:“Sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý lớp 5” nhằm
nghiên cứu việc sử dụng kênh hình trong giảng dạy Địa lý lớp 5 từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giảng dậy môn học này.
2. Lịch sử vấn đề
Sử dụng kênh hình địa lý lớp 5 là một đề tài mới. Kênh hình từ lâu đã
được sử dụng như một công cụ dạy học địa lý vô cùng hữu ích và nó ngày càng
khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình dạy học môn này. Đã có
những nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục về việc sử dụng phương tiện trực quan
nói chung và kênh hình nói riêng. Tuy nhiên những nghiên cứu này đều dừng lại
ở mức độ khái quát chứ chưa đi vào phân tích, nghiên cứu cụ thể về việc sử
dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5
Tác giả Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn “Lý luận dạy học
địa lý” đã nêu lên vai trò của kênh hình “ Nó không những được coi như phương
tiện minh họa cho bài học mà còn có giá trị tương đương với kênh chữ một nguồn
thông tin dưới dạng trực quan”. Tuy nhiên vấn đề cụ thể ra sao, phương pháp khai
thác như thế nào vẫn chưa được đề cập đến
Trong cuốn “Tự nhiên xã hội và phương pháp dạy học tự nhiên xã hội (tập
2)” các tác giả đã khái quát nội dung, mục tiêu chương trình địa lý lớp 4,5 và một
số phương pháp dạy học các bài địa lý lớp 4, 5. Trong đó gồm có các phương pháp
quan sát tranh ảnh địa lý, phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học các bài địa lý
lớp 4, 5; Phương pháp sử dụng số liệu thống kê, biểu đồ. Tuy nhiên các phương
pháp này chưa đề cập đến việc mở rộng khai thác kênh hình từ nguồn ngoài SGK
Nhìn chung, việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý đã được nhiều
tác giả đề cập đến trong nhiều sách và tài liệu tham khảo khác nhau. Song việc
lựa chọn và xây dựng được các kênh hình cần thiết cho mỗi tiết học, đặc biệt là
việc cách sử dụng chúng như thế nào, khai thác ra sao để đạt hiệu quả tốt nhất

3
chưa được thể hiện đầy đủ, hầu hết các tác giả mới chỉ nói đến một số loại kênh
hình và chưa đề cập đến việc sử dụng các loại kênh hình khác nhau cho từng
khối lớp. Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nghiên cứu về việc sử dụng
kênhh hình cụ thể cho từng lớp học đặc biệt là lớp 5
Kế thừa những thành tựu từ nghiên cứu của các tác giả nói trên và xuất
phát từ yêu cầu thực tế thì việc nghiên cứu đề tài “ Sử dụng kênh hình trong
dạy học địa lý lớp 5” là cần thiết
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy việc sử dụng kênh hình trong giảng dạy môn Địa lý lớp 5 làm
đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đối tượng thực nghiệm là học sinh lớp 5 trường
Tiểu học Thụy Vân, Việt Trì, Phú Thọ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Kênh hình có rất nhiều nguồn, nhiều cách phân loại khác nhau tuy nhiên
trong phạm vi nghiên cứu đề tài khoa học của sinh viên chúng tôi đặc biệt chú
trọng nghiên cứu các kênh hình trong SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5, phần Địa lý.
Các loại kênh hình chủ yếu được nghiên cứu là : bản đồ; biểu đồ và số liệu
thống kê; tranh ảnh có nội dung địa lý. Ngoài ra đề tài cũng mở rộng đối chiếu
kênh hình từ các nguồn khác nhau cơ bản là từ mạng Internet
3.3. Mục đích nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề cần thiết đối với mọi
môn học, bậc học trong đó sử dụng kênh hình trong giảng dạy Địa lý đang là xu
hướng được quan tâm. Trong đề tài này chúng tôi chú trọng nghiên cứu việc sử
dụng kênh hình trong môn Địa lý lớp 5. Quan trọng hơn là nghiên cứu cách sử
dụng kênh hình khác nhau sao cho có hiệu quả và hợp lý nhất. Trên cơ sở đó xây
dựng một số giáo án mẫu và tiến hành thực nghiệm để thấy được giá trị thực tiễn
của đề tài nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
Đề tài thiết kế một số bài giảng môn Địa lý lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả

học tập và giảng dạy môn học này, đề tài được áp dụng vào thực tế có thể gây
hứng thú cho người học, giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn, đáp ứng nhu
cầu của người học, nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học.
4
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài khẳng định tầm quan trọng của kênh hình trong việc giảng dạy môn Địa
lý nói chung và môn Địa lý lớp 5 nói riêng.
- Đề tài nghiên cứu một số cách cụ thể để tích hợp các kênh hình khác nhau từ
đó có sự so sánh đối chiếu và đưa chúng vào bài giảng nhằm nâng cao chất
lượng môn học cũng như phát triển tư duy Địa lý cho học sinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp tài liệu: chúng tôi nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến đề tài gồm các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, lí luận dạy học, các
phường pháp dạy học môn địa lý thông qua nhiều nguồn khác nhau như sách báo,
báo cáo khoa học, mạng Internet, đặc biệt là các sách chuyên ngành như SGK,
sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Qua nghiên cứu như vậy sẽ kế thừa
và phát huy được kết quả của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Từ
đó xác lập được các kênh hình cụ thể và lựa chọn phương pháp khai thác kênh
hình nhằm lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng địa lý
- Phương pháp thống kê : Chúng tôi thống kê những số liệu thu được
chính xác để từ đó phân tích, đánh giá, rút ra kết luận. Cụ thể là bảng điểm của
các em tại những lớp được thực nghiệm, việc tiến hành phân tích bảng số liệu này
là cơ sở minh chứng tốt nhất cho đề tài
- Phương pháp điều tra : đối tượng điều tra là các em học sinh và giáo
viên trực tiếp giảng dạy. Thông qua việc xây dựng bảng hỏi đo thái độ và các
phiếu khảo sát hiện trạng giúp người nghiên cứu nắm được thực trạng hiện nay
của việc sử dụng kênh hình cũng như thái độ của học sinh trong quá trình dạy học
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
phụ lục, phần nội dung đề tài có cấu trúc như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học
địa lý lớp 5
Chương 2: Sử dụng kênh hình trong SGK Địa lý lớp 5.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH
TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 5
1. KÊNH HÌNH, VAI TRÒ CỦA KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ
1.1. Khái niệm kênh hình
Theo quan điểm truyền thống của thì “kênh hình” được hiểu là việc sử
dụng “hình ảnh” để truyền thông tin từ người phát đến người thu. Trong đó
“hình” được hiểu là một loại phương tiện để truyền thông tin, có thể là hình tĩnh
( tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, lược đồ,…) và hình động ( phim, video clip ). Trong
dạy và học địa lý thì đó là quá trình người giáo viên hướng dẫn để học sinh khai
thác tri thức từ phương tiện truyền tin chính là tranh ảnh có nội dung địa lý, bản
đồ, lược đồ, phim giáo khoa địa lý,…
Bên cạnh đó một số tác giả cho rằng kênh hình chính là các phương tiện
dạy học trực quan, đó là các vật thật vật tượng trưng và các vật tạo hình được sử
dụng để dạy học.
N.N. Branxki đã đề cập đến khái niệm “thiết bị dạy học” trong cuốn “
Phương pháp giảng dạy địa lý kinh tế”. Ông cho rằng thiết bị dạy học là những
phương tiện trực quan, nó là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự tổ chức và kết quả
6
của việc giảng dạy địa lý trong nhà trường. Các thiết bị đó gồm có : phòng địa lý,
bản đồ giáo khoa ( xuất bản và xây dựng theo nội dung bài), quả địa cầu địa lý,
tranh treo tường, biểu đồ, đồ thị,… Từ khái niệm nêu trên ta thấy kênh hình chính
là các phương tiện thiết bị dạy học mang tính trực quan trong quá trình dạy học.
Đó là những công cụ được sử dụng nhằm xây dung cho học sinh những biểu

tượng về sự vật hiện tượng trên cơ sở đó hình thành những khái niệm địa lý
1.2. Phân loại kênh hình
Có nhiều cách phân loại kênh hình tuy nhiên đa số các tác giả thống nhất
phân loại kênh hình thành 3 loại
- Các vật thật : động vật , thực vật sống trong môi trường tự nhiên, các
khoáng vật, mẫu vật giúp cho học sinh được tiếp xúc với các vật thật từ đó giúp
các em tiếp thu kiến thức, gây hứng thú tìm tòi học tập
- Các vật tượng trưng : các loại sơ đồ, lược đồ, bản đồ giáo khoa, biểu đồ,
lát cắt địa hình, bảng số liệu thống kê,… Từ đó học sinh thấy được một cách
trực quan hóa các sự vật, hiện tượng được biểu diễn dưới dạng khái quát hóa
hoặc đơn giản hóa
- Các vật tạo hình ( kể cả phương tiện hiện đại ) : tranh ảnh, mô hình, hình
vẽ, phim đèn chiếu, băng hình, video clip,.. thay cho các sự vật khó có thể quan
sát trực tiếp
1.3. Vai trò của kênh hình trong dạy học Địa lý
Trong SGK địa lý thì kênh hình và kênh chữ đều có vai trò quan trọng
như nhau, chúng bổ trợ cho nhau, có quan hệ hữu cơ tạo nên sự thống nhất trong
nội dung các bài học địa lý. Cụ thể kênh hình có các vai trò sau :
- Kênh hình là phương tiện trực quan đối với học sinh để lĩnh hội tri thức
Kênh hình dùng trong dạy học địa lý có tính trực quan cao dùng để minh
họa cho các sự vật, hiện tượng địa lý. Nhờ vào kênh hình học sinh có các biểu
tượng rõ ràng và đúng đắn về các đối tượng địa lý vì chúng trải rộng trong không
gian nên học sinh không thể trực tiếp quan sát được mà phải thông qua kênh hình.
Xuất phát từ tâm lý học tập ta nhận thấy nếu học sinh tiếp nhận thông tin
bằng nhiều giác quan thì mức độ hiểu và ghi nhớ bài sẽ tăng lên rất nhiều. Trước
đây hầu hết các phương pháp dạy học cũ chỉ chú trọng vào việc đọc – chép tức
là học sinh tiếp thu qua thính giác (nghe) là chính. Theo kết quả thống kê của tác
7
giả Đặng Văn Đức trong cuốn “ Lý luận dạy học địa lý” về vai trò của các giác
quan trong việc thu nhận và ghi nhớ kiến thưc như sau : trong việc thu nhận kiến

thức nếu qua nghe chỉ có thể hiểu 13% trong khi qua nhìn là 83%. Bên cạnh đó
nếu chỉ nghe thì khối lượng kiến thức nhớ được là 20%, qua quan sát là 30%
nhưng nếu được kết hợp cả nghe và nhìn thì khối lượng kiến thức lên đến 50%.
Từ số liệu trên ta thấy vai trò không thể thiếu của các phương tiện trực quan tác
động vào thị giác của học sinh sẽ tạo hiệu quả giáo dục cao hơn nhiều so với
việc giảng bài thông thường. Do vậy sử dụng kênh hình kết hợp với kênh chữ sẽ
giúp cho học sinh hiểu bài nhanh hơn và ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn.
Đặc trưng của môn địa lý chính là kiến thức địa lý trải rộng trong không
gian và cũng mang tính trừu tượng cao. Chính vì vậy nếu người dạy chỉ sử dụng
kênh chữ để truyền đạt kiến thức địa lý cho học sinh sẽ tạo nên sự nhàm chán,
đơn điệu cho tiết học hơn nữa không thể lột tả được bản chất, quy luật của một số
hiện tượng, khái niệm trừu tượng. Có những hiện tượng nguy hiểm học sinh
không thể trực tiếp quan sát được như động đất, núi lửa, sóng thần thì sự trợ giúp
của hình ảnh là không thể thiếu. Hoặc với các hiện tượng hiếm có, khó quan sát
được như nhật thực, nguyệt thực, sao băng,… giáo viên không thể dùng lời nói để
miêu tả được mà phải dùng phương tiện trực quan. Cụ thể, trong khi giảng bài về
nạn động đất, sóng thần ở Nhật Bản nếu giáo viên chỉ dùng lời nói để miêu tả thì
học sinh khó có thể hình dung được mức độ tàn phá của thiên tai này như thế nào.
Nhưng nếu người dạy biết kết hợp sử dụng kênh hình nhu cho học sinh xem một
số đoạn video clip quay tại nơi có thiên tai hoặc hoặc ảnh chụp thì các em sẽ hiểu
bài rõ hơn và nhớ bài lâu hơn. Trong nội dung kiến thức địa lý có rất nhiều số liệu
về chỉ tiêu kinh tế - xã hội hoặc các diện tích tự nhiên,… những số liệu này rất
khó nhớ đối với học sinh. Nhưng nếu những số liệu khô khan cứng nhắc đó được
chuyển thành biểu đồ, bảng số liệu để học sinh so sánh, đối chiếu và nhận ra sự
chênh lệch từ đó có ấn tượng về các số liệu và ghi nhớ dễ dàng hơn. Như vậy ta
có thể nhận thấy vai trò quan trọng nhất của kênh hình đó là phương tiện trực
quan đồng thời cũng là đối tượng học tập của các em
8
- Kênh hình là công cụ phục vụ giảng dạy đối với giáo viên
Trước đây khi nước ta còn gặp nhiều khó khăn thì bằng nhiệt huyết của

mình một số giáo viên đã tự tìm kiếm và sáng tạo ra các kênh hình thủ công.
Những sản phẩm từ đơn giản đến đa dạng đều thể hiện được nhiều khía cạnh
khác nhau của đối tượng địa lý như hình dáng, cấu trúc, mối liên hệ, các quá
trình vận động,… Ngày nay các phương tiện giảng dạy ngày càng đa dạng và
chất lượng ngày càng cao, người giáo viên giỏi luôn phải biết cách vận dụng sao
cho hiệu quả nhất các phương tiện ấy để truyền đạt tri thức đến học sinh.
Ngày nay xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm cũng là một dấu hiệu
tích cực trong việc phát huy tác dụng của kênh hình. Nếu như trước đây học sinh
chỉ nghe thầy dạy theo hình thức đọc chép thì đó chính là kiểu dạy học lấy thầy
làm trung tâm, học sinh thụ động tiếp nhận kiến thức từ giáo viên. Trong một
tiết học hiện nay, học sinh có thể chủ động khai thác kiến thức từ kênh hình
trong sách giáo khoa từ đó phát triển tư duy, nhận thức của các em. Như vậy
kênh hình không chỉ là công cụ phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên
mà nó cũng góp phần thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
- Kênh hình là nguồn tri thức mà học sinh cần khai thác
Kênh hình không chỉ là hình ảnh bên ngoài của sự vật, hiện tượng địa lý
mà còn chứa đựng nội dung bên trong của đối tượng, các khái niệm, mối liên hệ
nhân quả, các quy luật địa lý,… Như vậy kênh hình chứa đựng tri thức địa lý do
đó trong dạy học chúng được dùng làm công cụ để khám phá tri thức. Vì vậy
kênh hình cũng được coi như “điểm tựa” cho hoạt động của học sinh nhằm nâng
cao khả năng tư duy cho các em. Ví dụ như trong bài tập thực hành giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh dựa trên cơ sở quan sát và phân tích kênh hình thì các
em phải không ngừng tư duy để thực hiện nhiệm vụ học tập. Kênh hình còn là
cơ sở quan trọng để học sinh rèn luyện kĩ năng địa lý vì khi khai thác kênh hình
các em phải vận dụng tất cả vốn hiểu biết của mình từ đó hình thành một số kĩ
năng địa lý nhất định như kĩ năng đọc hiểu bản đồ, kĩ năng phân tích bản đồ, kĩ
năng vẽ biểu đồ,…
9
Ngoài ra, kênh hình còn có vai trò điều khiển học sinh trong quá trình học

tập. Thông qua việc sử dụng kênh hình giáo viên còn giúp học sinh đào sâu tri thức
đã học và kích thích hứng thú học tập của học sinh nâng cao năng lực quan sát,
phân tích tổng hợp để có thể rút ra kết luận cần thiết. Kênh hình còn tạo ra điều
kiện thuận lợi cho giáo viên có thể trình bày bài giảng một cách ngắn gọn, đầy đủ
và sâu sắc từ đó điều khiển được quá trình nhận thức của học sinh cũng như tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em.
Hơn nữa kênh hình còn có tác dụng kích thích sự say mê, hứng thú học
tập của học sinh – đó cũng chính là một trong những mục tiêu quan trọng trong
một tiết học của người giáo viên. Nếu như trong bài học giáo viên biết cách tích
hợp khéo léo các phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ, băng hình,… thì
chắc chắn học sinh sẽ có hứng thú hơn nhiều so với một tiết học thông thường.
Tóm lại, kênh hình dạy học địa lý có vai trò rất quan trọng, nếu được sử dụng
hợp lý sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học
địa lý. Có thể tóm tắt vai trò của kênh hình theo sơ đồ sau :
Kênh hình
- Phương tiện trực quan
- Đối tượng học tập
- Nguồn tri thức
Hướng dẫn của
giáo viên
1.4. Yêu cầu về các loại kênh hình trong dạy học địa lý
Trong dạy học địa lý nói chung thì phương tiện dạy học là một trong
những nhân tố quan trọng bên cạnh các nhân tố khác như mục đích, nhiệm vụ,
nội dung dạy học, hoạt động của giáo viên – học sinh. Các nhân tố này có sự kết
hợp chặt chẽ tạo thành một thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau
với nhau để thúc đẩy quá trình dạy học đạt được mục đích nhất định. Vì vậy
kênh hình địa lý phải có những yêu cầu nhất định để phù hợp với quá trình dạy
và học cũng như với các nhân tố giáo dục khác. Để việc sử dụng kênh hình đạt
hiệu quả cao nhất thì kênh hình phải đáp ứng được các yêu cầu sau
- Tính sư phạm : kênh hình được sử dụng trong dạy học địa lý phải có tính

sư phạm tức là phải giúp học sinh tiếp thu các kiến thức, kĩ năng giúp học sinh
10
có thể tư học, tự nghiên cứu và củng cố kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Kênh hình còn giúp giáo viên truyền đạt những kiến thức cơ bản, hình
thành biểu tượng, khái niệm địa lý cho học sinh đồng thời thúc đẩy việc sử dụng
các phương pháp dạy học hiện đại. Nhìn chung thì kênh hình được sử dụng phục
vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh nên nó
nhất thiết phải mang tính giáo dục.
- Tính trực quan : khi sử dụng kênh hình giáo viên cần phải đảm bảo rằng
mọi học sinh có thể quan sát rõ ràng và đầy đủ. Giáo viên cần có sự chọn lọc ra
những kênh hình điển hình, phù hợp với nội dung bài học. Kênh hình chiếm một
khối lượng vừa phải, không quá ít cũng không quá nhiều gây bão hòa, nhàm
chán cho học sinh. Ngoài ra một người giáo viên có kĩ năng sư phạm tốt còn biết
cách lựa chọn thời điểm sử dụng kênh hình hợp lý gây được sự bất ngờ và hứng
thú đối với học sinh
- Tính khoa học : các hiện tượng địa lý được thể hiện qua kênh hình cần
phải phản ánh một cách chân thực các sự vật, hiện tượng thực tế một cách chính
xác và khoa học. Bên cạnh đó ngay trong bản thân mỗi phương tiện kênh hình
cũng mang tính khoa học tức là nó có nội dung, bố cục và hình thức nhất đinh,
chúng thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Tính thẩm mỹ : mỗi kênh hình được sử dụng trong dạy học địa lý có màu
sắc, đường nét, hình khối,… hài hòa, cân đối chính là đảm bảo tính thẩm mỹ.
Những tranh ảnh đẹp, sinh động còn có tác dụng khơi dậy đam mê, hứng thú học
tập cho học sinh.
- Tính khả dụng: tùy theo điều kiện kinh tế của từng trường, từng địa
phương khác nhau mà giáo viên phải biết cách lựa chọn kênh hình sao cho phù
hợp. Cụ thể như ở các vùng núi, dân tộc ít người điều kiện khó khăn không thể
có các phương tiện dạy học hiện đại thì giáo viên cần tự tìm tòi trong thực tế
hoặc tự mình sáng tạo ra những phương tiện dạy học sao cho phù hợp mà vẫn
đảm bảo nội dung cần thiết. Ở các trường có cơ sở vật chất hiện đại hơn thì giáo

viên phải tìm cách nghiên cứu, tận dụng tối đa các phương tiện dạy học ấy trong
quá trình giảng dạy. Ngoài ra việc lựa chọn kênh hình cũng rất quan trọng, giáo
11
viên không thể sử dụng những vật cồng kềnh, khó mang theo và dụng cụ dạy
học có thể dễ dàng sử dụng trong trường hợp cần thiết
2. ĐẶC ĐIỂM SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5
2.1. Mục tiêu dạy học các bài học địa lý lớp 5
Trong chương trình môn Lịch sử và địa lý lớp 4, 5 gồm các nội dung liên
quan đến địa lý Việt Nam và địa lý thế giới có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
cùng hướng đến một mục tiêu chung nhằm giúp học sinh :
- Về kiến thức : học sinh nhận biết được một số đặc điểm khái quát về tự nhiên,
dân cư và hoạt động của con người ở các miền địa hình của nước ta, các châu
lục và một số nước trên thế giới.
- Về kĩ năng : bước đầu vận dụng được một số kĩ năng cơ bản về bản đồ ( hiểu
bản đồ, đọc tên, địa danh một số đối tượng,…) và tranh ảnh địa lý
- Về thái độ : quan tâm đến một số vấn đề về tự nhiên, dân cư, hoạt động kinh tế
và môi trường đang đặt ra cho đất nước, thế giới và một số nước.
2.2. Nội dung các bài học địa lý lớp 5
Hệ thống bài giảng địa lý lớp 5 gồm có 29 bài trong đó có 16 bài địa lý
Việt Nam và 13 bài địa lý thế giới. Theo phân phối chương trình thì tổng số tiết
là 35 trong đó có 29 tiết học bài mới và 6 tiết ôn tập kiểm tra. Cụ thể nội dung
chương trình địa lý lớp 5 gồm các bài sau :
Phần 1 : Địa lý Việt Nam
Bài 1: Việt Nam – đất nước chúng ta
Bài 2: Địa hình và khoáng sản
Bài 3: Khí hậu
Bài 4: Sông ngòi
Bài 5: Vùng biển nước ta
Bài 6: Đất và rừng
Bài 7: Ôn tập

Bài 8: Dân số nước ta
Bài 9: Các dân tộc và sự phân bố dân cư
Bài 10: Nông nghiệp
Bài 11: Lâm nghiệp và thủy sản
Bài 12: Công nghiệp
Bài 13: Công nghiệp ( tiếp theo )
Bài 14: Giao thông vận tải
Bài 15: Thương mại và du lịch
Bài 16: Ôn tập
Phần 2 : Địa lý thế giới
Bài 17: Châu Á
12
Bài 18: Châu Á ( tiếp theo )
Bài 19: Các nước láng giềng của Việt Nam
Bài 20: Châu Âu
Bài 21: Một số nước ở Châu Âu
Bài 22: Ôn tập
Bài 23: Châu Phi
Bài 24: Châu Phi ( tiếp theo)
Bài 25: Châu Mĩ
Bài 26: Châu Mĩ ( tiếp theo)
Bài 27: Châu Đại Dương và châu Nam Cực
Bài 28: Các đại dương trên thế giới
Bài 29: Ôn tập cuối năm
3. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ LỨA TUỔI VÀ NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
LỚP 5
3.1. Tâm sinh lý học sinh Tiểu học nói chung
Trong tiến trình phát triển, con người qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn mang một đặc tính tâm lý riêng và có cách giáo dục riêng, nhất là trong
thời gian còn trẻ. Tuổi tiểu học có lẽ là tuổi an bình so với thời thiếu niên, thời

tuổi trẻ, tuổi dậy thì.
Khi trẻ bước vào môi trường học tiểu học, chương trình học tập đã bắt đầu
mang tính chất hệ thống và thể hiện tính khoa học một cách cơ bản hơn so với
chương trình mẫu giáo. Đặc điểm về thể chất của học sinh thấy rằng đây là cơ sở
về mặt sinh học rất cần thiết để trẻ bắt đầu bước vào môi trường học tập thật sự.
Khi trẻ được 6 tuổi, não bộ đã đạt được 90% so với trọng lượng não khi người
đó trưởng thành, lớp chất xám đã bao phủ, trẻ có thể tiến hành hoạt động nhận
thức. Với học sinh tiểu học có khả năng phối hợp vận động tay chân một cách
thành thục, khéo léo, ở mức độ tinh vi hơn
Mỗi một lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo, hoạt động này đẩy nhanh sự
phát triển tâm lý ở giai đoạn đó. Ở độ tuổi tiểu học, trẻ vẫn còn thích chơi nhưng
hoạt động đem lại nhiều ý nghĩa cho sự phát triển tâm lý là hoạt động học tập.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo thúc đẩy cho sự phát triển tâm lý, trí tuệ
của học sinh qua khả năng quan sát và nhận dạng các sự vật trong cuộc sống và
trong học tập. Một đặc điểm của học sinh tiểu học là tính đại khái, nhận thức vấn
đề một cách sơ sài, bỏ sót chi tiết, dẫn đến việc dễ nhầm lẫn, sai sót trong chữ
13
viết, đọc văn bản và sử dụng từ ngữ nhầm ở những chữ gần giống nhau. Từ
những lỗ hổng rất nhỏ nếu không chú ý động viên, giải đáp thắc mắc làm các em
mất căn bản. Sự chú ý của học sinh dễ bị phân tán do tập trung kém, bị nhiễu bởi
tác động mới lạ, trí nhớ tốt, nhưng cách ghi nhớ máy móc theo kiểu học vẹt, nên
cần hướng dẫn cách nhớ, không lạm dụng trí nhớ mà hãy để bộ nhớ của các em
dung nạp những gì cần thiết. Về mặt tư duy, học sinh Tiểu học có tư duy trực
quan, cụ thể nên khi dạy học cần có hình ảnh, âm thanh, vật liệu để học tốt hơn.
Đôi khi các em không hình dung được hiện tượng quá sức tưởng tượng của mình,
những khái niệm về không gian, thời gian bị hạn chế do lối tư duy cụ thể, mộc
mạc. Về nhận thức, tư duy logic phát triển, nhưng tính toán, xếp theo thứ tự nhiều
khi hạn chế.
Học sinh tiểu học có cảm xúc không ổn định, hay thay đổi, khác với trẻ
mẫu giáo, ở độ tuổi này đã biết giải thích nguyên nhân hình thành cảm xúc, tình

cảm của mình dù rằng nhiều khi đưa ra lý do thể hiện tình cảm. Học sinh tiểu
học còn phát triển tình cảm cấp cao, có những cảm xúc, thái độ trước một điều
đúng, điều sai, trước một điều tốt, điều xấu, đồng tình hưởng ứng với điều tốt,
có thái độ phê bình, phủ nhận cái sai, cái xấu, những biểu lộ như thế được gọi là
tình cảm đạo đức.Với tình cảm trí tuệ, các em thích tìm hiểu, khám phá và đặt
câu hỏi với người lớn, đây là đặc tính đã phát triển từ thời mẫu giáo nhưng lúc
này câu hỏi tinh tế hơn, lôgic hơn, biết cách đặt câu hỏi cuối cùng để đưa ra câu
trả lời cuối cùng, có những câu hỏi nhiều khi rất đáng khen ngợi. Quy tắc chung
khi trả lời câu hỏi cho học sinh là cần trả lời chính xác, trung thực bằng ngôn
ngữ của trẻ. Học sinh tiểu học còn có tình cảm thẩm mỹ, rất yêu thích cái đẹp,
sở hữu cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp.
Trong đặc điểm nhân cách, các em hồn nhiên, hướng thiện, đây là thời kỳ
rất đẹp, rất an bình, trong sáng. Bắt đầu phát triển phẩm chất ý chí, đi vào học tập
đòi hỏi sự cố gắng, sự tranh đua nên trẻ thể hiện ý chí vươn lên dù còn non kém.
Tuy nhiên các em có kiên trì không cao, dễ nản chí, bỏ cuộc nửa chừng. Các em
chỉ có khả năng tự nhận thức bản thân theo ý kiến của người khác nên đôi khi gặp
14
nhiều khó khăn, nếu đứng trước những ý kiến khác biệt hoặc mâu thuẫn giữa
những lời nhận xét của những người xung quanh. Từ đây, ta có thể phát hiện ra
các em có những nhu cầu tâm lý mà người lớn phải đáp ứng để trẻ được thỏa mãn
Trong cuộc sống của các em, có 3 loại hoạt động cơ bản là học, chơi và làm, nhờ
vậy giúp cho đời sống tâm lý cân bằng, cuộc sống hài hòa. Nếu chỉ học mà không
chơi và làm, sẽ phát triển phiến diện, tâm lý không cân bằng, nghèo nàn về cuộc
sống, chính vì thế khi trẻ lớn lên đến độ tuổi thiếu niên, có nhiều tệ nạn đặt ra và
trẻ dễ sa ngã. Nếu những hoạt động học, chơi, làm được đáp ứng, các em sẽ nhận
thức được bản thân mình cách tích cực hơn, cảm giác rằng mình có giá trị vì vậy
lòng tự trọng hình thành. Tự trọng là phẩm chất quý giá của con người, từ tự
trọng sẽ dẫn đến tự giác và tự chủ. Nếu những nhu cầu này không được đáp ứng
thì em đó sẽ tự ti, học nhiều quá trẻ sẽ cảm thấy mệt mỏi, không hiệu quả, không
được chơi, được làm sẽ vụng về, luôn bị phê bình dẫn đến tự ti.

3.2. Tâm lý học sinh lớp 5 trong quá trình nhận thức khi học địa lý
Kiến thức địa lý thực tế cũng bao gồm những sự vật, hiện tượng quen thuộc
trong cuộc sống mà tất cả chúng ta đã được tiếp xúc ngay từ khi còn nhỏ như thời
tiết, các loại địa hình đồng bằng, núi cao,… Đối với học sinh lớp 5 thì các em đã
bước đầu làm quen với những kiến thức địa lý đại cương được tích hợp trong kiến
thức cả hai chủ đề khoa học Tự nhiên và Xã hội từ các lớp 1, 2, 3. Tuy nhiên nội
dung địa lý qua các bài tự nhiên – xã hội chủ yếu giúp học sinh nhận biết, thích
ứng với các sự vật, hiện tượng địa lý gần gũi với môi trường xung quanh nơi các
em đang sống chứ chưa đi vào phân tích, giải thích hiện tượng
Đến lớp 4, nội dung các bài học địa lý liên quan đến chương trình địa lý
Việt Nam và thế giới được trình bày thành môn học riêng. Chương trình môn địa
lý lớp 4 gồm các bài về bản đồ giúp cho học sinh nắm những kiến thức cơ bản
về bản đồ và các vấn đề về thiên nhiên, hoạt động sản xuất của con người ở các
vùng miền trên khắp đất nước. Như vậy ở lớp 4 các em đã làm quen với cách
học địa lý mới, bước đầu hình thành những khái niệm, biểu tượng địa lý cơ bản
Ở lớp 5, các em được tiếp tục khai thác sâu hơn các kiến thức địa lý và đi
vào giải thích, tìm hiểu các hiện tượng địa lý, phạm vi kiến thức cũng rộng hơn
15
nhiều so với lớp học trước. Quá trình nắm kiến thức địa lý của học sinh gồm
những giai đoạn sau :
- Tri giác
Tri giác là quá trình nhận thức cảm tính phản ánh những thuộc tính bề
ngoài của sự vật, hiện tượng như: màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, âm
thanh,… Trong nhận thức cảm tính, những thuộc tính bề ngoài của đối tượng địa
lý đều được phản ánh. Vì vậy, trong quá trình dạy học địa lý do đặc điểm của
các sự vật hiện tượng địa lý không phải lúc nào cũng có thể nhận thức trực tiếp
được nên việc sử dụng, khai thác các tranh ảnh, mô hình để hình thành những
biểu tượng tưởng tượng cho học sinh là cần thiết.
- Hiểu biết
Quá trình hiểu biết thể hiện trong việc phát hiện các mối quan hệ khách

quan trong việc thấu suốt ý nghĩa của lời nói hay các bài viết, kể cả ý nghĩa của
các thuật ngữ địa lý, cũng như các tư tưởng, những ý ẩn bên trong câu chữ. Diễn
biến của quá trình hiểu biết gồm có 3 giai đoạn: trước tiên là giai đoạn biết vấn
đề, sau đó là giai đoạn hiểu sơ bộ và cuối cùng là một giai đoạn có sự đột biến –
sự thông hiểu ý nghĩa của vấn đề bỗng nhiên bật ra. Trong quá trình này, tư duy
liên hệ chặt chẽ với các biểu tượng trí nhớ và với ý tưởng tượng sáng tạo. Như
vậy ngay từ ban đầu giáo viên phải hình thành biểu tượng địa lý chính xác cho
học sinh, một trong những cách nhận thức nhanh nhất là sử dụng kênh hình để
hình thành biểu tượng địa lý ban đầu
- Ghi nhớ
Ghi nhớ là một khâu quan trọng trong quá trình nắm là tái hiện kiến thức.
Đó cũng là một trong những tiêu chuẩn được coi là quan trọng trong nhiệm vụ
dạy học, biểu hiện ở việc nắm vững kiến thức của học sinh. Trong quá trình học
tập ghi nhớ có thể tiến hành dưới nhiều hình thức nhưng hình thức quan trọng
nhất là tạo ấn tượng ban đầu. Ấn tượng ban đầu có khuynh hướng ăn sâu vào kí
ức đến nỗi nếu như có đúng hay sai có thể ảnh hưởng đến sự ghi nhớ, sự tái hiện
kiến thức suốt đời. Nếu trong kí ức ấn tượng ban đầu đúng thì đó là ấn tượng
tích cực, còn nếu sai đó là ấn tượng tiêu cực. Một trong những cách gây ấn
16
tượng ban đầu chính là sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động vào quá
trình mở đầu bài học giúp tạo ấn tượng mạnh trong trí nhớ học sinh
- Khái quát hóa và hệ thống hóa kiến thức
Khái quát hóa là hoạt động tư duy tách những thuộc tính bản chất chung của
các đối tượng để xếp chúng vào cùng một loại, là sự chuyển từ cái đơn nhất sang
cái chung. Hệ thống hóa là quá trình hoạt động tư duy, trong đó các đối tượng được
xếp vào một hệ thống nhất định theo những nguyên tắc lựa chọn Cách tốt nhất để
giúp học sinh nắm vững được kiến thức và ghi nhớ bền vững là giáo viên hướng
dẫn cho học sinh biết hệ thống hóa kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Thí dụ :
hệ thống hóa bằng cách lập bảng so sánh, bằng cách vẽ sơ đồ cấu trúc,..
4. TÌNH HÌNH THỰC TẾ SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA

LÝ LỚP 5 HIỆN NAY
Thông qua việc tham khảo ý kiến trên địa bàn Thị xã Phú Thọ và thành
phố Việt Trì thì hầu hết giáo viên Tiểu học đều hiểu được những phương hướng
đổi mới trong mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục Tiểu học và đều cho
rằng việc đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố quyết định đến việc nâng cao
chất lượng dạy học địa lý. Vì vậy việc tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp
dạy học mới là yêu cầu thiết yếu. Đối với môn Địa lý nói riêng và các môn học
ở Tiểu học nói chung cũng vậy, vì thế đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới
phương pháp dạy học của cả nhà trường và giáo viên.
Nhận thức được xu thế đổi mới của phương pháp dạy học hướng vào sử
dụng ngày càng nhiều các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại nên công tác bồi
dưỡng giáo viên luôn được đề cao. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn nghiệp vị thì giáo viên hiện nay còn được đào tạo để sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử. Tuy
nhiên, ở Tiểu học hiện nay thực trạng giảng dạy là giáo viên dạy học dựa hoàn
toàn theo sách giáo khoa. Trong giờ học, giáo viên tóm lược bài giảng dưới dạng
kênh chữ, trình bày trên bảng hoặc phát giấy cho học sinh, học sinh học thuộc
lòng, phương pháp dạy học chủ yếu là thuyết giảng, đọc chép. Khuynh hướng
này phổ biến trong hầu hết các trường Tiểu học hiện nay. Thực tế không phải là
17
những giáo viên đó không yêu nghề, không có ý thức tìm ra những phương pháp
dạy học mới mà do điều kiện đồ dùng dạy học tại địa phương còn thiếu thốn.
Hơn nữa hiện nay học sinh đã quá quen với hình thức dạy học cũ nên việc đổi
mới phương pháp dạy học không thể thực hiện trong một sớm một chiều được
mà cần có quá trình lâu lài và sự nghiên cứu cụ thể. Một trong những nguyên
nhân sâu xa của tình trạng này là sự chủ quan của người dạy và cả người học đối
với việc dạy học địa lý ở Tiểu học. Hầu hết ở Tiểu học học sinh chỉ được chú
trọng tập trung vào hai môn học chính là toán, văn, vai trò của các môn học khác
hầu như đều rất mờ nhạt. Hơn nữa môn địa lý không được tách thành phân môn
riêng nên lại càng ít nhận được sự chú ý đầu tư của cả người dạy và người học.

Chính vì điều đó hầu hết ở trường Tiểu học hiện nay không có giáo viên chuyên
dạy phân môn địa lý mà vẫn là một giáo viên đảm nhiệm việc dạy nhiều môn
học. Vì một người phải dạy quá nhiều kiến thức trên nhiều lĩnh vực như vậy nên
sự đầu tư chuyên sâu vào một môn phụ là rất ít. Từ những nguyên nhân khách
quan nêu trên nên hiện trạng dạy học bộ môn địa lý ở Tiểu học hiện nay hầu như
chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết của môn học vì vậy việc nghiên cứu đổi
mới phương pháp dạy học là cần thiết.
Mặc dù Bộ giáo dục – Đào tạo đã triển khai việc đổi mới dạy học lấy
người học làm trung tâm hoặc tăng cường sử dụng phương tiện dạy học hiện đại
nhưng việc áp dụng trong thực tế vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Điều đáng
khích lệ là bộ phận giáo viên trẻ hầu hết đều có ý thức đổi mới phương pháp dạy
học và có trình độ sử dụng phương tiện kĩ thuật ở mức khá. Do những giáo viên
trẻ hiện nay được chú trọng đào tạo ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường
nên họ năng động trong giảng dạy, có kiến thức tương đối vững vàng trong lĩnh
vực này. Đây cũng là động lực cho việc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới
phương pháp dạy học địa lý nói riêng vì trong tương lai họ sẽ là nòng cốt trong
sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Qua khảo sát thực tế tại một số trường trả lời theo phiếu khảo sát đối với
giáo viên được hỏi thì kết quả như sau :
18
- Kĩ năng sử dụng kênh hình của giáo viên hiện nay nhìn chung đã đáp
ứng được yêu cầu tuy nhiên một số giáo viên cho rằng kĩ năng sử dụng công
nghệ thông tin để khai thác kênh hình cần được bồi dưỡng thêm
- Quan niệm về vai trò và sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý :
100% giáo viên cho rằng kênh hình không thể thiếu trong dạy học địa lý, 63%
giáo viên dùng kênh hình để khai thác kiến thức, 37% giáo viên dùng kênh hình
để minh họa cho bài dạy
- Về mức độ sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý : 100% giáo viên
thường xuyên sử dụng kênh hình trong bài giảng
Đa số giáo viên cho rằng kênh hình phục vụ cho dạy học địa lý hiện nay

là tương đối đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu giảng dạy tuy nhiên cũng cần được
bổ sung thêm để nâng cao hiệu quả dạy học.
Như vậy về trang thiết bị kĩ thuật và tinh thần sử dụng kênh hình trong
giảng dạy hiện nay hầu hết đều mang chiều hướng tích cực. Tuy nhiên trong bộ
phận học sinh hiện nay thì hầu hết các em đều coi môn địa là môn phụ, việc đầu
tư thời gian cho môn học này hầu như rất ít. Các em chủ yếu coi đây là môn đọc
chép, chỉ cần học thuộc lòng là đủ, khi gặp phải dạng bài đòi hỏi có tư duy địa lý
cũng như kĩ năng sử dụng bản đồ thì các em còn lúng túng, nhiều em không đáp
ứng được yêu cầu của giáo viên.

19
CHƯƠNG 2:
SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5
I. HỆ THỐNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5
1.1. Bản đồ giáo khoa
1.1.1. Khái niệm bản đồ giáo khoa
Tất cả các bản đồ địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội dùng trong nhà trường
nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được gọi chung là bản đồ giáo khoa
U.C. Bilich và A.C. Vasmut đã định nghĩa “ Bản đồ giáo khoa là những
bản đồ sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và
học tập ở tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống
giáo dục cho tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh đến việc đào tạo các chuyên
gia. Những bản đồ đó cũng được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trước hết
là địa lý và lịch sử”
Lâm Quang Dốc trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng bản đồ, lược đồ trong
sách giáo khoa địa lý phổ thông” đã định nghĩa về bản đồ giáo khoa như sau “
Bản đồ giáo khoa là biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa trên
cơ sở toán học, bằng ngôn ngữ bản đồ, phương tiện (đồ họa) phản ánh sự phân
bố trạng thái mối liên hệ tương hỗ của khách thể - tương ứng với mục đích nội
dung và phương pháp của môn học trên những nguyên tắc chặt chẽ của tổng

quát hóa bản đồ, phù hợp với trình độ phát tiển trí óc của lứa tuổi học sinh, có
xét đến cả yêu cầu giáo dục thẩm mỹ và vệ sinh học đường”
Từ các định nghĩa trên ta thấy bản đồ giáo khoa phục vụ cho ngành giáo
dục gồm có giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Nó rất cần cho việc dạy học
ở các cấp học, bậc học; không có bản đồ giáo khoa thì không thể dạy học địa lý
và lịch sử được. Nhiều nhà khoa học bản đồ cho rằng bản đồ giáo khoa trước hết
phải là bản đồ địa lý, là mô hình làm chức năng nhận thức khoa học do đó điểm
20

×