Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.74 KB, 35 trang )

Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Chương 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ DNNVV VÀ
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHO DNNVV
1.1. Khái niệm và phân loại các DNNVV.
Mặc dù nhiều người đồng ý rằng thị trường SME có qui mô và tầm quan trọng đáng kể,
định nghĩa về thị trường này vẫn còn khác nhau rất nhiều trên toàn thế giới. Thường không có
một định nghĩa duy nhất về SME ngay cả giữa các quốc gia:
Quốc Gia Nhân Viên
Doanh Thu Hàng Năm
(Doanh Thu)
Hoa Kỳ <500 cho phần lớn hoạt động
sản xuất và khai thác
<$7 triệu đối với đa số các ngành
không liên quan tới sản xuất, nhưng
dao động tới mức tối đa là $35,5 triệu
Canada 10 tới 250 <50 triệu CAD
Mexico <500 trong hoạt động sản xuất,
<50 trong hoạt động dịch vụ
Nam Phi 10–20 tới 100–200, tùy thuộc
vào từng ngành
200–300.000 ZAR tới 4–50 ZAR
triệu, tùy thuộc vào từng ngành
Thái Lan <200 trong các ngành sử dụng nhiều lao động và
<100 trong các ngành sử dụng nhiều vốn
Thổ Nhĩ Kỳ 10 tới 250
Nguồn: IFC (2004) SME Landscape in Egypt, U.S. Small Business
Administration, Statistics Canada
- Malaysia SMIDEC có định nghĩa khác về thị trường SME, theo ngành:
Qui mô
công ty
Sản Xuất,


Các Ngành Nông Nghiệp
Dịch Vụ, ICT hoặc
Nông Nghiệp Chủ Yếu
Vi mô
<5 nhân viên
HOẶC doanh thu <$66.000
<5 nhân viên
HOẶC doanh thu <$53.000
Nhỏ
<50 nhân viên
HOẶC doanh thu <$2 triệu
<19 nhân viên
HOẶC doanh thu <$200.000
Vừa
<150 nhân viên
HOẶC doanh thu <$6,6 triệu
<50 nhân viên
HOẶC doanh thu <$1 triệu
Nguồn: SMIDEC — Công Ty Phát Triển Các Ngành Kinh Doanh Vừa và Nhỏ
- Liên Minh Châu Âu định nghĩa SME là các công ty có từ 10 tới 250 nhân viên.
Qui mô công ty Nhân viên Doanh thu hàng năm
Vi mô
<10 <€2 triệu
Nhỏ
<50 <€10 triệu
Vừa
<250 <€50 triệu
Nguồn: Đề xuất 96/280/CE, với thông tin cập nhật tháng Năm 2003
- Các định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB) về DNNVV (doanh nghiệp phải đáp ứng
được tối thiểu 2 phần 3 các đặc điểm này):

Qui mô công ty Nhân viên (người) Tài sản Doanh thu hàng năm
Vi mô <10 <$100.000 <$100.000
Nhỏ 10 - <50 <$3 triệu <$3 triệu
Vừa 50 - <300 <$15 triệu <$15 triệu
[1]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Qui mô vay trung bình
Vi mô <$10.000
Nhỏ <$100.000
Vừa <$1 triệu (<$2 triệu đối với một số quốc gia tiên tiến)
Nguồn dữ liệu: Ayyagari, Beck, và Demirgüç-Kunt (2005)
- Tại Việt nam:
+ Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, định nghĩa: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất,
kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp,
Chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc
một trong hai chỉ tiêu nói trên.”
+ Theo Nghị định số 56/2009/NĐ–CP ngày 30/06/2009 của Chính Phủ về trợ giúp
phát triển DNNVV (thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về
trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa), định nghĩa: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ,
nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác
định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Quy mô
Khu vực
DN siêu
nhỏ

DN nhỏ DN vừa
Số lao
động
(người)
Tổng nguồn
vốn
(tỷ đồng)
Số lao động
(người)
Tổng nguồn
vốn
(tỷ đồng)
Số lao động
(người)
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản <= 10 <=20 >10 - 200 >20 - 100 >200 - 300
II. Công nghiệp và xây dựng <= 10 <=20 >10 - 200 >20 - 100 >200 - 300
III. Thương mại và dịch vụ <= 10 <=10 >10 - 50 >10 - 50 >50 - 100
Tùy theo tính chất, mục tiêu của từng chính sách, chương trình trợ giúp mà cơ quan chủ trì
có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho phù hợp.”
Trong các tiêu chí phân loại trên thì quy mô về nguồn vốn được chú trọng tuy nhiên có
điểm hạn chế là chưa lưu ý đến tính chất của ngành nghề, trình độ kỹ thuật công nghệ của
doanh nghiệp. Tổng nguồn vốn của DN bao gồm vốn của Chủ sở hữu và vốn huy động dưới
các hình thức và cấu trúc khác nhau. So với các doanh nghiệp lớn, vốn của các DNNVV
thường có tính ổn định hơn, trong khi đó, nợ và các khoản phải trả cấu thành phần còn lại của
nguồn vốn thì thì thường xuyên biến động tùy theo đặc điểm ngành nghề khác nhau. Do đó,
tổng nguồn vốn của DN cũng thường xuyên biến động. Như vậy, một doanh nghiệp được xếp
vào loại nhỏ hôm nay nhưng 1 thời gian ngắn sau có thể trở thành DN lớn, hoặc ngược lại.
Ngoài ra, các phân loại trên chưa chú ý đến mức độ tham dụng lao động, số nhân công
thường xuyên, bán thời gian và mùa vụ. chúng ta có thể xem xét ví dụ 50 nhân công àm việc ở
một xí nghiệp có công nghệ cao nhưng quy mô hoạt động (doanh thu, vốn, lợi nhuận) có thể

lớn hơn rất nhiều so với dN may mặc có 150 công nhân.
1.2. Các đặc điểm của DNNVV
[2]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
- Về vốn và bộ máy tổ chức quản lý:
+ Các DNNVV được tạo lập khá dễ dàng, có thể quản lý theo quy mô hộ gia đình,
hoặc quan hệ bạn bè. Để thành lập một DNNVV chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu không lớn.
+ Bộ máy tổ chức quản lý được thành lập rất gọn nhẹ, quyết định kinh doanh, điều
hành quản lý rất nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý. Thông thường theo mô
hình quản lý kiểu gia đình rất phổ biến đối với doanh nghiệp tư nhân.
- Về lao động: DNNVV thu hút số lượng lớn lao động có trình độ chuyên môn trung
bình và thấp vào làm việc. Nhưng mặt khác, điều kiện làm việc, chế độ lương bổng và chính
sách phúc lợi không được tốt như các doanh nghiệp lớn, do vậy DNNVV rất khó khăn trong
thu hút lao động có trình độ chuyên môn cao.
- Vế chiến lược, mục tiêu: Các DNNVV chưa quan tâm, cũng như chưa đủ điều kiện
hướng đến chiến lược kinh doanh dài hạn mà chủ yếu là quan tâm đến lợi ích trước mắt và kế
hoạch ngắn han.
- Về loại hình hoạt động và thị trường:
+ Bước khởi nghiệp của DNNVV không cần các nguồn lực quá mạnh về tài chính,
công nghệ, nhân sự… Do vậy, các DNNVV rất năng động trước những biến động của thị
trường, linh hoạt chuyển hướng kinh doanh, thay đổi sản phẩm, thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tuy nhiên, do vốn đầu tư ít nên hoạt động kém ổn định, mức độ ứng dụng công nghệ vào sản
xuất kinh doanh còn ở mức thấp, khả năng tích lũy, tái đầu tư mở rộng kinh doanh thấp vì thế
dễ dẫn đến tình trạng suy thoái và thậm chí là phá sản.
+ DNNVV thường gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công
nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến. Ngoài ra, do uy tín thương trường cũng như
thương hiệu của các DNNVV còn hạn chế nên DN khó khăn trong việc thâm nhập thị trường
quốc tế và mở rộng thị phần.
+ Ngoài ra, hoạt động của các DNNVV thiếu vững chắc, thiếu liên kết và dễ bị tác
động bởi những biến động vĩ mô. Với ưu thế linh hoạt, cơ cấu ngành nghề đa dạng, đáp ứng

được nhu cầu của thị trường nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên DNNVV dễ bị tác động
của môi trường vĩ mô trên thị trường như tình trạng suy thoái, lạm phát,…
- Mức độ thiếu minh bạch thông tin cũng như chưa ý thức chấp hành pháp luật về kế
toán, thuế, thương mại… còn khá phổ biến. Do vậy khả năng liên kết, hợp tác kinh doanh với
các doanh nghiệp lớn thường ít thành công.
Từ tất cả những đặc tính trên dẫn tới những rủi ro phải đối mặt của DNNVV như:
1.2.1. Rủi do kinh doanh:
Rủi ro kinh doanh có thể được định nghĩa như sự nhạy cảm của các hoạt động DN
trước những thay đổi dột ngột của môi trường, và sự thiếu khả năng của DN trong việc cung
ứng các sản phẩm có chi phí thấp hơn.
Rủi ro kinh doanh có thể được chia ra 03 loại: rủi ro thương mại, rủi ro quản lý, và rủi
ro công nghệ/sản xuất.
- Rủi ro thương mại: liên quan đến những nhân tố có ảnh hưởng đến việc tăng giảm
doanh số của DN: quy mô của thị trường tiềm năng, thiếu khả năng đáp ứng chiến lược cạnh
tranh hiện tại và tương lai. Đối với các DNNVV, loại rủi ro này được bộc lộ ra như sau: sự phụ
thuộc vào một hay một số ít khách hàng, thiếu sự đa dạng hóa, thiếu hiểu biết về các nhu cầu
khách hàng… Với các lý do trên, các DNNVV có thể được tài trợ với một lãi suất cao hơn (so
với các DN lớn) đã được đưa vào khi tính toán lãi suất.
[3]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
- Rủi ro quản lý: liên quan đên toàn bộ các hoạt động quản lý, do sự thiếu kiến thức quản
lý, về quản lý nhân sự, không tổ chức quản lý và hoạch định tài chính DN, do hệ thống tin học
và kế toán yếu kém. Giới chủ và những người điều hành các DNNVV do thường chuyên trách
một công việc nào đó trong hoạt động của DN nên ít quan tâm đến các lĩnh vực hoạt động
khác. Điều này cũng tạo thêm lý lẽ cho các chủ nợ khi cho rằng rủi ro của DNNVV cao hơn là
của các DN lớn.
- Rủi ro công nghệ/sản xuất: có liên hệ đặc biệt đến cấu trúc sản xuất, nhân tố xác định
giá thành sản phẩm cũng như tính cạnh tranh của sản phẩm đó. Rủi ro công nghệ/sản xuất nói
lên sự thiếu hiểu biết về sự tiến triển của công nghệ và thiết bị sản xuất, thiết các hoạt động
nghiên cứu phát triển. Loại rủi ro này có mức độ khác nhau giữa các DN, tùy theo lĩnh vực

hoạt động và các đặc điểm liên quan đến chủ/người điều hành DN.
1.2.2. Rủi ro về tài chính:
Thông thường các chủ nợ xác định rủi ro tài chính của một DN thông qua việc phân
tích cấu trúc tài chính của nó để nhận diện khả năng thực hiện các cam kết cho cho các nghĩa
vụ trả nợ cho tương lai. Thực vậy, khi phân tích các hồ sơ đề nghị vay vốn của DN, các định
chế tài chính quan tâm đến chủ yếu bản chất và số lượng các khoản nợ thể hiện trên các tài liệu
kế toán, nhằm mục đích xác định mức độ họ có thể tài trợ, bởi lẽ giữa khối lượng nợ và rủi ro
tài chính của DN có liên hệ với nhau. Nhưng không phải lúc nào DN có dư nợ càng lớn thì rủi
ro tài chính của DN càng cao.
1.3. Vai trò của DNNVV đối với sự phát triển của nền kinh tế
Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ thì DNNVV là cơ
sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu
nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
xác định trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm.
DNNVV hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế: thương mại, dịch vụ, công
nghiệp, xây dựng, nông, lâm, ngư nghiệp và dưới mọi hình thức như: doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài Thực tế cho thấy qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước, đến nay, khu vực DNNVV đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đóng
góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ nhất, DNNVV đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành nghề và cả
nền kinh tế, tạo thêm nhiều hàng hoá, dịch vụ và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thị trường.
Theo Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2010, cả nước hiện nay có
453.800 DNNVV, chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam, đóng góp
khoảng 40% GDP cả nước. Do các DNNVV có đặc điểm là vốn đầu tư ban đầu nhỏ nên chu kỳ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường ngắn, dẫn đến khả năng thu hồi vốn nhanh và
tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNNVV luôn thích ứng
cao trước những thay đổi của thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển
hướng mặt hàng nhanh. Sản phẩm của các DNNVV đa dạng, phong phú nhưng số lượng không
lớn, nên dễ dàng chuyển hướng sang loại hình kinh doanh khác, phù hợp với thị trường. Vì

vậy, các chuyên gia kinh tế coi DNNVV như “Chiếc đệm giảm sóc của thị trường”.
Thứ hai, các DNNVV góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề xã hội như
tạo nhiều việc làm cho người lao động, có thể sử dụng lao động tại nhà, lao động thường xuyên
[4]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
và lao động thời vụ; hạn chế tệ nạn, tiêu cực (do không có việc làm). Tăng thu cho ngân sách
nhà nước, từ đó có điều kiện để nâng cấp cơ sở hạ tầng, tăng thu nhập cho người lao động và
góp phần cải thiện đời sống của người dân.
Thứ ba, góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, kinh nghiệm sản
xuất - kinh doanh, kinh nghiệm quản lý đã tích lũy qua nhiều thế hệ, tạo lập được sự cân đối và
phát triển kinh tế giữa các vùng, miền, góp phần tích cực vào quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ tư, các DNNVV góp phần mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sức cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế, phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, đóng vai
trò làm vệ tinh, hỗ trợ, góp phần tạo mối quan hệ với các loại hình doanh nghiệp, cũng như đối
với các thành phần kinh tế khác.
1.4. Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV
1.4.1. Khái niệm tổng quát về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng sang
khách hàng trong một thời hạn nhất định với một chi phí nhất định. Cũng như các quan hệ tín
dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng 03 nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này chỉ mang tính chất tạm thời trong một thời gian nhất định và
được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
- Sự chuyển nhượng này có kèm chi phí .
1.4.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV
Xuất phát từ đặc điểm chung của các DNNVV là tình trạng không minh bạch về tài
chính, vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận thông tin và thị trường hạn chế, thiếu tài sản thế chấp,
khả năng chống đỡ rủi ro còn thấp…. Các ngân hàng thường có tâm lý thận trọng hơn khi cho
vay các DNNVV, vì rủi ro tín dụng là cao hơn nhiều khi cho vay các doanh nghiệp lớn.

Các DNNVV thường có nhu cầu vay vốn ngân hàng để bổ sung vốn lưu động, đầu tư
các dự án nhỏ do tiềm lực tài chính, cũng như khả năng quản lý không đủ để đảm nhiệm các
dự án có tầm vóc lớn.
1.4.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các DNNVVlà một tất yếu
khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu
cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hóa hiệu quả sữ dụng vốn của mình. Vốn tín dụng các
ngân hàng đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đầy sự
phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng,
đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối…
Để thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển DNNVV, ta xét một số vai
trò sau:
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra dời và phát triển của các DNNVV,
góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNNVV.
Trong cơ chế nền kinh tế thị trường hiện nay, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của mình
sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn
[5]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng
sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt
động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập
công ty hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.
Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ
suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, Tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng
đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những
doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về
cung- cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.
Ngoài nguồn vốn chủ sỏ hữu các doanh nghiệp có thể sử dụng các nguồn vốn khác như
vốn vay từ ngân hàng, vốn tín dụng thương mại, phát hành các giấy nợ, giấy tờ có giá Tuy

nhiên đối với các DNNVV thực tế việc huy động vốn từ thị trường tài chính là rất khó khăn,
thêm vào đó việc huy động vốn từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng đòi hỏi chi phí rất cao
cho nên nguồn vốn vay ngân hàng là sự lựa chọn thích hợp nhất đối với các DNNVV. Sử dụng
nguồn vốn này các doanh nghiệp không những tiết kiệm được chi phí, không làm ảnh hưởng
đến quyền sở hữu của doanh nghiệp mà còn có được khoản tiết kiệm từ thuế. Đồng thời tạo
đòn bẩy cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tuân thủ hợp đồng tín dụng,
đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cũng như tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho
dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn
tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các
doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo
tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc
các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
- Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV được liên tục
Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kĩ
thuật, thay đồi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và
phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100%
vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến phương thức kinh
doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh
được liên tục.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh
của các DNNVV
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường,muốn tồn tài và đứng
vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các
DNNVV, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh với các
doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của

các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản
[6]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một số vốn đủ lớn đầu
tư cho đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có hạn hẹp, khả năng tích lũy thấp thì phải mất
nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư không còn nữa. Như vậy để đáp ứng
kịp thời, các DNNVV chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới
có thể giúp doanh nghiệp thực hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất
kinh doanh.
- Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn nước ngoài
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm,
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, TD ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước
ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua
thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C… Như vậy quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp đã
được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu.
Thông qua nguồn vốn vay này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết
hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay cũng như nguồn tự có nhằm sản phẩm sản xuất tại giá vốn
bình quân rẻ nhất, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp
nhận. Có như vậy thì doanh nghiệp mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNNVV.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản xuất
kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả sử
dụng vốn. đối với các DNNVV do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là
khó khăn vì vốn hạn hẹp và nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường
chấp nhận. để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lí nhất là
nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay nhằm tối đa hóa lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ
nhất.
1.4.4. Các loại hình tín dụng dành cho DNNVV
Từ các đặc điểm của các DNNVV, trên thực tế các sản phẩm tín dụng chủ yếu dành

cho nhóm khách hàng này thường là: vay ngắn hạn, chiết khấu chứng từ có giá, cho vay trung
dài hạn, tài trợ ngoại thương, bảo lãnh, cho thuê tài chính
- Cho vay ngắn hạn: nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên hay theo thời
vụ của các DNNVV. Hai phương thức cho vay ngắn hạn thường áp dung phổ biến hiện nay:
+ Cho vay từng lần: thường áp dụng cho các khách hàng mới hoặc quan hệ tín dụng
chưa thường xuyên, chưa được sự được sự tín nhiệm từ phía ngân hàng. Với phương thức này,
mỗi làn vay vốn thì DN và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín
dụng.
+ Cho vay theo hạn mức: ngân hàng và khách hàng cùng xác định và thỏa thuận một
hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Đăc điểm cơ bản của loại hình
tín dụng này là một bộ hồ sơ được sử dụng cho nhiều món vay, món giải ngân khác nhau. Hạn
mức tín dụng có thể được hiểu như là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trongthời gian nhất
định.
- Chiết khấu chứng từ có giá: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng nhận các chứng
từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền nhất định bằng mệnh giá của chứng từ trừ đi các
[7]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
khoản hoa hồng và lãi chiết khấu. Loại chứng từ có giá mà ngân hàng thường nhận chiết khấu
là thương phiếu, bên cạnh đó, là các loại chứng từ khác như trái phiếu, kỳ phiếu…
- Cho vay trung hạn: mục đích tín dụng trung dài hạn thường là đầu tư vào TSCĐ của
DN hoặc đầu tư vào dự án như trên đã nói, tiếp cận tín dụng trung dài hạn vẫn còn là một hạn
chế lớn với các DNNVV của Việt Nam hiện nay.
- Tài trợ ngoại thương: bằng việc tiếp cận tài trợ ngoại thương, các DNNVV có quan
hệ kinh doanh xuất nhập khẩu có thể vay vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu kinh doanh của
mình. Tài trợ ngoại thương bao gồm các hoạt động mang tính tài trợ của ngân hàng, trên thực
tế thường bao gồm các hình thức : cho vay tiền- xuất khẩu, cho vay chiết khấu bộ chứng từ
xuất khẩu, cho vay mở thư tín dụng…
- Bảo lãnh: là cam kết từ phía ngân hàng và bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Ở Việt Nam hiện nay trong khuôn khổ hỗ trợ các

DNNVV trong vay vốn ngân hàng, Ngân hàng phát triển VN có thể phát hành bảo lãnh vay
vốn cho các DNNVV.
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê
giữa bên cho thuê vơi bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các
tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất,
tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Về mặt lý thuyết, cho thuê tài
chính có thể là phương cách tiếp cận tín dụng trung dài hạn đối với các DN có quy mô vốn
nhỏ, ít có tài sản thế chấp hoặc mới thành lập. Đa phần các DNNVV nằm trong dạng này.
- Nghiệp vụ bao thanh toán:
Theo công ước quốc tế về bao thanh toán của Unidroit 1988, nghiệp vụ bao thanh tóan
được định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao
dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng. Theo đó, tổ chức tài trợ thực hiện tối
thiếu hai trong số các chức năng sau: tài trợ bên cung ứng, quản lý sổ sách liên quan đến các
khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, đảm bảo rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.
Còn hiệp hội bao thanh toán thế giới FCI thì định nghĩa : đây là một loại hình dịch vụ
tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo
dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sực thỏa thuận của người cung cấp dịch vụ bao
thanh toán với người cung ứng hàng hóa dịch vụ, hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ
mua bán hàng hóa. Theo như thỏa thuận, factor sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán
dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ bao thanh toán khác thì nghiệp vụ
bao thanh toán được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung cấp tài trợ tài
chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải thiện
dòng ngân lưu của khách hàng, đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng. Các dịch vụ đi kèm gồm có
quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng mức tín dụng và thu hộ.

[8]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Chương 2. THỰC TRẠNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA CÁC DNNVV VÀ
CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DNNVV CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của các DNNVV tại Việt Nam
2.1.1. Những nhân tố hạn chế sự phát triển của DNNVV ở Việt Nam
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các DNNVV có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển tốt các DNNVV không những góp phần to
lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định kinh tế, xã hội trong nước. Ở Việt Nam, các
DNNVV tuy cũng đã có môi trường để đầu tư phát triển khá thuận lợi và đạt được những kết
quả nhất định, song kết quả đạt được chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DNNVV, điều
đó được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, các DNNVV khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, họ cũng không
có lợi thế về khoanh nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng, tín chấp khi vay như các DNNN lớn. Trong
khi các DNNVV phải tuân thủ nghiêm yêu cầu thế chấp thì các DNNN lại không cần quan tâm
tới điều này.
Thứ hai, khó khăn về mặt bằng kinh doanh, hầu hết các DNNVV đều phải sử dụng nhà
cửa, đất vườn làm mặt bằng kinh doanh. Mặc dù, Luật Đất đai mới được sửa đổi đã có một số
thay đổi quan trọng có lợi cho các nhà đầu tư, nhưng tình trạng thiếu đất cho sản xuất cũng như
đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn còn khá phổ biến trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nói chung và DNNVV nói riêng.
Do hệ quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, phần lớn đất giao cho các DNNN
hiện đang bị lạm dụng hoặc để không rất lãng phí. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp tư nhân
mới nổi lên đang thực sự cần đất để bắt đầu hoặc mở rộng kinh doanh lại không có cách nào để
có đất trừ khi đi thuê lại đất của các DNNN ở mức giá cao hơn rất nhiều so với mức giá do các
cơ quan thẩm quyền nhà nước qui định.
Thứ ba, không nhiều DNNVV có cơ hội tiếp cận với các chính sách khuyến khích, ưu
đãi của Chính phủ như thưởng xuất khẩu, vay vốn ưu đãi do thủ tục hành chính quá phức tạp.
Theo số liệu thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2010 cho biết,

chỉ có khoảng 20% các DNNVV được tiếp cận với chính sách ưu đãi và trong số này, hơn 60%
cho rằng phải qua rất nhiều cửa ải và khá tốn kém.
Thứ tư, những vấn đề mà các DNNVV phải đối mặt trong vấn đề xuất nhập khẩu, gồm:
Việc tiếp cận với hạn ngạch xuất - nhập khẩu bị hạn chế và trên thực tế các DNNN vẫn giành
được sự ưu tiên; Thiếu thông tin về thị trường của đối tác, về khách hàng nước ngoài và thiếu
mạng lưới marketing; Tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu không đáp ứng được yêu cầu
của các doanh nghiệp; Thủ tục hải quan còn rườm rà
* Nguyên nhân của những rào cản trên:
Thứ nhất, đó là quan điểm nhìn nhận của xã hội về khu vực DNNVV còn nhiều định
kiến. Còn nhiều người trong cộng đồng vẫn coi khu vực này chưa có đủ tin cậy, họ cho rằng
các doanh nghiệp này hoạt động thường không ổn định và kém hiệu quả.
[9]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Thứ hai, vẫn còn khá nhiều các tổ chức kinh tế phân biệt đối xử đối với khu vực này,
điển hình là nhiều NHTM cho rằng các DNNVV không “đủ tin cậy” bằng các DNNN, vì vậy,
khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng của các doanh nghiệp này thấp.
Thứ ba, các thủ tục hành chính đã tạo ra nhiều rào cản đối với các DNNVV. Thủ tục
hành chính phiền hà gây tốn kém về thời gian và tiền bạc của các DNNVV, làm các DNNVV
mất đi nhiều cơ hội kinh doanh của mình.
Thứ tư, bên cạnh những yếu tố khách quan trên thì bản thân khu vực DNNVV cũng tự
tạo ra những cản trở cho chính sự phát triển của mình, cụ thể như:
- Năng lực kinh doanh còn hạn chế, chưa thực sự tạo lập được uy tín và danh tiếng của
mình trên thị trường;
- Một số doanh nghiệp chạy theo lợi ích trước mắt, kinh doanh theo kiểu “chụp giật”, ít
có doanh nghiệp xây dựng chiến lược lâu dài hoặc chú trọng tới vấn đề xây dựng thương hiệu;
- Do quy mô vốn nhỏ nên các DNNVV không có điều kiện đầu tư quá nhiều vào nâng
cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại và việc sử dụng các công
nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém;
- Năng lực quản lý còn thấp: Số lượng DNNVV có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi,
trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh

nghiệp và giám đốc DNNVV chưa được đào tạo bài bản về quản lý, thiếu kiến thức kinh tế - xã
hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà
quản lý và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các chính sách
đãi ngộ thỏa đáng để thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như những người lao động
giỏi;
- Môi trường kinh doanh của các DNNVV dễ gặp rủi ro do thiếu thông tin;
- Chế độ báo cáo, thống kê và kiểm toán đối với DNNVV chưa theo chuẩn mực, thông lệ
quốc tế cũng phần nào gây khó khăn cho các ngân hàng khi thẩm định các dự án, phương án
vay vốn của các DNNVV.
2.1.2. Thực trạng phát triển các DNNVV tại Việt Nam
Những năm qua, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển mạnh mẽ, chiếm
hơn 97% số doanh nghiệp (DN) cả nước. Các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong tạo việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát
triển, xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của DN lớn, trong đó
có lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Giai đoạn 2000 - 2010, có khoảng 5,6 triệu việc làm mới được tạo ra bởi các doanh
nghiệp tư nhân (trong đó phần lớn là DNNVV), 1,5 triệu việc làm được tạo ra từ các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi khu vực doanh nghiệp nhà nước cắt giảm khoảng
300.000 lao động.
Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, năm 2011, cả nước có 77.548 DN đăng ký thành lập mới,
giảm 7,2% so năm 2010. Có 53.972 DN giải thể, ngừng hoạt động, tăng 24,3% so năm trước.
Riêng hai tháng đầu năm, có 10.119 DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn 55.674 tỷ
đồng; có 2.759 DN giải thể, ngừng hoạt động; 2.763 DN bị thu hồi giấy phép hoạt động. Tính
đến hết năm 2011, lượng doanh nghiệp DNNVV đạt hơn 500.000, chiếm khoảng 98% tổng số
doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký xấp xỉ 121 tỷ USD (chiếm trên 30% tổng số vốn các doanh
[10]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
nghiệp), hàng năm đóng góp hơn 40% cho GDP (nếu tính cả đóng góp của hợp tác xã, trang
trại và các hộ kinh doanh cá thể thì khu vực này đóng góp tới 60% GDP). Tỷ trọng vốn đầu tư
của khu vực trong tổng vốn đầu tư xã hội tăng dần từ 38% năm 2005 lên hơn 40% năm 2008,

sau đó giảm còn 31% năm 2009, tương đương khoảng 708,5 tỷ đồng. Năm 2011, khu vực
DNNVV đã đóng góp 33% sản lượng công nghiệp, 30% giá trị xuất khẩu cho đất nước…Các
DNNVV tạo ra 45 đến 50% khối lượng hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đóng góp 20% cho
ngân sách nhà nước, thu hút 56% số lao động trong các DN. Ðây là một trong những yếu tố
đóng góp tích cực vào an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bởi với tính linh hoạt, các DN này
có thể đi vào tận các vùng, miền.
Trong tiến trình cải cách và phát triển kinh tế ở Việt Nam, DNNVV luôn chiếm tỷ
trọng lớn. Tuy là những doanh nghiệp nhỏ về vốn, lao động hay doanh thu, song cùng với sự
gia tăng mạnh mẽ về số lượng và quy mô hoạt động, các DNNVV đã khẳng định được vai trò
quan trọng của mình trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng, thay đổi cơ cấu kinh tế, tạo việc
làm, giúp cải thiện mức sống của người dân, góp phần rất lớn vào công cuộc xóa đói giảm
nghèo.
Do những điều kiện hạn chế, bài tiểu luận chưa thể cập nhập đầy đủ các số liệu thống
kê liên quan đến DNNVV theo Nghị định số 56/2009/NĐ–CP. Các số liệu thống kê dưới đây
được lấy theo tiêu chuẩn phân loại DNNVV quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ–CP, đó là
các DN có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng và quy mô lao động đưới 300 người. Căn cứ vào tiêu
chí trên, đặc biệt tiêu chí về vốn thì đa số các DN ngoài quốc doanh (kinh tế tư nhân) của Việt
nam là DNNVV. Có thể thấy điều này qua số liệu thống kê doanh nghiệp Việt Nam từ năm
2000-2008 của Tổng cục thống kê Việt Nam, phản ảnh qua Bảng 2.1 dưới đây, theo đó, đến
cuối năm 2008 có đến DNNVV Việt Nam theo quy mô vốn là các doanh nghiệp thuộc kinh tế
tư nhân.
Bảng 1: Quy mô Doanh nghiệp Việt Nam theo lao động,
vốn phân theo thành phần kinh tế tính đến ngày 31/12/2008
Loại DN theo
thành phần
Tổng số DN
Số lượng Tỷ trọng
Tổng số DN 205.689 100% 201.580 171.232 98.00% 83.25%
DN nhà nước 3.287 1.60% 2.207 535 67.14% 16.28%
DN tư nhân 196.776 95.67% 194.916 169.092 99.05% 85.93%

DN FDI 5.626 2.74% 4.457 1.605 79.22% 28.53%
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
Trong giai đoạn 2000 – 2008, cơ cấu DNNVV tư nhân gia tăng từ 87,99% năm 2000
lên 96,65% năm 2008. Và trong thời gian tới, cơ cấu này còn tiếp tục gia tăng trong tổng cơ
cấu các DN nói chung và DNNVV nói riêng.
Tuy có quy mô nhỏ về vốn, nhưng các DNNVV có những đóng góp đánh kể cho nền
kinh tế quốc gia, đặc biệt là các DNNVV tư nhân. Cơ cấu DNNVV tư nhân liên tục chiếm tỷ
trọng lớn và không ngừng tăng trong cơ cấu các loại hình DN nói chung.
Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu các DNNVV trong giai đoạn 2000 - 2008
[11]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
Sự phát triển nhanh chóng về số lượng các DNNVV, tuy nhiên không làm thay đổi
đáng kể cơ cấu DN Việt Nam trong phạm vi tổng thể. Giai đoạn từ năm 2000 – 2006 , cơ cấu
DNNVV liên tục gia tăng từ 96,71% lên 97,06% do sự tác động của những điều kiện thuận lợi
như kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, thị trường chứng khoán trong giai đoạn này còn
hấp dẫn các nhà đầu tư, tạo ra nguồn vốn để các nhà đầu tư thành lập nên DN. Song, đến năm
2007 – 2008 nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy thoái, hoạt động kinh doanh ngày
càng trở nên khó khăn, số lượng DN mới thành lập giảm so với các năm trước, một số
DNNVV đã thành lập đứng trước nguy cơ phá sản nên tỷ lệ DNNVV trong tổng cơ cấu DN cả
nước có xu hướng giảm so với các năm trước.
Bảng 3: Cơ cấu Doanh nghiệp Việt Nam qua các năm 2000 – 2008
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
Cùng với sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng, các DNNVV cũng có sự phát triển một
bước về chất. Từ chỗ hoạt động trong một số ít phân ngành, chủ yếu như cơ khí lắp ráp nhỏ,
gốm sứ tiêu dùng, sơ chế nông sản thực phẩm…, các DNNVV ngành công nghiệp đã vươn ra
nhiều lĩnh vực khác rất đa dạng, cung cấp nhiều chủng loại sản phẩm cho thị trường trong nước
và từng bước tiến ra thị trường thế giới.
[12]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Xét về cơ cấu ngành: DNNVV tập trung vào các phân ngành dệt may, da giày, gốm sứ
tiêu dùng và mỹ nghệ, rựợu bia, cơ khí sửa chữa, lắp ráp, sản xuất nông ngư cơ, hoá chất tiêu
dùng, chế biến gỗ…Hoạt động của DNNVV ngành công nghiệp đã làm ra nhiều của cải vật
chất cho xã hội và đã tạo việc làm cho một tỷ lệ lớn lao động công nghiệp.
Xét theo vùng kinh tế: các DNNVV công ngiệp địa phương, phát triển nói chung là
không đồng đều giữa các vùng, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng (60% số lượng
DNNVV của miền bắc, xấp xỉ 29% của cả nước) và vùng Đông Nam Bộ (80% của miền Nam,
xấp xỉ 39% của cả nước).
Xét theo thành phần kinh tế: khu vực quốc doanh địa phương, với số lao động chỉ bằng
1/8 số lao động của công nghiệp ngoài quốc doanh, nhưng đã tạo ra một giá trị xấp xỉ khu vực
ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, công nghiệp quốc doanh địa phương có tốc độ tăng trưởng chậm
hơn, hoạt động kém hiệu quả hơn, có tới 60% số DN tồn tại chỉ đơn thuần là giải quyết công ăn
việc làm cho số lao động hiện có.
Xét theo ngành kinh tế - kỹ thuật: tỷ trọng các DNNVV trong một số phân ngành sản
xuất khá lớn, ví dụ trong công nghiệp chế biến: 86%, trong phân phối diện, khí đốt và nước:
khoảng 62%, trong công nghiệp khai thác mỏ: khoảng 84%; trong sửa chữa lắp ráp cơ khí nhỏ,
xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng: 93% , sản xúât vật liệu xây dựng: khoảng 20%, sản
xuất các sản phẩm tiêu dùng truyền thống: 15%, các sản phẩm khác khoảng 10%
Một điểm đặc thù trong lĩnh vực này là sự hình thành và phát triển các khu - cụm -
điểm công nghiệp địa phương Khác với khu công nghiệp tập trung quốc gia, khu - cụm - điểm
công nghiệp địa phương có phạm vi nhỏ, cơ sở hạ tầng không đòi hỏi cao, phục vụ trực tiếp
cho các DNNVV, được hình thành chủ yếu để bổ sung những mảng quy hoạch mà KCN tập
trung cấp quốc gia chưa bao quát được.
2.1.2.1. Quy mô vốn và cách tiếp cận nguồn vốn của các DNNVV
Trong hoạt động sản xuất, vốn được xem là nền tảng cơ bản nhất. Vốn trong DN được
thể hiện được dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên - nhiên vật liệu và các tài sản vô
hình khác. Với các DNNVV, nguồn vốn đóng vai trò khá quan trong. Do xuất phát điểm của
các DNNVV thấp, lại khó tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức nên nguồn vốn chủ yếu
của các DNNVV được huy động chủ yếu từ các nguồn sau:
- Huy động nguồn vốn tự có: Nguồn vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc khởi

nghiệp kinh doanh, trong đó, quan trọng nhất là nguồn tiền mặt, tiền gửi tiết kiệm…
- Huy động vốn ứng trước: loại nguôn vốn này được chủ DN có thể đề nghị khách hàng
nào đó ứng trước vốn rồi sau đó có trách nhiệm cung cấp sản phẩm cho khách hàng.
- Tìm kiếm nguồn vốn của bạn bè và gia đình: huy động nguồn vốn ứng trước như thế
nào thì hầu hết các DN đều vẫn cần huy động thên nguồn tiền mặt, nguồn huy động tốt nhất và
dễ dàng nhất là bạn bè và gia đình. Lãi suất và điều kiện vay đối với nguồn vốn này cũng dễ
chịu hơn nhiều so với vay ngân hàng .
- Tìm kiếm các nhà cung cấp: các nhà cung cấp thường tạo thêm điều kiện thuận lợi cho
chủ DN dưới dạng cho vay với lãi suất rất thấp.
Thực tế cho thấy, 80% DNNVV Việt Nam vay vốn từ các tổ chức phi tài chính, hoặc từ
gia đình/ bạn bè, chỉ 20% DN có thể vay vốn từ các ngân hàng. Đôi khi, DNNVV còn phải trả
[13]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
cho việc nóng vay lãi suất cao hơn từ 3 – 6 lần so với lãi suất vay vốn ngân hàng. Trên cơ sở
đó, nguồn vốn theo quy mô mỗi DN hiện đang có xu hướng tăng dần theo theo thời gian.
Trên cơ sở đó, nguồn vốn theo quy mô mỗi DN theo kết quả điều tra của Tổng cục
thống kê năm 2009 cho thấy, quy mô nguồn vốn của mỗi DN hiện đang có xu hướng tăng dần
theo thời gian. Số DN có nguồn vốn dưới 500 triệu đồng giảm dần qua các năm từ 38,47%
xuống còn 10,67% vào năm 2008. Ngược lại, về phương diện nguồn vốn, số DNNVV có số
lượng DN gia tăng mạnh nhất là những DN có quy mô từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ, chiếm từ 25,44%
lên 46,61% trong giai đoạn 2000-2008. Điều này cho thấy, quy mô nguồn vốn mỗi DN đang có
xu hướng gia tăng theo thời gian.
Bảng 4: Cơ cấu DNNVV theo quy mô nguồn vốn DN từ năm 2000-2008
Đơn vị tính: doanh nghiệp
Năm Tổng
DN
Chia theo qui mô nguồn vốn
Dưới 0.5 tỷ Từ 0.5 tỷ đến
dưới 1 tỷ
Từ 1 tỷ đến

dưới
5 tỷ
Từ 5 tỷ đến
dưới
10 tỷ
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
2000 42.288 16.267 38.47 6.534 15.45 10.759 25.44 2.745 6.49
2001 51.680 18.326 35.46 8.403 16.26 14.556 28.17 3.385 6.55
2002 62.908 18.591 29.55 10.994 17.48 20.141 32.02 4.490 7.14
2003 72.012 18.790 26.09 12.954 17.99 24.737 34.35 5.496 7.63
2004 91.756 23.187 25.27 16.191 17.65 32.739 35.68 7.303 7.96
2005 112.950 26.687 23.63 20.434 18.09 41.856 37.06 9.255 8.19
2006
131.31
8

15.908 12.11 21.809 16.61 64.137 48.84 12.487 9.51
2007 155.771 18.646 11.97 23.630 15.17 72.342 46.44 17.269 11.09
2008 205.689 21.957 10.67 27.233 13.24 95.873 46.61 26.169 12.72
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
2.1.2.2. Trình độ tay nghề và chính sách đối với lao động
Số lượng DN từ năm 2000 đến nay liên tục có sự gia tăng, quy mô nguồn vốn của từng
DNNVV cũng có sự gia tăng tương ứng nhưng theo đó là quy mô về lao động có xu hướng
ngày càng nhỏ. Thực trạng DN nước ta thuộc loại nhỏ, song càng phát triển thì quy mô càng
nhỏ hơn. Các DN siêu nhỏ chiếm tỷ lệ lớn và ngày càng gia tăng, các DN vừa và lớn chiếm tỷ
lệ nhỏ.
Theo quy mô lao động, đến cuối năm 2008:
- Số DN dưới 10 lao động chiếm 55,87%.
- Các DN có từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm 33,89%.
- Các DN có từ 50 đến dưới 200 lao động chiếm 7,19%.
- Các DN có từ 200 đến dưới 300 lao động chiếm 1,04%.
Bảng 5: Cơ cấu DNNVV theo quy mô lao động từ năm 2000 – 2008
Đơn vị tính: doanh nghiệp
[14]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Năm
Tổng
DN
Chia theo qui mô lao động
Dưới 10 người
Từ 10 - 49
người
Từ 50 - 199
người
Từ 200 - 299
người

Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
2000 42.288 21.069 49.82 12.071 28.54 5.633 13.32 1.124 2.66
2001 51.680 25.828 49.98 15.737 30.45 6.304 12.20 1.193 2.31
2002 62.908 30.218 48.04 20.718 32.93 7.541 11.99 1.354 2.15
2003 72.012 33.529 46.56 25.220 35.02 8.531 11.85 1.407 1.95
2004 91.756 44.436 48.43 32.443 35.36 9.808 10.69 1.535 1.67
2005 112.950 57.820 51.19 38.957 34.49 10.933 9.68 1.626 1.44
2006
131.31
8
74.814 56.97 39.365 29.98 11.677 8.89 1.737 1.32
2007 155.771 85.897 55.14 50.588 32.48 13.333 8.56 1.962 1.26
2008 205.689
114.92
8

55.87 69.712 33.89 14.795 7.19 2.145 1.04
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
So sánh tương quan khả năng giải quyết lao động của hai đối tượng DN: DNNVV và
DN lớn trong nền kinh tế. Đối với DNNVV, quy mô lao động mỗi DN có xu hướng ngày càng
nhỏ lại. Năm 2000, bình quân mỗi DN có thể giải quyết được 45 lao động, thì đến năm 2008,
số lao động bình quân mỗi DN chỉ còn khoảng 20 người. Trong khi đó, quy mô lao động đối
với các DN lớn lại liên tục có sự gia tăng. Từ 1024 lao động/DN năm 2000, tăng lên 1435 lao
động/DN năm 2008.
Bảng 6: Quy mô lao động mỗi DN
Năm
Số lao động bình quân/doanh nghiệp (lao
động)
DNNVV DN Lớn
2000 45 1.024
2001 40 1.047
2002 39 1.059
2003 38 1.101
2004 33 1.178
2005 29 1.226
2006 27 1.253
2007 25 1.300
2008 20 1.435
Nguồn: Tính toán từ Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 – TCTK
Sự tăng trưởng nhanh chóng của các DNNVV trong những năm gần đây là một trong
những nhân tố góp phần vào sức tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế. DNNVV có khả
năng thích ứng được với sự thay đổi của thị trường và công nghệ nên đã thu hút và tạo việc
làm cho một lượng lớn lao động, nhất là lao động khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, sự phát triển của các DNNVV thường không ổn định và dễ bị tác động, một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng này là nguồn lao động tại các DNNVV hiện đang
rất thiếu và yếu. Trong tổng số lao động hiện đang làm việc tại DNNVV chỉ có khoảng 25%

lao động được qua đào tạo và 18% nguồn lao động có chất lượng rất thấp. Khả năng hợp tác
[15]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
cũng như kỹ năng làm việc theo tổ nhóm của lao động trong các DNNVV còn hạn chế. Thậm
chí trình độ học vấn của đội ngũ chủ DNNVV cũng không cao. Theo kết quả điều tra của Bộ
Kế hoạch – Đầu tư, phần lớn cho thấy các DNNVV ngoài quốc doanh có 55,6% chủ DN có
trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó có 43,3% trình độ sơ cấp và phổ thông. Đặc
biệt, rất ít chủ DN tư nhân được đào tạo bài bản những kiến thức về quản trị kinh doanh, phần
lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm và kiến thức tự học.
Các DNNVV hiện nay không chỉ thiếu lao động và lao động chưa đáp ứng được yêu
cầu mà các DN cũng rất thụ động trong công tác đào tạo nghề. Hầu hết các DN chỉ hứng phần
ngọn, tuyển dụng những lao động đã được đào tạo nhưng mỗi DN có công nghệ khác nhau, sản
xuất những loại sản phẩm khác nhau nên lao động đã qua đào tạo chưa chắc đã đáp ứng được
nhu cầu của công việc.
Đối với những lao động làm việc trong các DNNVV, do những điều kiện khách quan
về hạn chế đối với nguồn vốn và quy mô, hầu hết các DNNVV không đủ khả năng cạnh tranh
với các DN lớn trong việc thuê những lao động có tay nghề cao. Bên cạnh đó, định kiến của
người lao động và những người thân của họ về khu vực này vẫn còn khá lớn. Ngoài ra, những
người lao động không được đào tạo để nâng cao tay nghề trong quá trình hoạt động.
Khả năng thích ứng và hợp tác làm việc theo nhóm của người lao động trong các
DNNVV là rất thấp. Kể cả trong số người lao động lành nghề và những người quản lý của
DNNVV phần lớn đều thiếu khả năng giao tiếp quốc tế do hạn chế về ngoại ngữ. Thực tế đó
làm họ gặp nhiều khó khăn trong hợp tác kinh doanh với đối tác nước ngoài để mở rộng sản
xuất kinh doanh.
* Các bất cập xảy ra khi thực hiện chính sách với người lao động
Chính sách tiền lương chưa đảm bảo hợp lý với một số ngành và khu vực, đặc biệt với
khu vực DN ngoài quốc doanh lương bình quân chỉ bằng 56,6% khu vực DN nhà nước, bằng
68,4% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh một số ngành nghề có lương cao thì lại có
một số ngành lương bình quân quá thấp như: Nuôi trồng thủy sản 1,1 triệu đồng, lâm nghiệp
1,374 triệu đồng, dệt may 1,43 triệu đồng, da giầy 1,38 triệu đồng, hoạt động tái chế 0,98 triệu

đồng,… Chính do quản lý chế độ tiền lương chưa đảm bảo công bằng là nguyên nhân chính
của những vụ biểu tình, đình công xảy ra nhiều hơn ở các khu vực công nghiệp tập trung trong
những năm gần đây.
Thực hiện đóng bảo hiểm cho người lao động có bước tiến bộ đáng kể, song vẫn còn
một tỷ lệ khá lớn các chủ DN chưa thực hiện đóng bảo hiểm cho người lao động, mặc dù nghĩa
vụ đó đã được luật quy định.
2.1.2.3. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử
Nguồn vốn có quy mô thấp, trình độ kỹ năng, quản lý yếu là hai đặc trưng lớn của
DNNVV. Bên cạnh đó, khả năng về công nghệ thấp, lạc hậu cũng là hậu quả của việc không
đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai. Nhiều khi các DN có những sáng kiến công nghệ tiên
tiến nhưng không đủ tài chính cho việc triển khai, nên không thể hình thành công nghệ mới
hoặc bị các DN lớn mua với giá rẻ. Đồng thời, các chủ DN thường là những kỹ sư hoặc kỹ
thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý DN, vừa
tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao.
[16]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Trong những năm gần đây, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và sản xuất kinh
doanh và quản lý của các DNNVV tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ khả quan. Tốc độ ứng
dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam hiện nay được xác định là trong giai đoạn đầu của quá
trình xây dựng hạ tầng cơ bản. Do đó, mặc dù có những tiến bộ, những một thực trạng là các
DNNVV chưa ứng dụng CNTT hoặc đã triển khai nhưng chưa có hiệu quả, có rất nhiều
nguyên nhân gây ra nhưng phần lớn đều gặp phải những vấn đề như:
Thứ nhất, nhận thức – nhân lực và khả năng cung ứng các sản phẩm và dịch vụ CNTT
tốt cho DNNVV còn hạn chế, dẫn đến tình trạng đầu tư chưa đúng hướng hoặc còn hạn chế -
phần lớn chi phí dành cho trang thiết bị, cơ sở hạ tầng chứ chưa chú trọng đến giải pháp hệ
thống, đào tạo vận hành, khai thác.
Thứ hai, nguồn nhân lực, không phải giám đốc DNNVV nào cũng có trình độ về CNTT
và quan tâm đúng mức đến CNTT. Thực tế khá rõ là sở thích của giám đốc ảnh hướng rất lớn
đến DNNVV. Chỉ khi nào giám đốc điều hành công việc bằng CNTT thì lúc đó tự khắc các
thành viên trong DN sẽ làm việc bằng công nghệ thông tin. Tuy nhiên cũng phải xét đến điều

kiện cụ thể của DNNVV, nhiều đơn vị chưa có máy fax, giám đốc phải lo từng ngày để trả
lương đúng hạn cho nhân viên thì cũng khó nói tới việc ứng dụng CNTT.
Thứ ba, khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ CNTT tốt cho DNVV còn hạn chế.
Rất dễ tìm phần mềm kế toán nhưng khó tìm được những sản phẩm đặc thù như thiết kế cho
ngành may, ngành cầu đường… Chưa kể đến chất lượng sản phẩm không tốt, giá lại cao so với
khả năng của DNNVV. Theo một nghiên cứu về thị trường dịch vụ, hơn 70% DN ở Việt Nam
(trông đó có cả DNNVV) không thỏa mãn với các dịch vụ được cung cấp.
Ngoài ra phải kể đến một nguyên nhân khác là môi trường pháp lý cho ứng dụng CNTT
và TMĐT ở nước ta còn chưa hoàn thiện, đã có Luật song chưa có văn bản dưới luật cụ thể.
Nếu như quá trình ứng dụng CNTT vẫn tiếp tục trì trệ và đặc biệt cụ thể là sau chương trình
112, người dân và các DN vẫn chưa thấy được hiệu quả của CNTT, tham gia TMĐT, các
DNNVV cần xây dựng và duy trì cho trang thiết bị công nghệ hoạt động một cách hấp dẫn, có
hiệu quả. Công nghệ cần được tổ chức xây dựng, vận hành, khai thác như là một đơn vị của
DN, nghĩ là có biên chế, có mặt bằng để hoạt động. Hơn thế nữa nó lại là bộ phận có thể hoạt
động không phụ thuộc vào không gian, thời gian.Việc sử dụng công nghệ cần luôn luôn gắn
chặt với hoạt động thực hiện mục tiêu của DN. Các chủ DN cần chỉ đạo trực tiếp các chương
trình kế hoạc ứng dụng CNTT, TMĐT của cơ sở mình. Điều cốt yếu là xây dựng cơ sở tri thức
– các CSDL có định hướng của chủ DN. Các DN nên hợp nhau lại hoặc hợp tác với những đối
tác giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực CNTT, TMĐT để giảm thiểu những rủi ro, bất trắc. Về
phía Nhà nước, để việc hỗ trợ các DNNVV thực sự có hiệu quả, cần sớm hoàn thiện, đồng bộ
hóa các văn bản dưới luật liên quan đến CNTT, viễn thông, TMĐT và gưỡng mẫu đi đầu thực
hiện, minh bạch hóa các nội dung thông tin quản lý DN.
2.1.2.4. Khả năng tiếp cận thị trường
Khả năng tiếp cận thị trường của các DNNVV nhiều hạn chế, đặc biệt đối với thị
trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV thường là những DN mới hình
thành, khả năng tài chính cho các hoạt động marketing không có và họ cũng chưa có nhiều
khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các DN này thường bó hẹp
trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất khó khăn.
[17]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Ngoài ra, các DNNVV phải đối mặt với những vấn đề về nguồn nhân lực (vấn đề đào
tạo và đào tạo lại), công nghệ (do vốn đầu tư và nghiên cứu hạn chế), thị trường sản phẩm (khả
năng cạnh tranh thấp),…
Do vai trò quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế và những hạn chế trong quá
trình phát triển của khu vực này, nên các DNNVV cần được hỗ trợ và khuyến khích phát triển
nhằm phát huy những vai trò quan trọng và tích cực của chúng trong nền kinh tế. Việc hỗ trợ
sẽ giảm bớt những thiệt thòi và khó khăn do quy mô của DN tạo ra.
Qua phần phân tích thực trạng trên, điều ta có thể nhận thấy rõ nhất là số lượng DN liên
tục được thành lập, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Theo đó, vai
trò của các DNNVV cũng dần được thể hiện qua các chỉ số vê quy mô nguồn vốn, khả năng
giải quyết lao động, khả năng phát triển hàng hóa trên tất cả các ngành nghề, địa phương, góp
phần chuyên môn hóa lao động trên toàn địa bàn cả nước Tuy nhiên, bên cạnh đó, với những
đặc điểm của nền kinh tế xuất phát điểm còn yếu vê nguồn vốn, kỹ năng lao động, dã dẫn
đến những tự phát trong hình thành, tạo thành những doanh nghiệp thiếu liên kết, thiếu vững
chắc và dễ bị chi phối bởi những biến động vĩ mô trên thị trường. Trong khi đó, các chủ
DNNVV cũng xuất phát điểm từ nhiều nguồn khác nhau nên việc quản trị DN chưa đồng nhất,
nhất quán, chủ yếu quản lý DN theo kiểu quản trị gia đình Tất cả những điểm trên đã phần
nào ảnh hưởng đến khả năng liên kết bảo vệ lẫn nhau trên thị trường, đặc biệt là thị trường hội
nhập, khả năng mở rộng quy mô hoạt động,
Để có thể giải quyết khó khăn tồn tại này của DNNVV, trong thực tế, nhà nước cũng đã
có những chính sách, chỉ đạo thành lập các trung tâm hỗ trọ DNNVV, thành lập các mô hình
và yêu cầu các ngân hàng, các tổ chức tài chính cần có những hỗ trợ tích cực cho DNNVV
trong quá trình hoạt động của mình. Cụ thể, những mô hình, những chính sách đó sẽ được giới
thiệu ở phần tiếp theo.
2.1.3. Các chính sách hỗ trợ DNNVV của Việt Nam
2.1.3.1. Trợ giúp tài chính
Theo Nghị định số 56/2009/NĐ–CP, Nhà nước khuyến khích thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng DNNVV với những cơ chế khuyến khích cụ thể như dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật để
tăng cường năng lực cho các tổ chức tài chính phù hợp mở rộng tín dụng cho các DNNVV; đa
dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tư vấn

tài chính. Quản lý đầu tư các dịch vụ hỗ trợ khác cho khách hàng là đối tượng DNNVV. Trợ
giúp tài chính còn được thực hiện thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo. Nhà nước hỗ
trợ các DNNVV nâng cao năng lực lập dự án, phương án kinh doanh nhằm đáp ứng các yêu
cầu của tổ chức tín dụng (TCTD) khi thẩm định hồ sơ vay vốn của DNNVV.
Gần đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã nhận ủy thác cho vay nhiều nguồn vốn khác
nhau từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), Quỹ
Phát triển các DNNVV do Ủy ban Châu Âu tài trợ, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Công
ty Tài chính Quốc tế (IFC) Nguồn vốn cho vay ủy thác có mức cho vay khá cao, thời gian
cho vay dài và ít đòi hỏi về tài sản đảm bảo. Các hỗ trợ khác của chương trình này cũng rất
đáng được quan tâm như đào tạo quản trị DN, tư vấn lập phương án kinh doanh, cung cấp
thông tin kinh tế
[18]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Tuy vậy, trên thực tế, việc tiếp cận các nguồn vốn nói trên của các DNNVV vẫn chưa
dễ dàng. Chẳng hạn, điều kiện tiên quyết là phải có dự án rất khả thi, là điều mà chỉ có một số
ít các DNNVV có thể đạt được. Bên cạnh đó, chỉ có một số ít lĩnh vực được xem xét tài trợ,
với những điều kiện rất khắt khe như điều kiện công nghệ, xử lý môi trường, khả năng thu hút
lao động
Đối với lĩnh vực cho vay trung dài hạn, các ngân hàng thương mại thường đưa ra
những điều kiện về tài sản thế chấp chặt chẽ trong khi các DNNVV ít khi có đủ tài sản đáp ứng
các nhu cầu như thế. Để phần nào giải quyết vấn đề trên, gần đây, vào thánh 3-2010, Ban Quản
lý các dự án tín dụng quốc tế về viện trợ phát triển (ODA), Ngân hàng Nhà nước cùng 17 ngân
hàng thương mại đã ký thoả thuận khung về tài trợ DNNVV giai đoạn 3 (SMEFP 3) với tổng
số tín dụng là 15 tỷ yên (khoảng 170 triệu USD). Dự án SMEFP do chính phủ Nhật Bản tài trợ
thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), đã bắt đầu triển khai từ năm 2003 và
đã thực hiện qua 2 giai đoạn. Trong 3 giai đoạn, các ngân hàng tham gia đã tăng từ 9 lên 17
ngân hàng. Mục tiêu của dự án SMEFP là tạo điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trung dài hạn
và tăng cường năng lực tài chính cho các DNNVV.
2.1.3.2. Thành lập Quỹ phát triển DNNVV
Mục đích hoạt động: tài trợ các chương trình giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho

DNNVV, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và
thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; phát
triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị DN. Nguồn vốn của Quỹ phát triển
DNNVV bao gồm vốn cấp từ Ngân sách nhà nước; vốn đóng góp của các tổ chức trong nước;
các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các tổ chức quốc tế; lợi nhuận từ các
hoạt động của quỹ và các nguồn vồn hợp pháp khác.
Các hoạt động chính của Quỹ phát triển DNNVV bao gồm:
- Tiếp nhận, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính trong và ngoài nước để thực hiện
các hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV theo quy định của pháp luật.
- Tài trợ kinh phí cho các chương trình, các dự án giúp nâng cao năng lực cạnh tranh,
năng lực kỹ thuật, công nghệ, năng lực quản trị DN cho các DNNVV do các Bộ, ngành, địa
phương, hiệp hội DN triển khai thực hiện sau khi được cấp thẩm quyền phê duyệt.
- Ủy thác cho các TCTD cho vay ưu đãi các DNNVV có dự án đầu tư khả thi thuộc lĩnh
vựt ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước và phù hợp với mục đích hoạt động của Quỹ.
2.1.3.3. Hỗ trợ mặt bằng sản xuất
Trên cở sở công khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạc sử
dụng đất trên địa bàn tỉnh, thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dành quỹ đất và thực hiện các biện pháp khuyến
khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các DNNVV thuê làm mặt bằng sản xuất, kinh
doanh hoặc di dời ra khỏi nội thành, nội thị để đảm bảo cảnh quan môi trường.
2.1.3.4. Trợ giúp về đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật
Thông qua các chương trình trợ giúp, Chính phủ thực hiện chính sách trợ giúp phù hợp
với chiến lược và lĩnh vực ưu tiên phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn như sau:
[19]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
- Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị kỹ thuật theo chiến lược phát
triển và mở rộng sản xuất của các DNNVV đối với các sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ.
- Nâng cao năng lực công nghệ của các DNNVV thông qua chương trình hỗ trợ nghiên
cứu, phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm mới, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến

bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Giới thiệu, cung cấp thông tin về công nghệ, thiết bị cho các DNNVV, hỗ trợ đánh giá,
lựa chọn công nghệ.
2.1.3.5. Trợ giúp trong xúc tiến mở rộng thị trường
Hàng năm, các Bộ, ngành và địa phương xây dựng kế hoạch và bố trí kinh phí thực
hiện các hoạt động xúc tiến mở rộng thị trường cho DNNVV.
Cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại quốc gia hàng năm dành một phần
ngân sách xúc tiến thương mại quốc gia cho DNNVV, và thông báo kết quả thực hiện cho cơ
quan quản lý nhà nước về trợ giúp phát triển DNNVV quy định tại Điều 15 Nghị định số
56/2009/NĐ–CP.
2.1.3.6. Trợ giúp về thông tin và tư vấn
Nghị định số 56/2009/NĐ–CP quy định Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thông qua cổng thông tin điện tử cung cấp thông tin về
các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN, các chính sách, chương trình trợ giúp phát
triển DNNVV và các thông tin khác hỗ trợ hoạt động kinh doanh của DN.
2.1.3.7. Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực
Nghị định số 56/2009/NĐ–CP giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trị, phối hợp với
các cơ quan liên quan hướng dẫn xây dựng kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các
DNNVV, chủ yếu tập trung vào quản trị DN. Kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho
các DNNVV của các Bộ, ngành và địa phương sẽ được lồng ghéo vào kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội hàng năm, năm năm của Bộ, ngành và địa phương.
Cục Phát triển DNNVV thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được gia nhiệm vụ thực hiện
chương trình đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNNVV trong giai đoạn 2004 – 2008 với
tổng kinh phí lên đến 119 tỷ đồng. Mục tiêu của Chương trình là thúc đẩy tạo điều kiện để các
DNNVV tăng khả năng cạnh tranh và phát triển cả về số lượng và chất lượng hệ thống các nhà
cung cấp dịch vụ hôc trợ/ phát triển kinh doanh. Riêng mục tiêu ngắn hạn là cung cấp những
kiến thức cần thiết về thành lập DN cho doanh nhân và nững người có ý định thành lập doanh
nghiệp; khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng quản trị doanh nghiệp; trợ giúp
DNNVV xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu,…
Đối tượng chính của chương trình là chủ và nhà quản lý của các DNNVV, các giảng

viên, các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh.
Nội dung đào tạo bao gồm cung cấp những thông tin cần thiết về pháp luật, chính sách
của Đảng và Nhà nước, những quy định về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp; những
kiến thức và kỹ năng lập chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh… Phần này gồm các
khóa đào tạo ngắn hạn năm ngày. Phần nội dung đào tạo chính là đào tạo về quản trị, bao gồm
các khóa đào tạo ngắn hạn bảy ngày nhằm nâng cao năng lực cho DNNVV, trong việc lập kế
hoạch và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các khóa đào tạo về quản lý kinh
[20]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
doanh tổng hợp; tăng cường năng lực quản lý nhân sự cho các DNNVV thông qua các khóa
đào tạo về quản trị nhân sự, tăng cường năng lực tiếp thị cho các DNNVV thông qua các khóa
đào tạo quản trị về marketing; trợ giúp cho các DNNVV trong việc lập kế hoạch tiếp thị thông
qua tư vấn lập kế hoạch marketing; tăng cường năng lực quản lý tài chính kế toán cho DNNVV
thông qua các khóa đào tạo về quản trị tài chính – kế toán.
Trên thực tế, nhu cầu đào tạo của các DNNVV rất lớn. Tuy nhiên, do kinh phí, cơ sở
vật chất, kinh nghiệm và khả năng tổ chức còn có hạn, nên Chương trình này dự kiến thực hiện
trong giai đoạn 05 năm (2004 – 2008) để rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
2.1.3.8. Vườn ươm doanh nghiệp
Nhà nước khuyến khích thành lập vườn ươm DN để thực hiễn hỗ trợ có thời hạn DN
trong giai đoạn khởi sự theo quy trình và có hệ thống thông qua việc cung cấp cho các DN
được ươm tạo không gian, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, các nguồn lực cần thiết nhắm giúp
các DN hiện thực hóa, thương mại hóa các ý tưởng kinh doanh và công nghệ.
2.1.4. Quản lý nhà nước về trợ giúp phát triển DNNVV
- Về phía nhà nước, nhận thức được vai trò, vị trí và tầm quan trọng của DNNVV nên
gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp đúng đắn hỗ trợ các DNNVV nhằm phát
huy tiềm năng to lớn của khu vực doanh nghiệp này.
Chính phủ đã có 06 biện pháp hỗ trợ các DNNVV, quy định cụ thể tại Nghị quyết số
22/NQ-CP của Chính phủ. Trong số 6 biện pháp lớn được Chính phủ đưa ra, đáng chú ý là
biện pháp tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực hỗ trợ
tài chính cho các DNNVV cùng với việc tháo gỡ khó khăn về mặt bằng sản xuất và đẩy mạnh

thực hiện một số giải pháp cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DNNVV. Theo đó,
Chính phủ đã chỉ đạo NHNN chủ trì việc tiếp tục thực hiện các biện pháp điều chỉnh chính
sách tiền tệ để kiểm soát hoạt động tín dụng theo hướng tập trung phục vụ các nhu cầu vốn đối
với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, DNNVV.
Lần lượt trong các quý 3, 4/2010, Chính phủ yêu cầu NHNN đề xuất các giải pháp thúc
đẩy phát triển các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV như bao thanh toán, cho thuê tài
chính ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng Đề án thành lập Quỹ phát triển DNNVV,
trình Thủ tướng.
- Ngày 21/12/2010, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 64/NQ-CP về việc đơn giản hóa thủ
tục thuộc thẩm quyền giải quyết của Ngân hàng Chính sách xã hội. Theo đó, Chính phủ chủ
trương giao Ngân hàng Chính sách xã hội, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan, trước
ngày 31/3/2011 phải tiến hành đơn giản hóa các thủ tục theo hướng thuận tiện nhất cho doanh
nghiệp, đặc biệt là các DNNVV.
- Ngày 07/9/2012 Chính phủ ban hành Quyết định 1231/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch
phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011 – 2015.
Theo quyết định nói trên, mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2011-2015 là: Số DNNVV thành
lập mới đạt 350.000 doanh nghiệp; đến thời điểm ngày 31/12/2015, cả nước có 600.000 doanh
nghiệp hoạt động. Trong giai đoạn 2011-2015, phấn đấu tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu
vực DNNVV chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc; đầu tư của khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa
[21]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
đóng góp khoảng 40% GDP; 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo
thêm khoảng 3,5-4 triệu chỗ làm việc mới.
Để triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015, có 8 nhóm giải
pháp được đưa ra, gồm:
+ Nhóm giải pháp thứ nhất là hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút
lui khỏi thị trường của doanh nghiệp.
+ Nhóm giải pháp thứ hai là hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

+ Nhóm giải pháp thứ ba là hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới
trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Nhóm giải pháp thứ tư là phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị cho các doanh nghiệp này.
+ Nhóm giải pháp thứ năm là đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công
nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Nhóm giải pháp thứ sáu là cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và
xúc tiến mở rộng thị trường cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Nhóm giải pháp thứ bảy là xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
+ Nhóm giải pháp thứ tám là quản lý thực hiện Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa, trong đó tập trung ưu tiên vào những giải pháp cụ thể như thành lập Quỹ hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh các chương trình đổi mới ứng dụng công nghệ, chú trọng phát
triển công nghệ cao nhằm tạo ra các sản phẩm mới, trang thiết bị, máy móc hiện đại
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, theo thống kê của Sở Kế hoạch - Đầu tư TP.HCM,
hiện TP có khoảng 184.000 DN đăng ký thành lập, trong đó số DNNVV chiếm khoảng 96%.
Bên cạnh các chính sách giảm, giãn, miễn thuế cho DN, TP.HCM đã triển khai nhiều chương
trình riêng để hỗ trợ DNNVV. Cụ thể, để khuyến khích, hỗ trợ các DN trong nước đầu tư vào
các ngành nghề ưu tiên phát triển là y tế, giáo dục - đào tạo, sản xuất ứng dụng công nghệ cao,
hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia chương trình xã hội hóa các dịch vụ công, UBND TP
cũng đã triển khai chương trình kích cầu thông qua đầu tư nhằm hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ
lãi vay vốn để các chủ đầu tư thực hiện dự án.
Cụ thể là thành phố sẽ hỗ trợ 50% - 100% lãi vay cho dự án của DN tùy theo lĩnh vực
đầu tư. Dự kiến sẽ bù lãi vay cho tổng số vốn vay là 8.000 tỷ đồng, tối đa 100 tỷ đồng/dự án và
thời gian bù lãi vay không quá 7 năm. Với chương trình kích cầu thiết thực này, TP đã thực
hiện hỗ trợ lãi vay cho 137 dự án với tổng số vốn đầu tư 12.379 tỷ đồng. Số vốn được bù lãi
vay là 5.995 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, nhằm đẩy mạnh hợp tác cùng phát triển và cùng chịu rủi ro trong việc trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn, tạo điều kiện cho các DN tiếp cận vốn
tín dụng để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, TP.HCM đã đẩy mạnh hoạt động của

Quỹ Bảo lãnh tín dụng TP như: Xúc tiến, phối hợp với các sở ngành, các hiệp hội/câu lạc bộ
ngành nghề và các ngân hàng thương mại cùng gặp gỡ, trao đổi về điều kiện, thủ tục bảo lãnh
tín dụng, các chương trình hỗ trợ của Chính phủ, của TP.HCM cho các DN vay, hướng dẫn hồ
sơ vay vốn…
[22]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Năm 2006, UBND TP.HCM đã cấp ngân sách 41,83 tỷ đồng (chiếm 90,68% vốn điều
lệ), cùng với vốn góp của 6 tổ chức tín dụng là 4,3 tỷ đồng để cùng cho ra đời Quỹ Bảo lãnh
tín dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, đổi mới
công nghệ, thiết bị.
Đến năm 2009, trước tình hình khó khăn, khủng hoảng, UBND TP tiếp tục cấp vốn bổ
sung 148 tỷ đồng để tăng vốn điều lệ của quỹ này lên thành 194 tỷ đồng (vốn ngân sách chiếm
97,79% vốn điều lệ của quỹ). Hoạt động của quỹ cũng bắt đầu được mở rộng, số dư bảo lãnh
tính đến đầu năm nay khoảng 350 tỷ đồng, với số dư bảo lãnh này giúp các DN tiếp cận được
vốn vay tại 17 chi nhánh ngân hàng với tổng hạn mức tín dụng gần 500 tỷ đồng.
Đến nay, số DN còn đang được bảo lãnh tại quỹ đã trên 30 DN. Tuy nhiên, với con số
rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu vay vốn trong tổng số hơn 170.000 doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP mà chỉ hơn 30 DN được bảo lãnh vay vốn là còn quá ít.
Do vậy, hiện nay Quỹ Bảo lãnh tín dụng tập trung tư vấn miễn phí cho các DN theo
hướng trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công tác lập dự án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh, tư vấn tài chính kế toán giúp DN lành mạnh tình hình tài chính để có thể
đáp ứng hồ sơ vay vốn cho ngân hàng.
2.1.4.1. Cục Phát triển DN
Cục Phát triển DN thuộc Bộ KH&ĐT giúp Bộ trưởng Bộ KH&ĐT thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về phát triển DNNVV theo quy đinh các nội dung sau:
- Xây dựng hoặc tham gia xây dựng các chính sách, các văn bản quy phạm phát luật về
phát triển DNNVV trình cấp có thẩm quyền ban hành; tổng kết kế hoạch, chương trình trợ
giúp, định hướng mục tiêu trợ giúp, xác định tiêu chí, lĩnh vực giúp DNNVV.
- Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác trợ giúp DNNVV,
bồi dưỡng kỹ năng trợ giúp phát triển DNNVV, hướng dẫn xây dựng và nâng cao năng lực cho

hệ thống trợ giúp phát triển DNNVV.
- Làm đầu mối hợp tác quốc tế về phát triển DNNVV, kêu goi nguồn lực từ bên ngoài để
trợ giúp DNNVV.
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để cung cấp thông tin cần thiết cho
DNNVV. Xây dựng báo cáo thường niên về DNNVV. Tổng hợp báo cáo về tình hình phát
triển DNNVV và các vấn đề giải quyết để Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tưởng
Chính phủ xem xét, xử lý. Tổ chức thực hiện thí điểm một số mô hình, chương trình, dự án trợ
giúp phát triển DNNVV.
2.1.4.2. Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng chính
phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển DNNVV.
2.1.4.3. Trung tâm xúc tiến phát triển DNNVV
Bộ Kế hoạch và đầu tư thành lập trung tâm xúc tiến phát triển DNNVV để triển khai
thực hiện một số chính sách, chương trình trợ giúp, là đầu mối tư vấn và thực hiện thí điểm mô
hình trợ giúpkỹ thuật cho các DNNVV.
2.1.4.4. Cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp phát triển DNNVV địa phương
[23]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ trợ giúp phát
triển DNNVV trên địa bàn, cụ thể như sau:
- Định hướng công tác phát triển DNNVV, xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn
bản hướng dẫn thực hiện các quy định của nhà nước về trợ giúp phát triển DNNVV ở địa
phương. Tổng hợp xây dựng các chương trình trợ giúp DNNVV, điều phối hướng dẫn và kiểm
tra thực hiện các chương trình trợ giúp sau khi được duyệt.
- Tổ chức đối thoại giữa chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhằm trao đổi thông
tin, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các DNNVV; tuyên dương,
khen thưởng các nghệ nhân, doanh nhân có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, sáng tạo
trong thiết kế và truyền dạy nghề.
- Hằng năm báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình trợ giúp phát triển DNNVV và
các vấn đề cần giải quyết để tổng hợp xây dựng báo cáo thường niên về DNNVV.

- Phối hợp với các bộ, ngành và các tổ chức liên quan thực hiện trợ giúp phát triển
DNNVV ở địa phương theo quy định hiện hành.
2.1.4.5. Quỹ bảo lãnh tín dụng
Trong quan hệ tín dụng với các DNNVV, dù không thể hiện trực tiếp trên các chính
sách tín dụng nhưng yêu cầu về tài sản đảm bảo, bảo lãnh cho món vay đã trở thành điều kiện
phổ biến. Món vay có đảm bảo sẽ góp phần hạn chế rủi ro đối với người cho vay nhưng đối với
các DNNVV thì nó là một khó khăn, rào cản thật sự. Để góp phần hỗ trợ các DNNVV có thể
tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng, chính phủ đã ban hành Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg
ngày 21/2/2009 về bảo lãnh tín dụng, ngân hàng Phát triển VN (VDB) được giao nhiệm vụ bảo
lãnh tín dụng cho doanh nghiệp. Theo quyết định trên, doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 20 tỷ trở
xuống và sử dụng tối đa 1.000 lao động sẽ được xem xét và bảo lãnh vay vốn tại VDB để đầu
tư tài sản cố định theo dự án hoặc vốn lưu động để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
Theo báo cáo của VDB, năm 2009 VDB được giao nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV vay vốn của các NHTM 17.000 tỷ đồng. Sau tám tháng triển khai quyết định
14/2009/QĐ-TTg, VDB đã thực hiện bảo lãnh được 12.000 tỷ đồng và việc bảo lãnh sẽ không
thực hiện tràn lan mà chỉ dồn vốn cho một số lĩnh vực và nguyên tắc đảm bảo an toàn nguồn
vốn sẽ được đặt lên hàng đầu.
Quy định doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng tối đa 1.000 lao
động vay vốn NHTM đều được VDB đứng ra bảo lãnh tín dụng cũng không còn phù hợp với
tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP. Qua đó doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có vốn điều lệ từ 20 tỷ đồng
đến 100 tỷ đồng hoặc sử dụng trên 200 đến 300 lao động, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ có vốn điều lệ trên 10 đến 50 tỷ hoặc sử dụng từ 50 lao động đến
100 lao động được coi là doanh nghiệp vừa. Nếu căn cứ theo QĐ 14, rất nhiều doanh nghiệp có
quy mô vừa sẽ không được bảo lãnh tín dụng và điều này không phù hợp với chủ trương trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được Chính phủ ban hành tại Nghị định 56/2009/NĐ-
CP.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNNVV thời gian qua
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV vay vốn, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban
hành Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 của Thủ tướng Chính Phủ về Quy chế

[24]
Đề tài: Tín dụng ngân hàng cho các DNNVV tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
bảo lãnh cho DNNVV vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Theo đó, các DNNVV có thể
được Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh vay vốn với mức phí bảo lãnh chỉ bằng 0,5% số
tiền được bảo lãnh trong các lĩnh vực như: (i) Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; (ii) Công
nghiệp chế biến, chế tạo; (iii) Sản xuất khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí;
(iv) Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; (v) Xây dựng; (vi) Sửa
chữa ôtô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác và (vii) vận tải, kho bãi.
Mặt khác, Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hạ mặt bằng lãi
suất cho vay, ưu tiên đối với DNNVV và thực hiện các biện pháp cơ cấu lại nợ và các giải
pháp khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh
doanh, nhất là đối với những doanh nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu
cầu của thị trường nhưng đang gặp khó khăn về tài chính. Một số địa phương như Hà Nội, Cà
Mau, v.v… cũng đã chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại địa phương tập trung, ưu tiên
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh ổn định, tình hình tài chính lành
mạnh… Đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay đã được giảm xuống đáng kể, lãi suất cho vay
ngắn hạn chỉ còn 13% đối với các TCTD và 14% đối với quỹ tín dụng nhân dân, giảm gần một
nửa so với lãi suất thực tế đầu năm 2012.
Có thể nói, những năm qua, khu vực DNNVV đã được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
của ngân hàng với mức ngày càng tăng. Theo báo cáo thống kê về hoạt động tín dụng của các
TCTD (TCTD), tỷ trọng cho vay đối với loại hình DNNN có xu hướng giảm dần và khu vực
dân doanh có chiều hướng tăng lên. Nếu dư nợ cho vay đối với DNNN tại thời điểm
31/12/2009 là 372.711 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,25% thì đến ngày 30/6/2010, dư nợ cho vay
đối với DNNN đạt 390.719 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,98%. Trong tổng dư nợ cho vay đối với
khu vực dân doanh thì dư nợ cho vay đối với DNNVV đến 30/6/2010 ước đạt khoảng 527.844
tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,4% và chiếm 27% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế. Tuy
nguồn tín dụng ngân hàng dành cho khu vực DNNVV những năm gần đây đã tăng lên nhưng
hiện khu vực này gặp phải cản trở lớn ảnh hưởng tới sự phát triển sản xuất kinh doanh đó là
tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Theo tính toán, bình quân mỗi DNNVV đi vào hoạt động cần khoảng 2 tỷ đồng, số vốn

cần huy động sẽ xấp xỉ cả triệu tỷ đồng Việt Nam. Hiện có nhiều kênh cung cấp vốn cho
DNNVV, trong đó kênh vốn tín dụng ngân hàng là kênh trực tiếp quan trọng và là tổ chức,
trung gian tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Kết quả điều tra gần đây của
Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, chỉ có 32,38% DNNVV có
khả năng tiếp cận được các nguồn vốn, 35,25% khó tiếp cận, còn lại không thể tiếp cận. Trong
số các DNNVV tại Việt Nam không tiếp cận được vốn vay ngân hàng thì 80% không đáp ứng
đủ điều kiện vay vốn.
Bên cạnh đó, Chính sách cho phép doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) vay vốn từ
Quỹ Bảo lãnh tín dụng đã có từ gần chục năm nay nhưng cơ hội vay vốn của các DN này rất ít.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (DIV) được Chính phủ giao nhiệm vụ bảo lãnh cho DNNVV
vay vốn tại các ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên, đến hết tháng 06/2012 mới có
1.950 lượt DN được NHTM chấp thuận cho vay, với hạn mức tín dụng được bảo lãnh là
15.316 tỉ đồng.
Chính vì sự khó khăn này nên có nhiều ý kiến cho rằng, ngân hàng đang “gây khó dễ”
với các DNNVV. Thực tế cho thấy, có hiện tượng các ngân hàng dư thừa vốn nhưng không tìm
[25]

×