Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng NX, NFI và tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1998 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.45 KB, 51 trang )

Phần I:
Thực trạng NX, NFI và tỷ giá hối đoái của
Việt Nam giai đoạn 1998 – 2013
1. Thực trạng NX giai đoạn 1998 – 2013:
1.1. Sơ lược về xuất khẩu ròng - NX:
- Xuất khẩu X (export): là việc người nước ngoài mua các hàng hóa và dịch vụ sản
xuất trong nước.
- Nhập khẩu IM (import): là việc người dân trong nước mua các hàng hóa và dịch
vụ sản xuất ở nước ngoài.
- Xuất khẩu ròng (NX) của một nước bằng giá trị xuất khẩu của nó trừ đi giá trị
nhập khẩu. Xuất khẩu ròng cũng được gọi là cán cân thương mại.
+ Nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì NX > 0: thặng dư thương mại.
+ Nếu X < IM, NX < 0: thâm hụt thương mại.
1.2. Thực trạng NX giai đoạn 1998 – 2013:
- Điểm sáng trong bức tranh xuất- nhập khẩu Việt Nam:
Trong những năm qua, có thể nói xuất - nhập khẩu của Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của
đất nước. Xuất - nhập khẩu tăng trưởng với nhịp độ bình quân khá cao về
kim ngạch, đa dạng và phong phú về mặt hàng. Thị trường xuất khẩu ngày
càng được mở rộng.
Nếu xuất khẩu bình quân đầu người năm 1976 mới đạt 4,5 USD, thì năm 2013
đã đạt 1.473 USD, cao gấp 327,3 lần. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu
mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2013 đã cao gấp 167,5 lần, trong đó thủy sản gấp
63,4 lần; hạt tiêu gấp 42,9 lần; hạt điều gấp 200,8 lần; rau quả gấp 23,8 lần.
Một số mặt hàng tuy vào các thời kỳ sau mới xuất khẩu, nhưng năm 2013 đã
đạt quy mô lớn, trong đó có 22 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Quý I/2014,
đã có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD. Có một số mặt hàng đứng thứ hạng cao trên
thế giới. Cơ cấu mặt hàng mấy năm nay đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực:
tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm (từ 55,8% năm 2000 xuống còn khoảng
34% năm 2013), tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế tăng (tương ứng từ 44,2%
lên 66%); trong nhóm hàng chế biến, hoặc đã tinh chế, hàng có kỹ thuật, công nghệ


cao hơn (như điện thoại, máy vi tính, máy ảnh, máy quay phim, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải…) tăng cao hơn.
Xuất khẩu hàng hóa/GDP vào năm 1988 mới đạt 18,9%, thì năm 2013 đã đạt
77,6%, cao gấp 4,1 lần năm 1988 và thuộc loại khá cao trên thế giới. Nếu tính cả
xuất và nhập khẩu/GDP đã đạt 155,2%; nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt
1
169,1%, nằm trong tốp 5 nước có tỷ lệ cao nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ độ mở
của nền kinh tế Việt Nam thuộc loại khá rộng.
Về hàng hóa của Việt Nam, nếu năm 1986 hàng Việt Nam mới có mặt ở 33
nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay, đã có mặt ở hầu hết các nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, trong đó có nhiều thị trường đạt kim ngạch lớn. Năm 2013, có 27
nước và vùng lãnh thổ đạt từ 1 tỷ USD trở lên (Hoa Kỳ 23,87 tỷ USD, Nhật Bản
13,65 tỷ USD, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 13,26 tỷ USD, Hàn Quốc 6,63 tỷ
USD…); quý I/2014 đã có 8 thị trường.
Trong quan hệ với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước nhập siêu
lớn sang xuất siêu. Nếu năm 1976, Việt Nam nhập siêu 801,4 triệu USD; tỷ lệ nhập
siêu so với xuất khẩu lên đến 360%. Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã xuất siêu
hàng hóa (năm 2012 là 749 triệu USD, năm 2013 là 9 triệu USD). Quý I/2014, Việt
Nam xuất siêu 1,1 tỷ USD và khả năng năm 2014 sẽ xuất siêu tiếp ở quy mô cao
hơn 2 năm trước. Cán cân thương mại được cải thiện, cùng một số yếu tố khác đã
góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, tăng an toàn tài chính
và thanh khoản của quốc gia.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2013 đạt 10,5 tỷ USD, cao gấp gần 2,5 lần năm 2005,
bình quân 1 năm tăng 12,1%, là tốc độ khá cao. Khả năng quy mô xuất khẩu dịch
vụ sẽ tiếp tục tăng tốc do Việt Nam mở cửa, hội nhập nói chung và mở cửa, hội
nhập về dịch vụ ngày một sâu rộng hơn.
Trong cả giai đoạn 2007-2011, xuất khẩu đã tăng 2,4 lần, từ 39,8 tỷ USD lên 96,9
2
tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 19,5%/năm, cao hơn chỉ tiêu
16%/năm trong kế hoạch 5 năm 2006-2010.

Năm 2012, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước có rất nhiều khó
khăn, nhưng tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của cả nước đạt hơn 200 tỷ USD.
Giá trị xuất khẩu đạt 114,57 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2011 và gấp 3,5 lần
năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu/GDP đạt khoảng 81,7%, cao hơn mức kỷ lục
80,8% của năm 2011. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng GDP
(lên đến 3,6 lần). Tỷ lệ xuất khẩu/GDP và hệ số tốc độ tăng đạt cao như trên đã cho
thấy, xuất khẩu là lối ra, là động lực tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
Từ năm 2007, tình hình nhập khẩu cũng bắt đầu biến động mạnh. Tăng trưởng
nhập khẩu đạt tới 40% năm 2007 và 28,6% năm 2008. Do tác động của suy thoái
kinh tế thế giới, nhập khẩu giảm còn 13,3% năm 2009.
Tuy nhiên, nhập khẩu đã nhanh chóng phục hồi, năm 2010 tăng 20% và năm
2011 tăng 25,9%. Trong giai đoạn 2007-2011, nhập khẩu tăng 2,4 lần, từ 44,9 tỷ
USD lên 106,7 tỷ USD. Tốc độ tăng nhập khẩu trung bình trong cả giai đoạn 2007-
2011 là 18,9%/năm.
Tỷ lệ nhập khẩu so với GDP đạt đỉnh khoảng 88,6% vào năm 2008, sau đó
giảm xuống còn 72,0% vào năm 2009, rồi lại tăng lên 87,1% vào năm 2011. Năm
2012, giá trị nhập khẩu đạt 113,79 tỷ USD, tăng 6,6 % so với năm 2011. Nhìn
chung, mức độ tăng nhập khẩu có thấp hơn giai đoạn trước đó (nhập khẩu tăng 2,8
lần và tốc độ tăng nhập khẩu bình quân 22,6%/năm).
Nhập khẩu dường như chỉ tăng nhanh đột biến ngay sau khi nước ta gia nhập
WTO, nhưng sau đó tăng chậm lại. Điều này có thể là do Việt Nam đã dần thích
ứng với cuộc chơi trong WTO, ở cả cấp hoạch định chính sách và cấp doanh
nghiệp. Nhập khẩu tăng trước hết là để bù đắp chênh lệch đầu tư - tiết kiệm do đầu
tư tăng mạnh.
Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng mạnh là do: (i) Thu nhập tăng,
cộng với hiệu ứng thu nhập từ tài sản tăng; (ii) Giảm thuế quan đối với một số mặt
hàng tiêu dùng nhập khẩu; (iii) Nhu cầu sản xuất trong nước (kể cả của khu vực
FDI, nhất là phương thức gia công - xuất khẩu còn khá phổ biến.
Sau khi gia nhập WTO, nhập siêu hàng hóa tăng mạnh, đạt 14,2 tỷ USD vào
năm 2007 và 18,0 tỷ USD năm 2008 (so với 5,1 tỷ USD năm 2006). Sau đó, do tác

động của suy thoái kinh tế toàn cầu và các chính sách của Chính phủ, nhập siêu
giảm xuống 12,9 tỷ USD vào năm 2009, và 9,8 tỷ USD năm 2011. Riêng năm
2012, lần đầu tiên sau gần 20 năm Việt Nam xuất siêu với 284 triệu USD.
Tính theo tỷ lệ kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa trên GDP, độ mở thương
mại của Việt Nam đã tăng gần như liên tục, từ 130,4% năm 2005 lên 157,4% vào
3
năm 2008. Sau khi sụt giảm vào năm 2009, độ mở thương mại tăng trở lại kể từ
năm 2010 và đạt tới 166,1% vào năm 2011, năm 2012 đạt khoảng 182% cao nhất
từ trước tới nay.
Tình hình xuất - nhập khẩu giai đoạn 1998 – 2013 của Việt Nam:
Năm
Tổng xuất nhập khẩu
(Triệu USD)
Xuất khẩu
(Triệu USD)
Nhập khẩu
(Triệu USD)
1998 20.818 9.324 11.494
1999 23.143 11.520 11.622
2000 30.084 14.449 15.635
2001 31.190 15.027 16.162
2002 36.439 16.706 19.733
2003 45.403 20.176 25.227
2004 58.458 26.504 31.954
2005 69.420 32.442 36.978
2006 84.717 39.826 44.891
2007 111.244 48.561 62.682
2008 143.399 62.685 80.714
2009 127.045 57.096 69.949
2010 157.075 72.237 84.839

2011 203.656 96.906 106.750
2012 228.310 114.529 113.780
2013 (Sơ bộ) 264.260 132.135 132.125
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
4
Nhóm hàng
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
% % % % % % %
Xuất khẩu
14482743 100 15029290 100 16706052 100 20149324 100,0 26485035 100 32447129 100 3982622 100
1, Hàng CN
nặng và khoáng
sản
5382112 37.2 5247265 34.9 5304319 31.8 6485151 32.2 9641865 36.4
1170143
2 36.1

1442864
1 36.2
2, Hàng CN nhẹ
và TTCN
4903124 33.9 5368259 35.7 6785652 40.6 8597362 42.7 10870825 41
1329337
5 41
1638958
1 41.2
3, Hàng Nông
sản và NSCB
2563354 17.7 2421273 16.1 2396634 14.3 2671950 13.2 3383623 12.8 4467357 13.8 5352445 13.4
4, Hàng Lâm sản
155660 1.1 176047 1.2 197744 1.2 195284 1 180563 0.7 252464 0.7 297595 0.8
5, Hàng Thủy
sản
1478493 10.2 1816365 12.1 2021703 12.1 2199577 10.9 2408159 9.1 2732501 8.4 3357960 8.4
6,Vàng phi tiền
tệ
7216 0,02
Nhập khẩu
15636528 100 16217931 100 19745554 100 25255778 100 31968820 100 36761116 100 44891116 100
I. Tư liệu sản
xuất
14668259 93.8 14930521 92.1 18192359 92.1 23288007 92.3 29833450 93.3 33768646 91.9 41382713 92.2
1, Máy móc ,
thiết bị, PT vận
tải, phụ tùng
4781525 30.6 4948883 30.5 5879922 29.8 7983715 31.6 9207528 28.8 9285358 25.3
1104076

4 24.6
2, Nguyên, nhiên
vật liệu
9886734 63.2 9981638 61.5
1231243
7 62.3 15304292 60.6 20625922 64.5
2448328
8 66.6
3034194
9 67.6
II. Hàng tiêu
dùng
968269 6.2 1287410 7.9 1553195 7.9 1967771 7.7 2135370 6.7 2992470 8.1 3508403 7.8
1. Lương thực
290 0 3263 0.02 439 0.002 710 0 1318 0 3809 0.01 7184 0.02
2. Thực phẩm
301798 1.9 479705 3 486227 2.5 597414 2.4 776368 2.4 1100181 3 1238888 2.8
3. Hàng y tế
333828 2.1 328364 2 361422 1.8 413291 1.6 439588 1.4 527078 1.4 598808 1.3
4. Hàng tiêu
dùng khác
332353 2.1 476078 2.9 705107 3.6 956356 3.7 918096 2.9 1361402 3.7 1663523 3.7
III.Vàng phi tiền
tệ
1878568 4,2
5
Nhóm hàng 2007 2008 2009 2010 2011
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ

trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ trọng
% % % % %
Xuất khẩu 48561354 100 62685130 100,0 57096274 100,0 72236665 100,0 96905674 100
1, Hàng CN nặng
và khoáng sản 16646691 34.3 23209379 37,0 17621816 30,9 22402866 31,0 34722580 35,8
2, Hàng CN nhẹ
và TTCN 20710104 42.6 24896399 39,7 25580341 44,8 33336943 46,1 40339640 41,6
3, Hàng Nông
sản và NSCB 7032822 14.5 9239573 14,7 8352811 14,6 10639418 14,7 14447533 14,9
4, Hàng Lâm sản 408333 0.8 468742 0,7 463359 0,8 803902 1,1 1220704 1,3
5, Hàng Thủy sản 3763404 7.8 4510116 7,2 4255330 7,5 5016910 6,9 6112415 6,3
6,Vàng phi tiền tệ 16478 0,03 360920 0,6 822617 1,4 36626 0,2 62802 0,1
Nhập khẩu 62764688 100 80713829 100,0 69948810 100,0 84838553 100,0 106749854 100,0
I. Tư liệu sản
xuất 58104643 92.6 71715882 88,9 63093222 90,2 75495982 89,0 94551494 88,6
1, Máy móc , thiết
bị, PT vận tải,
phụ tùng 17966215 28.6 22566743 28,0 22081543 31,6 25152379 29,6 31592924 29,6
2, Nguyên, nhiên
vật liệu 40138428 64 49149139 60,9 41011679 58,6 50343602 59,3 62958570 59,0
II. Hàng tiêu
dùng 4660045 7.4 6269864 7,8 6473294 9,3 8377932 9,9 10125322 9,5
1. Lương thực 2528 0.004 3765 0,01 41243 0,1 7856 0,0 3484 0,0
2. Thực phẩm 1555199 2.5 2190208 2,7 2085451 3,0 2838439 3,3 3711054 3,5
3. Hàng y tế 763746 1.2 890208 1,1 1158578 1,7 1311966 1,5 1589775 1,5

4. Hàng tiêu dùng
khác 2338572 3.7 3185683 3,9 3188022 4,6 4219671 5,0 4821009 4,5
III.Vàng phi tiền
tệ 1315981 2,1 2728083 3,4 382294 0,5 964639 1,1 2073038 1,9
Bảng 1. Trị giá Xuất - nhập khẩu phân theo cơ cấu ngành hàng của kế hoạch Nhà nước năm 2000 - 2011
(Nguồn: Bộ Công Thương)
6
- Những vấn đề đặt ra:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, về xuất nhập khẩu hiện còn nhiều việc
phải làm để khắc phục những hạn chế, bất cập và ứng phó với những thách thức
không nhỏ.
Một là, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm gia công và nguyên liệu thô.
Ví dụ như trong năm 2012, tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nguyên liệu
thô khai thác còn lớn (chỉ tính riêng dầu thô, than đá, quặng và khoáng sản đã đạt
trên 9,65 tỷ USD, chiếm 8,4%). Nông, lâm - thủy sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ
chế chiếm tỷ trọng cao (đạt khoảng 27 tỷ USD, chiếm 23,6%).
Hàng gia công, lắp ráp còn lớn (chỉ tính riêng dệt may, giày dép, xơ sợi dệt các
loại, nguyên phụ liệu dệt may, da giày, máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện và
một số loại khác có kim ngạch trên 33 tỷ USD, chiếm 29%). Chỉ với 3 nhóm trên đã
chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Hai là, giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu Việt Nam còn thấp. Mặc dù, xuất
khẩu của Việt Nam đang dần xác lập được vị thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, Việt Nam lại chiếm lĩnh thị trường trên thế giới chủ yếu ở nhóm hàng
hóa cơ bản, như: dầu mỏ và khoáng sản, nông sản, hàng dệt may, da giày, thủy sản,
đồ gỗ và điện tử. Đây là những ngành thâm dụng lao động lớn, nhưng về xu thế
không còn tăng trưởng nhanh trên thế giới, đồng thời rất dễ bị ảnh hưởng bởi việc hạ
thấp chi phí từ các đối thủ mới, có chi phí lao động thấp.
Khá nhiều các mặt hàng xuất khẩu, kể cả những mặt hàng có kim ngạch lớn
chưa có thương hiệu riêng, xuất khẩu thường phải thông qua đối tác khác, nên giá
bán thường thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước khác.

Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các
yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính sách phát triển xuất khẩu
trong thời gian qua quá chú trọng đến chỉ tiêu về số lượng, chưa thật sự quan tâm
đến chất lượng và hiệu quả xuất khẩu. Việt Nam chưa khai thác một cách hiệu quả
lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo
ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, tham gia vào khâu tạo ra
giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, mở rộng xuất khẩu đang có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường. Tăng trưởng xuất khẩu
Việt Nam hiện nay, ở chừng mực nào đó, chủ yếu dựa vào việc khuyến khích khai
thác tài nguyên thiên nhiên và sử dụng ngày càng nhiều các yếu tố đầu vào gây ô
nhiễm.
Ba là, còn nhập siêu lớn ở những thị trường gần, phần lớn thị trường không
phải là công nghệ nguồn, thậm chí là kỹ thuật - công nghệ thấp, hoặc đã được họ
7
chuyển giao lại trong quá trình hiện đại hóa. Lý do cơ bản là, thay vì sản xuất ra với
chi phí cao các sản phẩm phụ trợ đầu vào, doanh nghiệp có thể nhập khẩu nguyên
phụ liệu từ Trung Quốc và ASEAN với chất lượng tương đương và giá thành rẻ hơn
nhiều (không tính đến phần nhập khẩu công nghệ). Năm 2012, Việt Nam nhập siêu
từ 28 thị trường, trong đó lớn nhất là Trung Quốc với gần 16,4 tỷ USD; Hàn Quốc:
9,96 tỷ USD, Đài Loan: 6,45 tỷ USD…
Điều đáng buồn là, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và ASEAN
không chỉ là nguyên phụ liệu, mà còn bao gồm công nghệ sản xuất, hàm nghĩa Việt
Nam đang nhập khẩu công nghệ lạc hậu và cũ kỹ của khu vực, trong lúc chưa tiếp
cận được công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Điều này dẫn đến
việc càng khó tăng năng suất trong tương lai, cũng như khó có thể giúp Việt Nam
bước nhanh hơn trong việc theo đuổi giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu,
chưa nói là sa vào bẫy thu nhập trung bình.
Bốn là, khối đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của khối này vẫn giữ được

đà tăng ấn tượng (18,3%), bất chấp những khó khăn chung của kinh tế thế giới.
So với Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước trong khu vực ASEAN, như:
Philippines, Malaysia, Thái Lan, thì động lực tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam
vẫn mạnh mẽ và có phần vượt hơn.
Động lực này có sự đóng góp rất lớn từ các doanh nghiệp FDI, với giá trị xuất
khẩu lên đến 60,04 tỷ USD, tăng 33,8 % so với năm trước; trong khi giá trị nhập
khẩu của khối này cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất với 52,7 % tổng kim ngạch nhập
khẩu cả nước, tương đương với 59,94 tỷ USD, tăng 22,7 % so với năm 2011.
Điều này được giải thích là do họ vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh và thị
trường, trong khi hàng loạt doanh nghiệp trong nước vẫn đang suy yếu. Hiện trạng
này cho thấy, sức khỏe và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa là rất có vấn
đề.
Năm là, xuất siêu đạt được chưa thật bền vững. Suốt thời kỳ 1994-2011, giá trị
nhập khẩu luôn lớn hơn so với giá trị xuất khẩu. Điều đáng lo ngại là thâm hụt
thương mại tăng dần theo thời gian.
Nếu trong năm 2005 thâm hụt thương mại đạt khoảng 4,54 tỷ USD, thì đến năm
2008 mức thâm hụt lên đến 18,03 tỷ USD, gấp gần 4 lần trong vòng chỉ 3 năm. Năm
2009 mức thâm hụt là 12,85 tỷ USD gấp 3 lần so với năm 2005. Trong năm 2011,
cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào 9,84 tỷ
USD.
Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán kéo dài sẽ tạo áp lực lên việc phá giá
đồng nội tệ và điều chỉnh lãi suất. Về lâu dài, thâm hụt cán cân thanh toán được bù
đắp bằng nguồn ngoại tệ từ khu vực FDI, kiều hối. Nếu không đủ, thì Chính phủ
8
phải đi vay thông qua việc điều chỉnh chênh lệch giữa lãi suất tiền đồng với lãi suất
ngoại tệ, từ đó gây áp lực phá giá lên đồng nội tệ và ảnh hưởng đến lạm phát cũng
như mức tăng giá nói chung.
Tuy nhiên, năm 2012, cán cân thương mại có sự đảo chiều, lần đầu tiên trong
gần 20 năm kể từ 1993 Việt Nam xuất siêu. Song, khả năng xuất siêu của Việt Nam
không bền vững do những hạn chế, bất cập về mô hình kinh tế như đã đề cập ở trên.

Một điểm đáng lưu ý là nguyên nhân của xuất siêu năm 2012 chủ yếu do năng lực
sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam quá yếu, nhập khẩu nguyên, vật liệu sản
xuất giảm mạnh.
2. Thực trạng NFI gia đoạn 1998 – 2013 của Việt Nam:
2.1. Sơ lược về NFI – đầu tư ra nước ngoài ròng:
- Khi các cư dân trong nước mua tài sản nước ngoài nhiều hơn số tài sản trong
nước mà người nước ngoài mua thì sẽ có một luồng vốn ròng từ trong nước chảy ra
nước ngoài.
NFI = I
D
– I
F
> 0
- Nếu nước ngoài mua nhiều tài sản trong nước hơn số tài sản nước ngoài mà
người trong mua thì khi đó sẽ có luồng vốn ròng chảy từ nước ngoài vào trong nước.
NFI = I
D
– I
F
< 0
2.2. Thực trạng NFI Việt Nam giai đoạn 1998 – 2013:
2.2.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1998 – 2013:
2.2.1.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 1998 – 2013:
- Đánh giá chung:
Hàng trăm dự án FDI với quy mô lớn đầu tư vào Việt Nam mỗi năm đã khẳng
định tiềm năng, lợi thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Cụ thể:

Năm Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD) (*)

Tổng số vốn thực hiện
(Triệu USD)
1998 285 4873.4 2372.4
1999 327 2282.5 2528.3
2000 391 2762.8 2398.7
2001 555 3265.7 2225.6
2002 808 2993.4 2884.7
2003 791 3172.7 2723.3
2004 811 4534.3 2708.4
9
2005 970 6840.0 3300.5
2006 987 12004.5 4100.4
2007 1544 21348.8 8034.1
2008 1171 71726.8 11500.2
2009 1208 23107.5 10000.5
2010 1237 19886.8 11000.3
2011 1191 15618.7 11000.1
2012 1287 16348 10046.6
2013 1530 22350 11500
(*)
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm
trước.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
- Phân theo ngành kinh tế:
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép phân theo ngành kinh tế (Lũy kế
các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012)

Số dự án
Vốn đăng ký
(Triệu USD)

(*)

Tổng số 14522 210521.6
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 493 3263.0
Khai khoáng 78 3182.0
Công nghiệp chế biến, chế tạo 8072 105938.7
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hoà không khí 87 7488.9
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải 28 1234.2
Xây dựng 936 10052.0
Bán buôn và bán lẻ; sử chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe
có động cơ khác 902 2898.3
Vận tải, kho bãi 350 3492.8
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 331 10605.8
Thông tin và truyền thông 828 3941.7
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 76 1321.7
Hoạt động kinh doanh bất động sản 388 49760.5
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 1336 1101.5
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 114 193.3
Giáo dục và đào tạo 163 462.9
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 82 1222.2
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 137 3629.2
10
Hoạt động dịch vụ khác 121 732.9

(*)
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ
các năm trước.
Trong năm 2013, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực,

trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự
quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 605 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn
cấp mới và tăng thêm là 16,636 tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh
vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,031 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư đăng
ký. Đứng thứ 3 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 20 dự án đầu tư mới, tổng
vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 951 triệu USD.
- Phân theo đối tác đầu tư chủ yếu:
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép phân theo ngành đối tác đầu tư
chủ yếu (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012)

Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD)
(*)
Tổng số 14522 210521.6
Trong đó:
Nhật Bản 1849 28699.6
Đài Loan 2234 27129.1
Xin-ga-po 1119 24875.3
Hàn Quốc 3197 24816.0
Quần đảo Vigin thuộc Anh 510 15386.4
Đặc khu hành chính Hồng Công
(TQ) 705 11966.7
Hoa Kỳ 648 10507.2
Ma-lai-xi-a 435 10196.4
Quần đảo Cay men 54 7506.0
Thái Lan 298 6063.7
CHND Trung Hoa 893 4697.2
Pháp 381 3142.7

Vương quốc Anh 161 2617.3
Ôx-trây-li-a 276 1313.2
Liên bang Nga 86 1056.0
CHLB Đức 196 1053.7
Phần Lan 8 336.2
11
In-đô-nê-xi-a 34 285.1
I-ta-li-a 49 257.2
Ấn Độ 68 251.4
Bỉ 41 134.7
Ba Lan 10 99.7
Bác-ba-đốt 2 68.1
Lào 8 66.8
Thụy Điển 31 65.8
Cộng hòa Séc 26 63.5
Cam-pu-chia 12 53.6
Pa-na-ma 9 51.0

(*)
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các
năm trước.
Trong năm 2013 đã có 54 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam. Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 5,747 tỷ
USD, chiếm 26,6% tổng vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam; Singapore đứng vị trí thứ
hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,376 tỷ USD, chiếm 20,2%
tổng vốn đầu tư; Hàn Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và
tăng thêm là 4,293 tỷ USD, chiếm 19,9% tổng vốn đầu tư đăng ký.
- Phân theo địa phương:
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép phân theo địa phương (Lũy kế
các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012)


Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD)
(*)
CẢ NƯỚC 14522 210521.6
Đồng bằng sông Hồng 4034 48753.7
Hà Nội 2456 21205.6
Vĩnh Phúc 148 2466.9
Bắc Ninh 294 4158.2
Quảng Ninh 98 4200.3
Hải Dương 272 5379.5
Hải Phòng 369 7247.8
Hưng Yên 240 2119.4
Thái Bình 32 251.3
Hà Nam 55 508.5
Nam Định 41 260.1
Ninh Bình 29 956.2
Trung du và miền núi phía Bắc 375 4106.5
Hà Giang 8 13.3
12
Cao Bằng 14 34.6
Bắc Kạn 7 17.9
Tuyên Quang 9 120.6
Lào Cai 32 837.8
Yên Bái 19 100.0
Thái Nguyên 32 148.4
Lạng Sơn 30 192.5
Bắc Giang 101 1668.8
Phú Thọ 79 454.9

Lai Châu 4 4.0
Sơn La 10 116.4
Hoà Bình 30 397.2
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 879 44386.0
Thanh Hoá 44 7150.2
Nghệ An 33 1546.4
Hà Tĩnh 46 10564.4
Quảng Bình 5 34.8
Quảng Trị 16 67.7
Thừa Thiên Huế 67 1948.3
Đà Nẵng 239 3684.0
Quảng Nam 79 4984.2
Quảng Ngãi 23 3911.6
Bình Định 53 714.9
Phú Yên 57 6531.2
Khánh Hoà 89 1033.3
Ninh Thuận 29 775.6
Bình Thuận 99 1439.5
Tây Nguyên 137 811.2
Kon Tum 2 72.0
Gia Lai 12 85.7
Đắk Lắk 5 146.4
Đắk Nông 6 19.7
Lâm Đồng 112 487.5
Đông Nam Bộ 8273 99002.7
Bình Phước 102 759.3
Tây Ninh 200 1627.5
Bình Dương 2246 17969.3
Đồng Nai 1101 19945.4
Bà Rịa - Vũng Tàu 287 26298.0

TP.Hồ Chí Minh 4337 32403.2
Đồng bằng sông Cửu Long 775 10707.9
Long An 464 3520.3
Tiền Giang 51 1072.7
Bến Tre 32 261.5
Trà Vinh 31 130.3
13
Vĩnh Long 23 113.5
Đồng Tháp 16 46.8
An Giang 18 122.2
Kiên Giang 35 3059.4
Cần Thơ 59 801.1
Hậu Giang 12 680.3
Sóc Trăng 10 30.0
Bạc Liêu 17 89.2
Cà Mau 7 780.6
Dầu khí 49 2753.7
Năm 2013, không kể dầu khí ngoài khơi, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư
vào 52 tỉnh thành phố. Thái Nguyên là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với
tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 3,4 tỷ USD, chiếm 15,7% vốn đăng ký.
Với sự điều chỉnh tăng 2,8 tỷ USD vốn đầu tư của dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn,
Thanh Hóa đứng thứ hai với 2,921 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm chiếm
13,5% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ 3 với tổng số vốn đăng ký cấp mới và
tăng thêm 2,612 tỷ USD, chiếm 12,1% vốn đăng ký.
- Hạn chế:
Bên cạnh những đóng góp tích cực, FDI cũng đã và đang tạo ra những tác động
tiêu cực, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Phần lớn các
doanh nghiệp có vốn FDI tập trung vào khai thác lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn tài
nguyên có sẵn, thị trường tiêu thụ dễ tính để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội
địa và xuất khẩu. Các doanh nghiệp có vốn FDI hiện có đóng góp quan trọng vào

kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam không
thay đổi, trong đó các mặt hàng nông, thuỷ sản, thực phẩm và các mặt hàng có giá trị
gia tăng thấp như dệt may, tạp phẩm chiếm đến 49,4%. Trong khi các ngành chế tạo
đòi hỏi công nghệ cao như máy công cụ, chế tạo ôtô, đồ điện tử chỉ chiếm 7,5% so
với 54,6% tại các nước Đông á và ấn Độ
3
. Hơn nữa, sự liên kết giữa các doanh
nghiệp có vốn FDI và các doanh nghiệp nội địa còn hạn chế. Do vậy, chưa hình
thành được chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng hàng hoá và các ngành công nghiệp
phụ trợ. Hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam phải nhập khẩu
70-80% lượng sản phẩm phụ trợ
4
.
Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, gây bức xúc trong dư luận thời gian qua. Chất thải của công ty VEDAN là
một ví dụ tiêu biểu. Rõ ràng là, những hậu quả về môi trường nếu không được xem
xét kỹ lưỡng khi quyết định cấp phép đầu tư sẽ làm giảm tính bền vững của tăng
trưởng kinh tế.
14
Một trong những hạn chế nữa của khu vực FDI là các doanh nghiệp có vốn FDI
chủ yếu tập trung vào đầu tư tại các khu vực đô thị lớn mà chưa được phân bổ đều
giữa các địa phương trong cả nước, điều này cũng là một trong những nguyên nhân
làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa vùng đô thị và vùng nông thôn, giữa miền
ngược và miền xuôi. Hơn nữa, FDI tập trung quá nhiều tại các thành phố lớn sẽ càng
gia tăng sức ép cho các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.
2.2.1.2. Tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ 1998 – 2013:
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp
(FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo

hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng
cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc
đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FII mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để
thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Việt Nam cần một lượng vốn
đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng
bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt
Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu
quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các
thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK).
Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các
hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không những
được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng
người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FII sẽ có tác động
mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt
động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách
chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết
một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
Hơn nữa, FII có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp
tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FII rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
15
Tuy nhiên, dòng vốn FII cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy
động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định, tương xứng với
tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản
trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần
được quan tâm.
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn
vốn FII vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam

có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một
số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20
triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng
lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút
FII/FDI trong khoảng 30-40%).
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần
đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng
khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia
tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố
thông qua các quỹ đầu tư chính thức.
Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003, dòng vốn FII vào Việt Nam hồi phục,
tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của Ngân hàng
ANZ cho biết, từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỷ USD và năm 2007 đạt
khoảng 5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền
kinh tế, dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối quý
II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng không thật sự mạnh như
mong đợi. Trong năm 2010, nguồn vốn FII vào Việt Nam đạt 1,7 tỷ USD, năm 2011
đạt mức 1 tỷ USD.
Theo thống kê của ngân hàng HSBC, quý I/2012, có khoảng 500 triệu USD
chảy vào TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, sang quý II, thị trường lại có những biến
chuyển khác. Chỉ tính riêng trên sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh từ đầu năm đến
nay, dòng vốn FII đã âm hơn 4,9 triệu USD, trong khi đó, quý I/2012 khối này đã
mua ròng gần 43 triệu USD. Sự suy giảm của dòng vốn FII cũng chính là lý do
TTCK càng ngày càng ảm đạm trong những tháng qua.
2.2.1.3. Các nguồn đầu tư từ nước ngoài khác:
- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Đây là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, là hình thức tín dụng quốc tế nhằm
hỗ trợ các nước cải thiện môi trường đầu tư hoặc cải thiện môi trường sống của quốc
16
gia. Lãi suất vay ODA thường thấp, bình quân từ 2-4%/năm so với lãi vay thương

mại. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam gia tăng đáng kể ở cả 3 giác độ: cam kết, ký kết
và giải ngân. Trong đó, nguồn vốn dành cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm 40%
tổng vốn ODA đã góp phần phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt Nam.
- Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm:
Ngày 12/09/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 170/1999/QĐ-
TTg khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Tiếp theo đó
từ đầu tháng 06/2006, Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam bắt đầu có hiệu lực đã tác
động trực tiếp đến nguồn kiều hối, cụ thể là việc mở rộng đối tượng được vay vốn
nước ngoài, bao gồm cả cá nhân. Việt kiều có thể chuyển tiền về nước cho người
thân để đầu tư, kinh doanh dưới hình thức cho vay, cho mượn vốn kinh doanh.
Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi nội tệ cũng có sự chênh lệch khá cao so với lãi
suất ngoại tệ nên đã thúc đẩy kiều hối tăng. Ngoài ra, số lượng người đi xuất khẩu
lao động tăng lên hàng năm. Trong 02 năm 2010-2011, bình quân lượng kiều hối gửi
về Việt Nam theo đường chính thức thông qua hệ thống ngân hàng mỗi năm khoảng
9 tỷ USD; riêng năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam còn rất khó khăn,
lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn không giảm, dự tính năm 2013, kiều hối trên 10
tỷ USD.
Như vậy, nếu tính từ năm 2006 đến nay, thì tổng lượng kiều hối gửi về Việt
Nam khoảng 55 tỷ USD. Đây là một lượng tiền rất lớn nằm trong dân cần khai thác,
đưa vào phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
2.2.2. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam từ 1998 – 2013:
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hoạt động phổ biến và có quá trình lịch sử
trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng là hoạt động khá mới ở Việt Nam những năm
vừa qua. Đây là hoạt động có tiềm năng lớn trong việc giúp doanh nghiệp mở rộng
thị trường, tránh những hàng rào bảo hộ thương mại của nước nhận đầu tư, giúp
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ cao, đồng thời học hỏi
những ứng dụng trong công nghệ thông tin, kinh nghiệm quản lý, từ đó nâng cao
năng lực của mình. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đóng góp tích cực cho sự phát
triển kinh tế của Việt Nam, nâng vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài bắt đầu phát triển từ đầu những
năm 90 và gia tăng mạnh mẽ trong thời gian vừa qua, bất chấp ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới. Một trong những lý do khiến đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam ra nước ngoài được đẩy mạnh là nhờ những tháo gỡ về mặt chính sách của
Nhà nước ta, sau khi Chính phủ ban hành các Nghị định mới như Nghị định số
78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Nghị
định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
17
trong hoạt động dầu khí và Nghị định số 17/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 121/2007/NĐ-CP.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2013
đã có 742 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam với tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD. Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn vào ngành công nghiệp khai khoáng với
99 dự án, tổng vốn đầu tư 4,6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn
đầu tư); tiếp theo là ngành nông, lâm, thủy sản chế biến với 80 dự án, tổng vốn đầu
tư 1,9 tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); công nghiệp điện
đứng thứ ba với 1,8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1%.
Về địa bàn đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tập trung vào đầu tư ở
các nước láng giềng hay đối tác quen thuộc như Lào, Campuchia hay Nga mà phát
triển ra những khu vực xa hơn như các nước khu vực châu Phi, châu Mỹ, thậm chí
cả những nước kinh tế phát triển như Ô-xtrây-li-a, Mỹ, Sing-ga-po, Nhật Bản… với
tổng số là 59 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với
227 dự án với tổng vốn đầu tư trên 4,2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn
đầu tư), Cam-pu-chia đứng vị trí thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
2,7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Liên bang
Nga (chiếm 15,2% vốn đầu tư), Vê-nê-du-ê-la (11,8% vốn đầu tư) và các quốc gia
khác.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam ngày càng đa dạng hơn,
thể hiện khá rõ nét qua sự đa dạng về thị trường, về ngành đầu tư, về quy mô, hình

thức đầu tư, về các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư.
Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã mang lại doanh thu ngoại tệ cho đất
nước và nâng cao vị thế hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là một
số dự án đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, bưu chính viễn thông,…
- Tình hình chung:

Năm
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD) (*)
1998 2 1.9
1999 9 5.6
2000 15 4.7
2001 13 4.4
2002 15 147.9
2003 24 28.1
2004 15 9.5
2005 36 367.5
2006 36 221.0
2007 80 977.9
2008 104 3147.5
18
2009
91 2597.6
2010
108 3503.0
2011
82 2531.0
2012 84 1546.7
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2013

đã có 742 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam với tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD.
- Theo ngành kinh tế:
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp phép phân theo ngành kinh tế (Lũy kế
đến 20/03/2013)
TT Ngành
Số dự
án
Vốn đầu tư
của dự án ở
nước ngoài
(USD)
Vốn đầu tư
của nhà đầu tư
VN (USD)
Vốn điều lệ của
nhà đầu tư VN
(USD)
1 Khai khoáng 99
23,471,679,9
86
7,141,904,5
46
4,649,717,8
42
2
Nông, lâm nghiệp,
thủy sản 80
2,052,822,7
66

1,953,732,0
13
1,955,091,3
95
3
SX,pp
điện,khí,nước,đ.hò
a 9
2,117,875,6
78
1,873,869,1
33
1,681,222,9
38
4
Nghệ thuật và giải
trí 5
1,239,215,0
00
1,239,215,0
00
1,238,500,0
00
5
Thông tin và
truyền thông 42
1,494,470,2
43
1,161,643,2
41

965,680,4
44
6
CN chế biến,chế
tạo 124
718,562,1
44
574,916,5
66
526,590,5
66
7
Tài
chính,n.hàng,bảo
hiểm 28
572,844,0
00
538,121,9
00
483,371,9
00
8
Dịch vụ lưu trú và
ăn uống 29
545,136,5
49
415,815,8
21
415,815,8
21

9 KD bất động sản 29
466,640,2
59
218,592,4
27
218,492,4
27
10
Bán buôn,bán
lẻ;sửa chữa 158
294,845,1
59
188,737,1
30
186,256,1
30
11 Vận tải kho bãi 19
269,149,3
79
86,053,0
87
67,015,0
00
12
Y tế và trợ giúp
XH 5
79,180,4
71
45,103,9
15

37,739,6
15
13
HĐ chuyên môn,
KHCN 63
44,848,7
83
38,711,8
83
38,711,8
83
14 Xây dựng 29
57,038,1
34
32,052,3
79
30,580,3
79
15 Hành chính và 11 38,780,0 10,295,0 10,070,0
19
dịch vụ hỗ trợ 00 00 00
16
Cấp nước;xử lý
chất thải 2
8,900,0
00
7,920,0
00
7,920,0
00

17 Dịch vụ khác 7
4,722,5
00
3,327,5
00
3,327,5
00
18
Giáo dục và đào
tạo 3
8,315,7
00
2,085,0
00
2,085,0
00
Tổng số 742
33,485,026,7
51
15,532,096,5
41
12,518,188,8
40
- Theo đối tác:
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp phép phân theo đối tác (Lũy kế đến
20/03/2013)
TT
Quốc gia/vùng
lãnh thổ
Số dự

án
Vốn đầu tư
của dự án ở
nước ngoài
(USD)
Vốn đầu tư
của nhà đầu tư
VN (USD)
Vốn điều lệ của
nhà đầu tư VN
(USD)
1 Lào 227
4,994,334,5
86
4,206,754,8
94
3,997,560,8
77
2 Campuchia 129
2,924,868,1
70
2,739,121,0
40
2,680,135,7
40
3 Liên bang Nga 17
4,630,851,8
31
2,368,314,0
90

966,314,0
90
4 Venezuela 2
12,434,400,0
00
1,825,120,0
00
1,241,120,0
00
5 Peru 5
2,911,829,8
30
1,276,729,8
30
772,229,8
30
6 Malaysia 9
812,622,7
40
412,923,8
44
412,923,8
44
7 Mozambique 1
493,790,0
00
345,653,0
00
345,653,0
00

8 Myanmar 8
348,083,4
73
332,482,7
16
332,482,7
16
9 Hoa Kỳ 97
378,563,6
26
320,119,6
16
317,893,6
16
10 Cameroon 3
371,705,0
04
241,157,3
03
66,913,8
00
11 Angiêri 1
562,400,0
00
224,960,0
00
224,960,0
00
12 Singapore 46
1,022,967,7

01
156,448,1
92
129,855,1
05
13 Australia 15
187,994,5
40
128,658,8
35
127,877,3
35
14 Cuba 2
125,460,0
00
125,460,0
00
125,460,0
00
15 Madagascar 1
117,360,0
00
117,360,0
00
117,360,0
00
20
16

BritishVirginIslands 6

116,584,4
52
116,584,4
52
116,584,4
52
17 Irắc 1
100,000,0
00
100,000,0
00
100,000,0
00
18 CHLB ĐỨC 10
87,136,4
78
82,414,7
71
49,664,7
71
19 Iran 1
82,070,0
00
82,070,0
00
82,070,0
00
20 Haiti 2
99,892,4
80

59,892,4
55
59,892,4
55
21 Indonesia 7
106,710,0
00
50,066,5
00
50,066,5
00
22 Uzbekistan 4
50,180,0
00
49,650,0
00
49,650,0
00
23 Tuynidi 2
36,340,0
00
36,340,0
00
36,340,0
00
24 Công gô 2
224,880,0
00
23,230,0
00

23,230,0
00
25 Đông Timor 1
14,919,2
94
14,919,2
94
500,0
00
26 Hồng Kông 14
15,998,8
75
14,909,7
57
14,909,7
57
27 Trung Quốc 12
15,071,9
00
13,075,5
00
13,075,5
00
28 Thái Lan 8
12,035,2
00
11,837,7
00
11,837,7
00

29 Hàn Quốc 23
10,618,5
00
8,525,5
00
5,025,5
00
30 New Zealand 1
87,040,0
00
8,475,0
00
8,475,0
00
31 Angola 6
5,332,3
87
4,532,3
87
4,532,3
87
32 Ukraina 6
18,237,4
95
3,154,4
95
3,154,4
95
33 Nhật Bản 17
4,294,1

67
3,130,1
67
3,130,1
67
34 Cayman Islands 3
4,150,0
00
2,429,9
00
2,429,9
00
35 Vương quốc Anh 7
2,302,1
00
2,229,4
70
2,229,4
70
36 Tajikistan 2
3,465,2
72
2,079,1
63
2,079,1
63
37 Canada 2
4,030,0
00
2,030,0

00
2,030,0
00
38 Pháp 5
1,877,5
68
1,877,5
68
1,877,5
68
39
TVQ ả rập thống
nhất 4
3,160,1
54
1,860,1
54
1,860,1
54
21
40 Ba Lan 2
7,900,0
00
1,810,0
00
1,810,0
00
41 Nam Phi 2
1,665,0
00

1,665,0
00
950,0
00
42 Cộng hòa Séc 4
5,311,9
00
1,430,6
47
1,430,6
47
43 Đài Loan 4
1,534,6
67
1,416,6
67
1,416,6
67
44 Bỉ 2
1,052,0
00
1,052,0
00
1,052,0
00
45 Cô Oét 1
999,7
00
999,7
00

999,7
00
46 Brunei 2
1,150,0
00
950,0
00
950,0
00
47 ấn Độ 3
23,612,7
27
860,0
00
860,0
00
48 Belarus 1
1,600,0
00
816,0
00
816,0
00
49 Cộng hòa Ghana 2
2,010,1
54
810,1
54
810,1
54

50 ả Rập Xeut 1
1,080,0
00
756,0
00
756,0
00
51 Hy Lạp 1
743,0
00
743,0
00
743,0
00
52 Thụy Điển 1
687,5
00
687,5
00
687,5
00
53 Samoa 1
500,0
00
500,0
00
500,0
00
54 Braxin 1
800,0

00
400,0
00
400,0
00
55 Tanzania 1
300,0
00
300,0
00
300,0
00
56 Bungari 1
152,2
80
152,2
80
152,2
80
57 Bangladesh 1
10,000,0
00
100,0
00
100,0
00
58 Italia 1
350,0
00
50,00

0
50,0
00
59 Mauritius 1
20,0
00
20,00
0
20,0
00
Tổng số 742
33,485,026,7
51
15,532,096,5
41
12,518,188,8
40
- Những mặt còn hạn chế của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
trong những năm qua:
Bên cạnh những thành công nêu trên, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định, trong đó có cả từ phía quản lý nhà nước.
22
Mặc dù có sự hoàn thiện dần về hành lang pháp lý đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, tuy nhiên, thể chế chính sách chưa thực sự hoàn chỉnh, thường đi
chậm so với thực tế, do đó chưa phát huy tác động một cách mạnh mẽ đến sự phát
triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Quản lý hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài còn nhiều bất cập từ khâu quản lý tiền đầu tư đến khâu hậu kiểm.
Trong khâu quản lý việc triển khai thực hiện dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
còn chưa có sự phân định rõ vai trò quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ quản lý ngành, địa phương nơi nhà đầu tư đăng ký kinh doanh hoặc thường trú.

Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ báo cáo của các dự án đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài còn chưa đầy đủ, trong khi lại chưa có các chế tài xử lý việc nhà đầu tư
không thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo. Do đó, công tác quản lý các dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn. Công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài cũng chưa thực hiện có hiệu quả do thiếu thông tin về chính sách đầu
tư của các thị trường tiềm năng. Chưa tổ chức thường xuyên việc tổng kết, đánh giá
hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để rút bài học kinh nghiệm trong
công tác quản lý và đề xuất những biện pháp thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
Các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài như Đại sứ quán, Tổng Lãnh
sự quán, cơ quan Thương vụ chưa thực sự tham gia có hiệu quả trong việc hỗ trợ xúc
tiến các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Một số cơ quan đại diện của Việt Nam
ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận lợi của nhà
đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không chủ động gặp gỡ, báo cáo tình hình
hoạt động của dự án. Có thể nói, đây là nguyên nhân căn bản làm cho các nhà đầu tư
lâm vào tình cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó
khăn trong việc triển khai dự án tại nước sở tại.
Chiến lược tổng thể về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam vẫn chưa
được xây dựng, trừ ngành dầu khí đã có những kế hoạch dài hạn về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài. Chính vì vậy, hiện vẫn chưa có những biện pháp hỗ trợ cụ thể, thiết
thực cho sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu mang tính tự phát của
các nhà đầu tư. Quản lý vốn và nguồn lực ra nước ngoài của các công ty trong khối
nhà nước cũng là một vấn đề quan trọng cần đặt ra.
Việc thu thập các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài chưa được coi
trọng, đặc biệt công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài chưa được quan tâm đúng
mức. Hiện nay, chưa cơ quan nào được giao nhiệm vụ thông tin về môi trường đầu
tư, cơ chế pháp lý, đặc điểm môi trường đầu tư, và cơ hội đầu tư ở các nước. Kinh
nghiệm một số nước, Chính phủ thành lập cơ quan có vai trò hỗ trợ về xúc tiến đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài (như JETRO của Nhật Bản, hoặc KOTRA của Hàn Quốc)

để giúp các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm các cơ hội đầu tư ra nước ngoài. Các
cơ quan phi chính phủ, hiệp hội các doanh nghiệp, sau khi nhận được danh mục các
23
cơ hội đầu tư ở nước ngoài, tổ chức cho các doanh nghiệp đi tìm hiểu môi trường
đầu tư ở nước ngoài, còn ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ tập trung thực hiện xúc tiến
thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, việc xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
còn chưa được chú trọng. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản khiến hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn thiếu bài bản, thiếu sự chỉ đạo thường
xuyên, doanh nghiệp tự khai thác thông tin tốn kém và không đầy đủ. Chính vì vậy,
việc triển khai dự án đầu tư chậm còn vì nguyên nhân là do chủ đầu tư thiếu vốn, tìm
hiểu môi trường đầu tư chưa kỹ lưỡng, nên gặp nhiều khó khăn và chậm tiến độ
trong triển khai thực hiện dự án sau cấp phép.
Là đơn vị đang có phần lớn số lượng và giá trị các dự án đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của Việt Nam, ngành công thương cũng cần đẩy mạnh công tác quản lý
ngành và hỗ trợ phát triển hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó, vai trò
của cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước ngoài đối với hoạt động này cần được đặt
ra và quan tâm đúng mực.
Các cơ quan thương vụ là đại diện của ngành công thương tại nước ngoài, cần
thể hiện vai trò của ngành trong việc nắm bắt thông tin doanh nghiệp, đưa ra giải
pháp và tư vấn chính sách hỗ trợ và phát triển cho ngành, đồng thời phổ biến chính
sách cũng như môi trường đầu tư, kinh nghiệm, thông tin thị trường, địa bàn hoạt
động cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các cơ quan thương vụ cần có các hoạt động kết
nối các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài trở thành cộng đồng để cùng
nhau trao đổi kinh nghiệm, liên kết, mở rộng cơ hội đầu tư, phát triển kinh doanh và
đưa ra các kiến nghị cần thiết với chính quyền nước sở tại nhằm hỗ trợ cho các dự án
đầu tư của Việt Nam tại đây.
Tuy nhiên, hiện nay, theo Quyết định số 4376/QĐ-BCT ngày 8 tháng 8 năm
2008 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thương vụ tại các nước và vùng lãnh thổ, nhiệm vụ của Thương vụ về việc giúp
lãnh đạo Bộ quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của ngành công thương

chưa được đề cập rõ nét. Chính vì vậy, để hoàn thành những trọng trách này, cũng
cần phải xây dựng cơ chế và sửa đổi các văn bản quy phạm liên quan để hỗ trợ cho
các cơ quan thương vụ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
3. Thực trạng tỷ giá hối đoái giai đoạn 1998 – 2013:
- Khái niệm tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái (Exchange rate) là tỷ lệ chuyển đổi, tỷ lệ so sánh từ đơn vị tiền
tệ này sang đơn vị tiền tệ khác. Tỷ giá hối đoái được xác định bởi mối quan hệ cung
– cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Tỷ giá chính thức VND/USD2 có xu hướng đi theo một chu kỳ rõ rệt gồm hai
giai đoạn: giai đoạn suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng, VND mất giá khá mạnh; và
24
khi giai đoạn suy thoái kết thúc, nền kinh tế đi vào ổn định thì tỷ giá lại được neo
giữ tương đối cứng nhắc theo đồng USD.
3.1. Chế độ tỷ giá cố định với biên độ dao động giai đoạn (7/1997 – 26/02/1999):
Đây là giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông
Nam Á, điểm xuất phát là Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và có tầm ảnh
hưởng rộng khắp trên phạm vi thế giới, Việt Nam cũng không tránh khỏi những ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Xét trên góc độ vĩ mô, nền kinh tế Việt Nam phải đối
đầu với những cơn sốc rộng khắp trong các lĩnh vực như tài chính – ngân hàng;
ngoại thương, Mặt khác, những hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái thời kỳ từ
năm 1993-1997 đã trở nên trầm trọng khi cuộc khủng hoảng xảy ra và đặt chúng ta
trước những vấn đề nan giải cấp bách trong việc lựa chọn, điều chỉnh chính sách tỷ
giá hối đoái. Cuộc khủng hoảng đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong
khu vực như: đồng Won (Hàn Quốc), đồng Baht (Thái Lan),… giảm giá mạnh so
với đồng USD. Điều này vô hình trung làm cho VND bị định giá cao hơn thực tế so
với các đồng tiền của các nước trong khu vực.
Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7/1997 chỉ có một lần duy nhất
điều chỉnh biên độ giao dịch từ ± 1% lên ± 5% vào ngày 27/02/1997, thì từ tháng
7/1997 đến đầu năm 1999 NHNN đã nhiều lần thay đổi biên độ (khoảng 10 lần).
NHNN công bố tỷ giá chính thức và biên độ nhưng liên tục được điều chỉnh để phản

ánh và điều tiết tỷ giá thị trường. Trong giai đoạn này nhu cầu mua ngoại tệ luôn lớn
hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có lúc
bị ngừng trệ. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á gây ảnh hưởng tâm lý xã hội, đẩy tỷ
giá thị trường tự do tăng mạnh. Chính phủ đã triển khai các giải pháp mạnh trong
điều hành chính sách tiền tệ như cung ứng tiền cho mở rộng tín dụng, xây dựng cơ
bản, thu mua lúa tạm trữ chờ xuất khẩu, cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà
nước. Ngày 14/02/1998, Chính phủ ban hành quyết định 37/1998/QĐ – TTg “ Về
một số biện pháp quản lý ngoại tệ ” nhằm kiểm soát hoạt động ngoại tệ trên khắp
lãnh thổ Việt Nam, quy định 98 các tổ chức có nguồn thu ngoại tệ từ bán hàng hóa
và dịch vụ phải chuyển ngay vào tài khoản ngoại tệ của mình ở các TCTD được
phép kinh doanh ngoại tệ và phải bán hết số dư ngoại tệ còn lại sau khi đã trừ các
nhu cầu chi ngoại tệ hợp lý. Chính phủ khẳng định quyền và kiểm soát duy nhất của
Nhà nước đối với mọi nguồn ngoại tệ lưu hành trên thị trường cũng như việc chu
chuyển ngoại tệ của nền kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam. Đi đôi với việc triển khai
QĐ 37, các cơ quan chức năng đã ra quân một cách đồng bộ, xử lý một cách kiên
quyết các sai phạm đã làm nhu cầu tăng giả tạo ngoại tệ giảm hẳn.
Ngày 10/01/1998, Thống đốc NHNNVN đã ra Quyết định số 17/98/QĐ -
NHNN ban hành “Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái”. Với sự xuất hiện của quy
chế này, hoạt động kinh doanh ngoại hối đã có được những cơ sở pháp lý cần thiết.
Sau hàng loạt các biện pháp kiểm soát tỷ giá, giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ, kiểm tra
25

×